Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Những khu vực tụ cư và các ngôi miếu của cộng đồng người Hoa ở vùng đất Bình Dương (từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 79 (01/2022)
No. 79 (01/2022)
Email: ; Website: />
NHỮNG KHU VỰC TỤ CƯ VÀ CÁC NGÔI MIẾU
CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở VÙNG ĐẤT BÌNH DƯƠNG
(TỪ NỬA CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX)
The settlement areas and the temples of the Hoa Community in Bình Dương
region (from the second half of 18th century to the middle of 20th century)
TS. Đào Vĩnh Hợp
Trường Đại học Sài Gịn
TĨM TẮT
Sử liệu ghi nhận sự có mặt của người Hoa ở vùng đất Bình Dương từ nửa cuối thế kỷ XVIII. Sang thế
kỷ XIX, người Hoa có mặt ở đây với số lượng ngày càng đông, họ đã có nhiều đóng góp cho sự phát
triển của vùng đất này, nhất là trong hoạt động thủ công nghiệp và thương nghiệp. Những dấu ấn về đời
sống cộng đồng cùng dấu tích các cơ sở văn hoá, tín ngưỡng của người Hoa được tìm hiểu qua những
ghi chép của tác giả đương thời và qua nghiên cứu những dấu tích văn hóa từ các ngơi miếu cộng đờng
hiện tờn. Từ đó, bài viết góp phần làm rõ hơn lịch sử và vai trị của cộng đờng người Hoa ở Bình Dương
nói riêng và ở Nam Bộ nói chung.
Từ khóa: cộng đồng, miếu, người Hoa, Bình Dương, tụ cư
ABSTRACT
The presence of the Hoa people in the land of Bình Dương was indicated in the historical records from
the second half of the 18th century. In the 19th century, the increasing number of Hoa people made many
contributions to the development of this land, especially in handicraft-making and commercial field.
The imprints on the life of the Hoa community in this land as well as the traces of their cultural and
religious facilities are found in contemporary authors’ records and from the existing communal temples.


Basing on these backgrounds, the article aims to clarify the history and role of the Hoa community in
Bình Dương in particular and in the South of Vietnam in general.
Keywords: community, temples, the Hoa people, Bình Dương, settlement

kiện của từng địa phương. Vùng đất Bình
Dương là một trường hợp trường hợp như
vậy. Nhìn chung, người Hoa ở Bình Dương
đã được tập trung nghiên cứu trong những
năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn còn những
vấn đề còn chưa được giải đáp chắc chắn,
chẳng hạn như: thời điểm ghi nhận sự có
mặt sớm nhất của người Hoa ở vùng đất

Đặt vấn đề
Khi đề cập đến người Hoa ở Nam Bộ
trong lịch sử, chúng ta thường nghĩ đến
cộng đồng người Hoa ở các hải cảng, đô
thị lớn như Sài Gòn, Cù Lao Phố, Hà Tiên,
... Thực tế, người Hoa đã có mặt ở hầu
khắp Nam Bộ và tham gia vào nhiều hoạt
động kinh tế – xã hội phù hợp với điều
Email:

32


ĐÀO VĨNH HỢP

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN


Bình Dương, các hướng di dân Hoa đến
vùng đất Bình Dương; thành phần di dân,
các khu tụ cư, cơ sở tín ngưỡng, văn hóa,
xã hội của người Hoa, ...
1. Lược sử người Hoa đến vùng đất
Bình Dương
Chính sử đề cập về thời điểm người
Hoa vào vùng đất Nông Nại (Đồng Nai) ở
nửa cuối thế kỷ XVII. Năm 1679, nhóm
các tướng Trung Hoa là Trần Thượng
Xuyên và Dương Ngạn Địch cập biển Đà
Nẵng (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.110). Chúa
Nguyễn cho họ vào phương Nam khai
khẩn. Riêng nhóm do Trần Thượng Xuyên
lãnh đạo đã sớm phát hiện ra ưu thế của Cù
Lao Phố và tập trung đến đây: “Bọn tướng
các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem
binh thuyền vào cửa Cần Giờ. Trần
Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Giờ rồi
đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đờng Nai”
(Trịnh Hồi Đức, 2005. tr.110).
Mùa xuân năm Mậu Dần (1698),
Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn
Phúc Chu sai làm Thống suất kinh lược xứ
Đồng Nai và tổ chức việc cai trị trên vùng
đất mới phương Nam. Trong thời kỳ lập
phủ Gia Định, khối người Minh Hương
phần lớn được tổ chức thành đơn vị xã, với
2 xã: Minh Hương (ở Sài Gòn) và Thanh
Hà (Cù Lao Phố): “Năm 1698, ... Bắt đầu

đặt phủ Gia Định, ... Lại lấy người Thanh
đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã
Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh
Hương...” (Quốc sử qn triều Nguyễn,
2002, tr.111).
Gia Định Thành thơng chí đề cập đến
sự kiện năm 1776 – đội quân Hoà Nghĩa
của Lý Tài, chủ yếu là người Hoa, có đến
đóng quân ở chợ Thuỷ Vọt (Trịnh Hoài
Đức, 2005, tr. 240). Về sau, Đại Nam thực
lục chép kỹ hơn về sự kiện này: tháng 10
năm 1776, Lý Tài đưa Đông cung Nguyễn

Phúc Dương về an trú tại địa điểm Dầu
Mít, lấy nơi đây làm đại bản doanh để phủ
dụ, tập hợp tàn quân và dân chúng các tỉnh
Nam bộ chống lại quân Tây Sơn (Quốc sử
quán triều Nguyễn, 2002, tr. 188-189).
Đến năm 1846 (Thiệu Trị năm thứ 6),
theo Đại Nam nhất thống chí thì ở huyện
Bình An đã có 2 bang người Thanh: “Huyện
Bình An: …năm Thiệu Trị thứ 6, lại chia
tổng Bình Thể đặt tổng Bình Lâm, nay lãnh
6 tổng, 58 xã thôn ấp, 2 bang người Thanh
và 2 huyện tinh nhiếp” (Quốc sử quán triều
Nguyễn, 2006, tr. 42–43). Đến năm 1867:
người Hoa ở hạt Thủ Dầu Một là 119 người;
khu vực Tân Uyên, thống kê chung với hạt
Biên Hoà là 153 người (Nguyễn Đình Đầu,
1994a, tr.89, 90, 91).

Sau khi Pháp ổn định sự cai trị ở Nam
Kỳ và tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập
năm 1889, số lượng người Hoa tăng lên
nhanh. Căn cứ ghi chép của bác sĩ J. C.
Baurac thì năm 1901, dân ở Thủ Dầu Một
gờm: 36 người châu Âu, 77.768 người
Việt, 981 người Hoa (Huỳnh Ngọc Đáng,
2020, tr. 7). Theo Địa chí Thủ Dầu Một
năm 1910, tỉnh Thủ Dầu Một có 1.118
người Hoa và 1.069 người Minh Hương.
Niên giám thống kê cho biết: năm 1915,
tỉnh Thủ Dầu Một có 2.063 người Hoa và
643 người Minh Hương; năm 1920, tỉnh
Thủ Dầu Một có 1.765 người Hoa và 900
người Minh Hương. Theo tài liệu Cục lưu
trữ Trung Ương: năm 1930, người Hoa ở
Thủ Dầu Một có 3.300 người, năm 1931
tăng 6.420 người, năm 1932 sụt còn 5.551
người, năm 1933 còn 4.866 người và năm
1935 chỉ còn lại 1.732 người (Trần Bạch
Đằng (chủ biên), 1991, tr.473,532,533.).
Tại tỉnh Thủ Dầu Một, năm 1953, người
Hoa là 4.385 người (chiếm 3,69% dân số
của tỉnh –118.769 người) (Nguyễn Đình
Đầu, 1994b, tr.112).
33


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY


No. 79 (01/2022)

địa lý, đây là nơi thuận tiện cho cả giao
thông thủy, bộ. Thứ hai, bấy giờ khu vực
này chính là huyện lỵ Bình An, tạo cho
người Hoa cảm thấy yên ổn về mặt pháp
luật để định cư… Thứ ba, nơi đây dự trữ
nguồn nguyên liệu đất sét lớn để phát triển
nghề gốm. Nhóm Hoa Phúc Kiến vốn thạo
nghề gốm đã biến nơi đây trở thành trung
tâm gốm quy mô với địa danh nổi tiếng là
“khu Lị Chén”. Người Hoa cũng đã góp
phần tạo nên sự phồn thịnh của khu chợ
Phú Cường – khu chợ lớn nhất của vùng
Thủ Dầu Một, Đại Nam Nhất Thống Chí
chép: “Chợ Phú Cường ở thơn Phú Cường
huyện Bình An, tục danh chợ Dầu Một
(hay Dầu Miệt), ở bên lỵ sở huyện, xe cộ
ghe thuyền tấp nập…” (Quốc sử quán triều
Nguyễn, 2006, tr.80).
Năm 1861, có 200 người người Hoa
bn bán ở Chợ Thủ Dầu Một. Năm 1889,
làng Phú Cường đã có khoảng 1000 người
Hoa trên tổng số dân là 5000 người dân
của làng (Lê Quang Mỹ (chủ biên) (1990),
tr.21,25). Người Hoa ở khu chợ Phú Cường
đông đúc và làm ăn thịnh vượng nhất là
dưới thời Pháp thuộc, nổi bật là trong

2. Các khu vực tụ cư của người Hoa

tại vùng đất Bình Dương
2.1. Khu tụ cư Thủ Dầu Một
Như đã trình bày, Gia Định Thành
thơng chí và Đại Nam thực lục đề cập đến
sự kiện Hoà Nghĩa quân của Lý Tài đến
Thủ Dầu Một vào năm 1776 (Quốc sử
quán triều Nguyễn, 2002, tr. 188-189). Đây
cũng là mốc thời gian xưa nhất mà một sự
kiện ở vùng đất Bình Dương được đề cập
trong chính sử của nhà Nguyễn. Ở đây
đáng lưu ý, Lý Tài vốn là một Hoa thương,
đội quân Hoà Nghĩa của ông chủ yếu cũng
là thương nhân, phu thuyền và nơng dân
người Hoa. Do đó, việc chọn nơi đóng
qn tại Thủ Dầu Một khi ấy hẳn là do ông
ta đã có những cơ sở nhất định, ở nơi mà
đã có ít nhiều người Hoa đến tụ cư, làm ăn
trừ trước.
Vùng đất trung tâm của Thủ Dầu Một
– Bình Dương được các bộ sử của nhà
Nguyễn gọi là khu chợ Thuỷ Vọt, Dầu Mít
hay Dầu Miết. Vào cuối thế kỷ XVIII –
đầu thế kỷ XIX, vùng này đã có nhiều thôn
xã. Người Hoa đã sớm phát hiện ra nhiều
ưu thế của vùng đất này. Thứ nhất, về vị trí
34


ĐÀO VĨNH HỢP


TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

khoảng thời kỳ 1930 – 1945.
2.2. Khu tụ cư Tân Uyên
Hoàng Việt Dư Địa chí cho biết đời
sống người Hoa tại tổng Bình An, địa điểm
giáp ranh Biên Hồ và Tân Uyên (ngày
nay): “600 tầm, hai bên bờ đều có dân cư
trù mật, họ chun trờng trầu cau, dâu và
mía, đến chợ thơn Bình Thảo, chợ ở bên bờ
bắc, tục gọi là chợ Bến Cá, quán xá đơng
đúc, giữa đó có nhà ngói, người Kinh,
người Hoa bn bán tấp nập, họ sống bằng
nghề làm đường cát, đường phèn, đường
đen, đường phổi, dầu phụng” (Lê Quang
Định, 2005, tr.298).
Chợ Bến Cá (Bình Thảo thị) nằm ở
khu vực tiếp giáp của Biên Hoà, Vĩnh Cửu
của Đồng Nai; chợ Tân Uyên (Đồng Sứ
thị), chợ Tân Ba (Đồng Bản thị) khi ấy
cũng nằm trong địa bàn huyện Phúc Chính,
dinh Trấn Biên, nhưng ở bên bờ nam và
đối diện với chợ Bến Cá (nay thuộc địa bàn
Tân Un) trong một khu vực có hệ thống
chợ liên hồn (Quốc sử quán triều Nguyễn,
2006, tr.79). Đây là những chợ có mối liên
hệ giao thương gần gũi với nhau, lấy đoạn
sông giữa cù lao Thạnh Hội (tên cũ là Quy
Dữ) và cù lao Bạch Đằng (tên cũ là Ngô
châu) ở hai bên bờ sông Đồng Nai làm con

đường giao thương.
Rõ ràng là ở Tân Uyên đã có sự hiện
diện của Hoa thương vào cuối thế kỷ XVIII
– đầu thế kỷ XIX. Sự phát triển thời kỳ này
của Tân Uyên, có lẽ liên quan chặt chẽ với
bộ phận người Hoa ở Cù Lao Phố, nhất là
sau sự kiện quân Tây Sơn đốt phá Cù Lao
Phố vào năm 1776 (Trịnh Hoài Đức, 2005,
tr.238). Thời điểm giao tranh này, đa phần
người Hoa ở đây đã chuyển vào cư trú tại
khu vực Chợ Lớn (Cao Tự Thanh, 2007,
tr.120 – 125). Bấy giờ, Tân Uyên cũng là
một điểm đến của người Hoa.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Tân Un

gắn chặt với dịng chảy giao thơng, thương
mại trên sông Đồng Nai, quan hệ chặt chẽ
với Cù Lao Phố và đơ thị Biên Hồ (Bàn
Lân). Đất sét của Tân Uyên là nguồn cung
cấp nguyên liệu cho làng gốm Tân Vạn.
Cuối thế kỷ XVIII, người Hoa đến Tân
Uyên là từ hướng Cù Lao Phố – Biên Hoà
là chủ yếu. Từ nửa cuối thế kỷ XIX, Tân
Uyên mới đón các nhóm Hoa đến từ Lái
Thiêu, Thủ Dầu Một. Vùng Tân Phước
Khánh là nơi đã sản xuất gốm sứ khá lâu
đời. Tục truyền, chú Mầu Quảng Đông đến
Tân Phước Khánh khá sớm và đã phát triển
nghề gốm tại đây. Năm 1867, nhân dịp
chùa Bà khánh thành, chú Mầu đã cúng

cho chùa một lư hương và một lọ hoa. Bình
hoa vẽ hình bát tiên có in chữ “Tân Khánh
thơn” (Nguyễn An Dương (chủ biên),
1992, tr.13).
2.3. Khu tụ cư Lái Thiêu
Từ khá sớm, vùng đất Lái Thiêu(2)
cũng được người Hoa lựa chọn định cư. Họ
tụ cư ở các địa điểm: “Tân Thới (Thái)
Tây, xã Tân Thới giáp Đơng (có cả xã
Thịnh Hịa nhập vào) và xã Tân Thới (thơn
Vĩnh Phúc)” (Trịnh Hồi Đức, 205, tr.136).
Sự hưng thịnh của người Hoa tại đây gắn
liền với sự phát triển của khu phố chợ Lái
Thiêu và cả ngành sản xuất gốm. Nhờ việc
khai thác nguồn nguyên liệu đất sét phong
phú tại chỗ, người Hoa Phúc Kiến đã mở lò
gốm. Lái Thiêu là trung tâm phát triển của
gốm sứ Bình Dương từ nửa cuối thế kỷ
XIX. Đặc biệt, Lái Thiêu tuy không phải là
nơi sản xuất gốm nhiều nhất nhưng được
định danh cho loại gốm sản xuất của toàn
xứ Thủ Dầu Một vào đầu thế kỷ XX, đó là
dịng gốm “Lái Thiêu”.
2.4. Khu tụ cư Búng, An Thạnh
Tiếp theo sự định cư sớm ở vùng Tân
Uyên và Lái Thiêu, từ nửa cuối thế kỷ
XIX, người Hoa đã chuyển đến sinh sống ở
35



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 79 (01/2022)

các địa bàn lân cận, trong đó có vùng đất
xung quanh chợ Búng, hay vùng chợ Bình
Nhan Thượng, chợ Cây Me (khu vực Bình
Nhâm, Búng nay là các xã An Sơn, An
Phú, Bình Nhâm, Hưng Định, Thuận Giao)
và thị trấn An Thạnh hiện nay. Khu vực
này nằm giữa trung tâm buôn bán Lái
Thiêu và Phú Cường, đờng thời có nhiều
tiềm năng phát triển nghề gốm bởi khơng
gian rộng rãi, nhiều đời gị với trữ lượng
đất sét tốt. Như vậy, từ Lái Thiêu lên, nghề
gốm của người Hoa đã phát triển ra vùng
xung quanh chợ Búng như An Thạnh,
Hưng Định, …
2.5. Khu tụ cư Dầu Tiếng
Xuất hiện muộn nhất và gắn việc trồng
cao su của tư bản Pháp và các điền
chủ người Việt, người Hoa nửa đầu thế kỷ
XX trở đi. Khi công ty đồn điền cao su
Mít-sơ-lanh (Société des Plantations et
pneumatiques Michelin au Việt Nam) ra
đời và triển khai trồng cây cao su ở Dầu
Tiếng vào năm 1917, cộng đờng người Hoa
cũng có mặt. Dầu Tiếng là nơi tụ cư của
người Hoa ở Bình Dương mà khơng gắn
với q trình phát triển đơ thị hay trung

tâm gốm như các điểm tụ cư trước đó
(Huỳnh Ngọc Đáng, 2012, tr.105,114).
3. Các ngôi miếu Hoa ở vùng đất
Bình Dương
3.1. Sự ra đời các miếu Hoa
“Miếu”: chữ Hán, miếu là 廟 hoặc 庙(3)
là một cái điện nằm trước cung vua, nơi để
thờ cha mẹ, ông bà, tổ tiên của nhà vua, là
nơi thờ quỷ, thần, ... (Thiều Chửu, 2004,
tr.180) hay là nơi thờ thần thánh, một đền
thờ nhỏ (Viện ngơn ngữ, 2003, tr.632). Tại
vùng đất Bình Dương, những cơ sở tín
ngưỡng, văn hóa phục vụ cho nhu cầu của
cộng đờng, trong đó có các ngơi miếu Hoa
đã được ra đời ngay tại những khu tụ cư
dựa trên tiềm lực nhất định về kinh tế và xã

hội của người Hoa tại vùng đất mới.
Buổi ban đầu có mặt tại Bình Dương,
người Hoa làm hoa màu, bn bán, thủ
cơng nghiệp như: nghề làm đường cát với
các lò đường; nghề cưa ván, đóng ghe tải,
... nghề gốm chưa xuất hiện. Từ giữa thế kỷ
XIX, người Hoa đến Bình Dương đơng
hơn, họ phát triển nhiều ngành nghề, đặc
biệt là làm gốm. Bấy giờ, Bình Dương có 3
trường phái gốm sứ: Quảng (đa số chủ lị
gốc ở Quảng Đơng), Triều Châu (chủ lị
gốc Triều Châu đa số là người Hẹ) và Phúc
Kiến (chủ nhân có gốc Phúc Kiến). Đến

đầu thế kỷ XX, “Trong tỉnh có được
khoảng 40 lị gốm, trong đó An Thạnh 5 lị,
Hưng Bình có 8, Tân Thới có 1, Phú
Cường có 11, Bình Chuẩn có 3 và 9 lị ở
Tân Khánh. Xưởng chính ở Lái Thiêu”
(Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương, 2007,
tr.10). Người Hoa ở Bình Dương cịn có
các nghề làm thuốc bắc, làm bánh mì, điêu
khắc đá, vẽ tranh trên kiếng, làm mì sợi,
làm chao, chế biến cà phê, sản xuất xà
bông, nghề nhộm... (Huỳnh Ngọc Đáng,
2012, tr.126–146,177). Đờng thời, người
Hoa cịn hoạt động thương mại, góp phần
dựng nên và phát triển các phố chợ.
Người Hoa Bình Dương chủ ́u có
ng̀n gốc từ các địa phương ven biển phía
Nam, Đơng Nam Trung Hoa với 4 nhóm
phương ngữ: Phước Kiến, Quảng Đơng,
Triều Châu và Khách Gia (Hẹ/Hakka, Sùng
Chính). Tại Bình Dương, người Hoa cũng
tổ chức thành các bang. Thời Pháp thuộc,
cả bốn nhóm Hoa ở Thủ Dầu Một đều đã
có bang riêng của mình: “Năm 1885, chính
quyền thuộc địa cho phép Hoa kiều thành
lập các bang người Hoa tại Thủ Dầu Một
là: Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến
và Hải Nam. Riêng số lượng người Hẹ ít
nên sáp nhập vào bang Triều Châu”
(Huỳnh Ngọc Trảng (Chủ biên), 2009,
36



ĐÀO VĨNH HỢP

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

光緒十八年.泰昌和敬送 Quang Tự thập
bát niên. Thái Xương Hịa kính tống
(Quang Tự thứ 18 – 1892). Thái Xương
Hòa phụng cúng) (Huỳnh Ngọc Trảng,
2009, tr.108,109). Năm 1945, Thiên Hậu
cung này đã bị chiến tranh huỷ hoại và
phải ngưng hoạt động một thời gian dài,
cho đến năm 1996, người Hoa ở đây
mới xây dựng lại Thiên Hậu cung trên nền
đất cũ.
 Hai ngôi miếu, điện Ông Bổn: cùng
thời điểm ra đời miếu Thiên Hậu, cộng
đồng người Hoa Phúc Kiến ở Thủ Dầu
Một cũng lập hai miếu thờ Ông Bổn:
福安廟 Phước An miếu: (nay thuộc khu 7,
phường Chánh Nghĩa). Miếu do người Hoa
Phúc Kiến họ Lý lập năm 1882, thờ ông tổ
của 7 họ khác nhau – 七府大人Thất Phủ
Đại nhân. Đây cũng là từ đường của họ
Lý, với tên gọi “Lý thị gia miễu” (福武殿),
Phước Võ điện (điện Ông Bổn Bà Lụa):
nay thuộc khu 9, phường Chánh Nghĩa.
Điện được những người họ Vương (Phúc
Kiến) dựng khoảng năm 1885, thờ Huyền

Thiên Thượng Đế.
 Đầu thế kỷ XX: miếu Thiên Hậu
(chùa Bà Thủ Dầu Một, chùa Bà Bình
Dương, chùa Bà Phú Cường): (nay thuộc
số 04, đường Nguyễn Du, phường Phú
Cường) được thành lập. Năm 1923, khu
vực chợ Thủ Dầu Một đã thành lập bốn
bang người Hoa riêng theo từng nhóm
phương ngữ và họ đã chung sức xây lại
ngơi mới tại vị trí mới này.
Như vậy ở khu vực Thủ Dầu Một (Phú
Cường xưa), cho đến nửa đầu thế kỷ XX,
cộng đồng người Hoa đã xây dựng được
một số ngôi miếu khá khang trang với số
lượng miếu được xây dựng là 4 miếu. Mặc
dù có cộng đờng người Hẹ lúc này cũng
chưa có miếu nhưng cơ bản các bang

tr.108).
3.2. Miếu Hoa ở những khu vực tụ cư
3.2.1. Tại khu tụ cư Thủ Dầu Một
 Miếu Thiên Hậu bên bờ rạch Hương
Chủ Hiếu
Miếu Thiên Hậu được người Hoa
Phúc Kiến tạo lập vào năm 1867 bên bờ
rạch Hương Chủ Hiếu, ở Phú Cường. Niên
đại thành lập miếu gắn liền với nghề làm
gốm của người Hoa: “Tục truyền về việc
chú Mầu (Tân Phước Khánh) đã dâng cúng
một lư hương và bình hoa cho chùa Bà

Thủ Dầu Một nhân dịp khánh thành vào
năm 1867” (Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên),
2009, tr.32). Qua đó cho thấy bang Phúc
Kiến ở Thủ Dầu Một đã hình thành rất
sớm, có thể trước năm 1867.
Năm 1871, miếu được tôn tạo, cất
thêm 3 gian nhà bếp ở bên phải. Ngày 10
tháng 3 năm Canh Thìn (1880), bang
trưởng Triều Châu – Khách Gia là Văn
Dịch cùng với các bang chức là Phương
Phát, Quách Xương Nguyên, Tăng Phúc
xin chính quyền làm thêm 3 gian bếp. Văn
bản ghi: “Trước đây chúng tôi đã lập một
miếu thờ tại địa phận thôn Phú Cường, sau
đó dân bang Triều Châu được làm thêm 3
gian nhà bếp phía bên phải miếu. Nay dân
bang Khách Gia cũng được Bà bảo hộ
muốn xin làm thêm ba gian bếp nữa ở phía
bên trái” (Huỳnh Ngọc Đáng, 2012, tr.57).
Sự kiện trên cho thấy trước 1871,
người Triều Châu ở Thủ Dầu Một đã khá
đơng và có tổ chức bang. Người Sùng
Chính đã đến định cư đông ở Thủ Dầu Một
nhưng chưa có bang riêng mà chung
bang với người Triều Châu. Năm 1892, lò
Thái Xương Hòa sản xuất nhiều lư hương
tráng men lưu ly và cúng cho miếu Thiên
Hậu Thủ Dầu Một 1 chiếc. Lư có 3 chữ
天后宫 Thiên Hậu cung và lạc khoản:
37



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 79 (01/2022)

người Hoa đã đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng
của cộng đờng cũng đã có nơi thờ tự. So
với khu vực Lái Thiêu, những miếu ở Thủ
Dầu Một khơng sớm hơn nhưng lại có sự
phát triển mạnh mẽ nhờ vào cộng đồng cư
dân buôn bán phát đạt tại đây. Tín ngưỡng
thờ Thiên Hậu và Ơng Bổn chiếm chủ đạo,
Ơng Bổn ở đây được các dịng họ người
Hoa Phúc Kiến quan niệm là những vị
tổ tiên dịng họ có ng̀n gốc từ ở q
hương cũ.
3.2.2. Tại khu tụ cư Tân Uyên
Ở Tân Khánh, 関聖帝廟 Quan Thánh
Đế miếu (chùa Ông) được người Hẹ dựng
khoảng cuối thế kỷ XIX, tại ấp Khánh
Thạnh, Tân Phước Khánh. Miếu thờ vị
thần chính là Quan Cơng. Buổi đầu sơ
khai, miếu rất nhỏ, chỉ chánh điện, dựng
bằng gỗ, tọa lạc cạnh bờ suối thấp. Theo
các vị cao niên, tại bậc thềm lên xuống của
miếu khi cịn ở địa điểm cũ có ghi năm
1913. Đây có thể là năm trùng tu, tơn tạo,
bấy giờ miếu được xây bằng đá ong, hợp
chất ô dước. Người Hoa Phúc Kiến họ

Vương ở Tân Khánh cũng xây dựng
福義堂 Phước Nghĩa đường (miếu Ông
Bổn) (nay thuộc phường Tân Phước
Khánh) vào năm 1936, ban đầu thờ vị thần
chính là Quan Thánh, về sau chuyển sang
thờ chính Huyền Thiên Thượng Đế.
So với những khu vực tụ cư khác ở
Bình Dương, những miếu ở khu vực tụ cư
Tân Uyên được xây dựng muộn hơn, đầu
thế kỷ XX các ngôi miếu mới được thành
lập. Các ngôi miếu này chủ yếu của cư dân
làm nghề gốm nên họ thờ những vị thần
thánh thiên về bảo hộ đất đai, trong đó nổi
bật là Ơng Bổn. Sự xuất hiện của những
ngôi miếu cộng đồng đã chứng tỏ cư dân
Hoa ở đây đã có cuộc sống ổn định và phát
triển vững chắc.

3.2.3. Tại khu tụ cư Lái Thiêu
 Hai ngôi miếu Thiên Hậu
Cơ sở thứ nhất – miếu Phú Tân hội: ở
sát bờ sông, nay thuộc khuôn viên quán cà
phê Thùy Linh, đường Ngô Quyền, khu
phố Long Thới, phường Lái Thiêu. Theo tư
liệu dịng họ Trần thì người lập miếu ban
đầu là ông sơ của họ, một người Hoa
Quảng Đông. Năm 1913, miếu được xây
lại, quay mặt về hướng bắc và giữ nguyên
trạng cho đến nay (Huỳnh Ngọc Đáng,
2012, tr.80). Thực tế ghi nhận: di tích cịn

bức hoành bằng gỗ khá dày, khắc
恩同四海 Ân Đồng Tứ Hải, niên đại:
癸卯年 Quý Mão niên (1843); tại mái hiên
chính diện di tích có 3 chữ Hán: 富新會
Phú Tân hội. Định danh di tích khơng phải
là Thiên Hậu cung như các cơ sở khác. Căn
cứ vào niên đại Đồng Trị trên chuông đồng
của miếu Thiên Hậu tách ra từ cơ sở này
(miếu Thiên Hậu tại số 150 đường Châu
Văn Tiếp), có thể đoán định năm Quý Mão
trên bức hoành ở Phú Tân hội phải là năm
1843. Như vậy, có thể sớm hơn năm 1843,
người Hoa đã tụ cư tại Lái Thiêu.
Cơ sở thứ hai – Thiên Hậu cung (cung
Thiên Hậu – Chùa Bà Lái Thiêu): số 150,
đường Châu Văn Tiếp, phường Lái Thiêu.
Cung có một chng đờng ghi 同治九年
Đồng Trị cửu niên (Đờng Trị năm thứ 9 –
năm 1870). Từ đó, có thể đoán định niên
đại xây dựng miếu gần thời điểm này.
Theo lời kể truyền miệng của các vị cao
niên, Thiên Hậu cung được lập sau cơ sở
thứ nhất vài chục năm, lý do là cơ sở thứ
nhất quá hẻo lánh, nguy hiểm khi đến cúng
viếng, nhất là trong thời chống Pháp.
 Miếu Quan Đế: cùng với 2 miếu
trên, trong giai đoạn sớm, tại Lái Thiêu cịn
có 關帝廟 Quan Đế miếu (miếu Quan
Thánh – chùa Ông Ngựa): nay ở đường
38



ĐÀO VĨNH HỢP

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

 Miếu Ông Bổn: Năm 1934, họ
Vương của bang Phúc Kiến xây dựng miếu
Ông Bổn (Phước Thọ Đường) ở ấp Hưng
Lộc, xã Hưng Định.
Như vậy là so với niên đại các miếu ở
khu vực Lái Thiêu và Phú Cường thì miếu
Hoa sớm nhất khu vực Búng, An Thạnh có
niên đại muộn hơn, nhưng lại sớm hơn
những miếu đầu tiên của hơn hai khu vực
Tân Uyên và Dầu Tiếng. Mặc dù niên đại
của miếu thường khơng phản ánh đầy đủ
quá trình định cư của các lớp cư dân vì
thường người Hoa phải định cư một thời
gian, khi có đủ tài lực, vật lực mới có thể
xây dựng miếu (theo xu hướng chung,
những miếu thời kỳ đầu thường được làm
tạm bợ, sau mới xây dựng kiên cố). Tuy
nhiên, nhìn vào mối tương quan về thời kỳ
xây dựng và phát triển của các miếu Hoa,
thấy được xu hướng chuyển dịch cư dân từ
Lái Thiêu lên và từ Phú Cường sang khu
vực Búng, An Thạnh ở nửa cuối thế kỷ
XIX, họ tập trung đến đây để khai thác đất
sét trong lĩnh vực làm gốm.

3.2.5. Tại khu tụ cư Dầu Tiếng
Miếu Thiên Hậu – Chùa Bà Dầu Tiếng
(khu phố 3, thị trấn Dầu Tiếng, huyện Dầu
Tiếng). Lúc đầu tọa lạc bên bờ sơng Sài
Gịn. Ngơi miếu nhỏ, miếu xây dựng thơ
sơ, bằng gạch, lợp ngói âm dương. Năm
1937, người Hoa Quảng Đông và Triều
Châu dời về vị trí như ngày nay.
Khu vực Dầu Tiếng là nơi định cư
muộn nhất của người Hoa ở Bình Dương
và ở đây, đến nay, cũng khơng có nhiều
ngơi miếu được thiết lập. Do chỉ có một
ngơi miếu Thiên Hậu nên miếu này có vai
trị rất nổi bật trong đời sống cộng động
người Hoa, là nơi tập trung đời sống tín
ngưỡng, văn hoá của cộng đờng người của
tất cả các nhóm cư dân. Hàng năm vào dịp
vía Bà, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Tiêu,

Châu Văn Tiếp, phường Lái Thiêu. Ngôi
miếu được xây dựng gần với thời gian lập
Thiên Hậu (ở đường Châu Văn Tiếp). Một
đại hồng chung của Quan Đế miếu khắc
niên đại năm Bính Tuất (1886), rất có thể
miếu được thành lập gần vào thời điểm này.
Mặc dù Lái Thiêu không phải là nơi
sớm nhất ghi nhận có sự có mặt của người
Hoa ở vùng đất Bình Dương, nhưng miếu
Thiên Hậu (Phú Tân Hội) ở Lái Thiêu lại
là ngôi miếu sớm nhất của người Hoa ở

vùng đất này, miếu được xây dựng từ năm
1843. Tiếp đến là việc thành lập Thiên Hậu
cung và Miếu Quan Đế, đều được xây
dựng vào nửa cuối thế kỷ XIX. Những
ngơi miếu này khẳng định nhóm cư dân
Hoa ở đây đã xây dựng được đời sống ổn
định nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi, gần với
các vùng vốn đã phát triển như Sài Gịn,
Biên Hồ và cũng rất thuận lợi giao
thương lên các khu vực khác của Bình
Dương lúc bấy giờ như Búng, Phú Cường,
Tân Uyên.
3.2.4. Tại khu tụ cư Búng, An Thạnh
• Miếu Thiên Hậu: Miếu Thiên Hậu
– Chùa Bà Búng: hiện tọa lạc trên đường
ĐT.745. Năm 1874, người Hoa mua đất
xây chùa Bà: “…người bán Nguyễn Văn
Chánh ở huyện Bình An, chánh tổng ngụ
tại thơn An Thạnh, cả nhà lẫn đất diện
tích 5ha, bán cho cơng sở Đờng An Thiên
Hậu, có phân định ranh giới 4 hướng
đông, tây, nam, bắc. Mời Phương Hồng
Phát làm chứng và hai bên cùng nhau dựa
theo giá là 100 đồng, đất vĩnh viễn thuộc
về công sở Đồng An” (Huỳnh Ngọc
Đáng, 2012, tr.89). Di tích hiện cịn 2 cặp
liễn có nội dung giống nhau, tuy có 2 niên
đại: Ất Tý (1905) và Quý Sửu (1913). Có
thể khẳng định rằng người Hoa đến định
cư ở Búng vào khoảng giữa thế kỷ XIX

(trước năm 1874).
39


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 79 (01/2022)

miếu Thiên Hậu luôn là trung tâm sinh
hoạt văn hoá, với những lễ hội lớn được tổ
chức không chỉ thu hút của người Hoa mà
cả cư dân của thị trấn Dầu Tiếng và các địa
phương lân cận.
3.3. Nhận định
Sự ra đời của hàng loạt các miếu Hoa
ở Bình Dương, đặc biệt là vào nửa cuối thế
kỷ XIX cho thấy người Hoa đã có mặt,
định cư và đủ tiềm lực để xây dựng nên
những thiết chế tín ngưỡng, văn hoá, xã
hội. Ban đầu, các ngơi miếu thường có quy
mơ nhỏ, được làm bằng vật liệu thô sơ, tuy
nhiên vẫn được kiến tạo dựa theo nguyên
tắc của thuật phong thủy. Theo yếu tố âm,
tính nữ nên các miếu Bà thường tọa lạc
gần nguồn nước của hệ thống sơng (các
nhánh sơng Sài Gịn, sơng Đờng Nai cùng
các kênh rạch địa phương: rạch Lái Thiêu,
rạch Hương Chủ Miếu, …). Đồng thời ở
trung tâm thị tứ, gần chợ (chợ Thủ Dầu
Một, chợ Bưng Cầu, chợ Lái Thiêu, khu

chợ Búng, ...), giữa các khu dân cư đông
đúc hiện hữu, ... nhằm thuận tiện cho hoạt
động sinh hoạt và tín ngưỡng. Về sau, các
di tích được sửa chữa, xây dựng lại kiên cố
hơn theo kiểu đền miếu truyền thống của
người Hoa.
Sự hiện diện của các miếu Hoa đã ghi
dấu lịch sử hình thành và định cư của
người Hoa tại Bình Dương nói chung và
q trình tụ cư của cộng đờng người Hoa
các vùng đất Phú Cường, Chánh Nghĩa,
Bưng Cầu, Lái Thiêu… nói riêng. Nhìn
chung, tại mỗi khu vực tụ cư, người Hoa
đều tạo lập miếu Thiên Hậu, miếu Quan Đế
hay miếu Ông Bổn. Thiên Hậu, Quan Công
và Ông Bổn được chọn làm đối tượng thờ
cúng chính ở nhiều miếu. Đặc biệt, Ông
Bổn được người Hoa ở Bình Dương quan
niệm với nhiều ý nghĩa khác nhau. Người
Hoa họ Vương gốc Phúc Kiến cho rằng

Ông Bổn của họ là Huyền Thiên Thượng
Đế và thờ ở 4 cơ sở tín ngưỡng. Người Hoa
họ Lý coi ông Bổn là thủy tổ của 7 họ:
Lực, Chu, Qch, Tiêu, Triệu, Lý và Châu.
Tín ngưỡng về Ơng Bổn gắn với các tộc họ
lớn và nghề gốm. Từ xưa, các miếu Hoa
trở thành địa chỉ thực hành tín, lễ hội như
Vía Bà (Thiên Hậu), Vía Ơng (Quan
Thánh, Ơng Bổn), … Lịch sử miếu Hoa

còn phản ánh những biến thiên của vùng
đất và con người nơi đây. Bên cạnh việc
trùng tu, tơn tạo và xây mới các miếu, tại
Bình Dương cũng ghi nhận hiện tượng chia
tách các miếu. Điều này khẳng định sự lớn
mạnh của người Hoa nói chung, đặc biệt là
các nhóm cộng đờng và tộc họ người Hoa
tại vùng đất mới Bình Dương.
Kết luận
Trong quá trình tụ cư và sinh sống lâu
dài tại vùng đất Bình Dương, cộng đồng
người Hoa tạo lập nên các thiết chế kinh tế,
văn hóa, xã hội trên vùng đất mới. Đó là
những khu lò gốm; khu phố Hoa với các
cửa hàng, dãy tiệm; các trường học; khu
nghĩa trang … Trong số đó, đặc biệt hơn cả
là các miếu Hoa với những giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể phản ánh việc bảo lưu
văn hóa tín ngưỡng dân gian của người
Hoa tại Bình Dương. Dù đã trải qua bao
biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc trầm nhưng
cộng đờng người Hoa đã có nhiều đóng
góp quan trọng trong cơng cuộc khai phá,
xây dựng vùng đất Bình Dương. Các miếu
Hoa ở Bình Dương ghi dấu quá trình định
cư và phát triển của cộng đờng người Hoa
ở vùng đất Bình Dương, sự giao lưu văn
hóa Việt – Hoa. Đờng thời, qua đó cịn cho
thấy chủ nhân di sản – những người Hoa
tha hương đã dần hội nhập vào đại gia đình

các dân tộc Việt Nam.
Bài báo thuộc đề tài NCKH – Mã số
CS2019–14. Tác giả chân thành cảm ơn
40


ĐÀO VĨNH HỢP

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

Trường Đại học Sài Gòn đã tài trợ cho đề
tài nghiên cứu này.
Chú thích:
(1) Vùng đất Thủ Dầu Một được thư
tịch thời Nguyễn gọi tên theo các địa danh:
“Mầu Mít”, “Dầu Miết”. Trước năm 1808:
thuộc tổng Bình An, huyện Phước Long,
dinh Trấn Biên; Từ 1808 đến 1861: thuộc
tổng Bình Chánh, huyện Bình An, phủ
Phước Long, trấn Biên Hịa (từ 1832 là tỉnh
Biên Hịa); Kể từ năm 1861: tỉnh Biên Hồ
thời Nguyễn được chia thành các hạt thanh
tra, rồi hạt tham biện, địa giới Bình Dương
khi ấy liên quan đến hạt tham biện Biên
Hồ và Bình An. Năm 1876, hạt Bình An
đổi tên thành hạt Thủ Dầu Một. Năm 1889,
hạt Thủ Dầu Một đổi thành tỉnh Thủ Dầu
Một (Nguyễn Đình Đầu, 1994, tr. 89–97).
Năm 1956: tỉnh Thủ Dầu Một được tách
thành 3 tỉnh: Bình Dương, Bình Long và

Phước Long. Giai đoạn 1975 – 1996, Bình
Dương, Bình Phước, Bình Long lại được
nhập lại và đổi tên thành tỉnh Sông Bé.
Đến năm 1997, tỉnh Sơng Bé lại được tách
ra thành 2 tỉnh Bình Dương và Bình
Phước. Tỉnh Bình Dương nay có 3 thành
phố, 2 thị xã và 4 huyện. Theo số liệu điều

tra dân số: cuối năm 2019, Bình Dương có
17.993 người Hoa (chiếm tỷ lệ 0.74% tổng
dân số của tỉnh, dân số tỉnh: 2.426.561
người). Thủ Dầu Một ngày nay là tên gọi
đơn vị thành phố cấp huyện, là tỉnh lỵ của
tỉnh Bình Dương. Trong bài, tác giả đề cập
về khu định cư Thủ Dầu Một theo hàm
nghĩa là khu vực thành phố Thủ Dầu Một
hiện nay.
(2) Lái Thiêu vốn là tên của một con
rạch và một cái chợ, đã xuất hiện trong sử
liệu từ đầu thế kỷ XIX: “…đến Rạch Lái
Thiêu, rạch ở bên bờ bắc (sơng Sài Gịn),
rộng 10 tầm, chảy lên hướng bắc 150 tầm,
hai bên bờ đều có dân cư nhưng thưa thớt,
họ trồng nhiều cau, chuối, cam, quýt, ở cuối
rạch có chợ thơn Bình Nhan, tục gọi là chợ
Lái Thiêu, quán xá ở chợ rất sơ sài” (Lê
Quang Định, 2005, tr. 307). Đầu thế kỷ
XIX, tại vùng Lái Thiêu tồn tại một số thôn
làng đã lập ra từ thế kỷ XVIII của người
Việt, nổi bật nhất là các làng: Tân Thới, Phú

Long, Phú Hội, Bình Nhâm, Hưng Định, An
Thạnh, … Khu chợ Lái Thiêu hình thành
chủ yếu trên địa giới làng Tân Thới.
(3) Chữ 庙: cách viết trong Gia Định
thành thơng chí và sử nhà Nguyễn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hội khoa học Lịch sử Bình Dương (2007). Thủ Dầu Một xưa qua địa chí 1910 và bưu ảnh.
Xí nghiệp in Nguyễn Minh Hoàng.
Lê Quang Mỹ (chủ biên) (1990). Phú Cường lịch sử văn hóa và truyền thống cách mạng.
Sơng Bé. (Bản sơ thảo, lưu tại Thư viện tỉnh Bình Dương).
Huỳnh Ngọc Đáng (2012). Người Hoa ở Bình Dương. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Huỳnh Ngọc Đáng (2020). Thủ Dầu Một cuối thế kỷ XIX qua ghi chép của bác sĩ J. C.
Baurac. Truy xuất từ: (Hội KHLS Bình Dương): 1–18.
Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên) (2009). Gốm Lái Thiêu. Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM.
Lê Quang Định (2005). Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí (Bản dịch của trung tâm ngơn ngữ
Đơng Tây). H́: NXB Thuận Hóa.
41


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 79 (01/2022)

Nguyễn An Dương, Trường Ký & Lưu Ngọc Vang (1992). Gốm sứ Sông Bé. Sơng Bé:
NXB Tổng hợp Sơng Bé.
Nguyễn Đình Đầu (1994a). Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Biên Hòa. TP.HCM:
NXB Thành phố Hờ Chí Minh.
Nguyễn Đình Đầu (1994b). Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ Lục tỉnh. TP.HCM:
NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

Quốc sử quán triều Nguyễn (2002). Đại Nam thực lục. Tập 1. (Viện Sử học biên dịch).
Hà Nội: NXB Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2006). Đại Nam nhất thống chí. Tập 5. (Tái bản lần thứ 2.
Viện Sử học biên dịch). Huế: NXB Thuận Hóa.
Thiều Chửu (2004). Hán – Việt từ điển, TP. HCM: NXB TP. Hờ Chí Minh.
Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1991). Địa chí tỉnh Sơng Bé. Sơng Bé: NXB Tổng hợp Sơng Bé.
Trịnh Hồi Đức (2005). Gia Định thành thơng chí. (Bản dịch của Lý Việt Dũng). Đồng
Nai: NXB Tổng hợp Đồng Nai.
Viện ngôn ngữ (2003). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng.
Ngày nhận bài: 20/10/2021

Biên tập xong: 15/01/2022

42

Duyệt đăng: 20/01/2022



×