Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nghiên cứu phong tục và tập quán người Hà Nội: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.08 MB, 85 trang )

^ ụ c m a c h ứ Ị/

Cũng như tục cưới xin, tục ma chay ở Hà Nội cũng
theo với cả nước mà thực hiện theo những gì đã bàv
vẽ trong sách Thọ Mai gia lễ. Các phốp tắc làm tang,
tổ chức tế tự, chôn cất, để phần mộ, để tang theo tháng
theo năm, về cơ bản khơng có gì đổi khác. Tất nhiên
là tùy theo thời gian. Song cơ bản vẫn chung theo
phong tục. Nhìn theo mặt trái của chiếc mề đay, thì
rõ ràng chỉ ở Hà Nội, chỉ ở tầng lớp quan lại, giàu có
(vừa phong kiến, vừa thị dân) ta cũng dễ nhận ra nhiều
đám tang có cái thực và có cái giả của nó. Vũ Trọng
Phụng trong tiểu thuyết Sô' đỏ, Nguyễn Công Hoan,
trong các truyện ngắn: Báo hiếu đ ể trả nghĩa cha, trả
nghĩa mẹ v.v... đã dùng bút pháp trào lộng để tả bộ
m ặt thực của những đám tang, đám giỗ, thực sự là
những tấn tuồng cười ra nước mắt.
Song thật ra thì ở Hà Nội, trong chuỗi thời gian
lịch sử, đã có những đám tang ghi được dấu ấ n đẹp
đẽ, cảm động đáng làm gương cho mn đời. Có thể
nhắc đến:

93


1- Đám tang của vua Lê Hiển Tông (cuối th ế kỷ
18) là một đám tang bề thế, phải công nhận là rất mực
trang nghiêm. Có tang, ià có nỗi đau về người đã
khuất, có nỗi buồn của người thân, người sơ. Cho nên,
đi lễ tang mà hớn hở cười đùa, hoặc gâv nên cảm giác
bất kính là điều phạm tội. N g u y ê n soái Nguyễn Huệ


từ đất Tây Sơn miền Nam đom quân ra Bắc, không rõ
ông nắm được phong tục luật lệ nước nhà như th ế nào
mà đã tỏ ra rất nghiêm khắc giữ gìn. Vua Hiển Tơng
mất, ơng là chồng của cơng chúa Ngọc Hân, là con rể
của vua cha, đã gần như nắm tồn quvền chủ trì việc
tang, đ iều khiển cho hoàng tộc và triều thần tổ chức
đám tang rất chu đáo. Theo dõi việc chuyển cữu, ông
nhác thấy một viên quan có ý cười cợt, đã lập tức ra
lệnh chém ngay. Tang gia cũng như quan lại, lính tráng
đ ều khiếp đảm, phải giữ đúng phép tắc để phục vụ
đám tang được chu đáo.
2- Đám tang cụ cử nhân Lương Văn Can (1854 1927) lại có nét đặc biệt riêng, không giông bất kỳ một
cuộc lễ tang nào. Cụ Lương đỗ cử nhân; vốn quê ở Nhị
Khê (huyện Thường Tín), nhưng đã ra ở nhà số 4, phố
Hàng Đào. Ông là người chủ trì nhà trường Đơng Kinh
nghĩa thục, danh nghĩa là Hiệu trưởng, nên cũng bị bọn
thống trị theo dõi. Mãi cho đến 1913, chúng bắt ông
đưa đi biệt xứ (sang Nam Vang), năm 1921 mới cho về
Hà Nội. Ông bất thường lâm bệnh mất ngày 12 —6 1927. Bọn cầm quyền đến tận nhà, lấy cớ là ông bị
bệnh dịch tả phải mai táng ngay lúc 5 giờ chiều. Đám
ma lơ thơ chỉ có một scí người hàng phố biết, đã đến
tiễn đưa ơng. Nhưng ngay sau đó, thực tế đã diễn ra

94


hồn tồn khác hẳn:
Lương Văn Can là một chí sĩ nhiệt tình yêu nước
cho đốn hơi thở cuối cùng. Biết mình sắp mất, ơng đã
có chuẩn bị. Ơng nhờ một nhà sư tin cẩn, in hàng ngàn

mảnh giấy có sáu chữ: ‘‘Bảo quốc túy, tuyết quốc sỉ”
(Giữ gìn tinh hoa của nước, rửa nhục cho nước), và giao
cho con cháu, bảo sỗ phát những tờ đó cho những
người đi dự đám tang sau nàv của ông. Giấy ph át ra từ
lúc đưa chôn, được chuyền tay nhau và ngav đêm ấy
cho đến vài ngày sau, nhà ông ở Hàng Đào tấp nập
những đoàn người kén đốn. Họ đến để xin tờ giấy di
ngôn, rồi tổ chức ngay lễ viếng tại nhà. Có đ ến 500
câu đối viếng, đặc biệt có một câu chữ Hán ai ai cũng
tán thưởng rồi thuộc lịng:
Trung hiếu nhất mơn, thiên cổ trọng
Di ngơn lục tự, vạn nhân sư
(Trung hiếu một nhà, nghìn thuở trọng
Di ngơn sáu chữ, vạn người noi).
Tiếp những người viếng đã cùng với gia đình rước
hương án có đặt ảnh tới chỗ mộ để làm lễ rước vong
về nhà. Đi đầu là hai xe cao xu, đặt ảnh Lương Văn
Can và bát hương thờ, tiếp theo là ba xe khác dành cho
con cháu. Từng đoàn người áo dài khăn trắng chỉnh tề
đi theo, mỗi lúc lại đông thêm. Bọn cảnh sát kéo ra
ngăn chặn rồi xô xát với quần chúng. Địch đã bắt đi
nhiều người, sau đó có bảy người bị xử phạt tù 6 tháng.
Kỹ sư Lương Ngọc Khuê, cháu gọi Lương Văn Can bằng

95


bác kể lại: Hôm ấy, cháu nội cụ cử là Lương Dân
Nguyên bị chúng đánh suýt chết, may Khuê có võ, đạp
tên cảnh binh ngã sấp, ông Nguyên mới chạy thốt.

3.
Đám tang Phan Thanh: Có lẽ đây là một đám
tang đặc biệt, cả đ ế n bây giờ cũng là hiếm có. Phan
Thanh là một đảng viên, chiến sĩ của Mặt trận Dân
chủ, giáo viên trường tư thục Thăng Long. Ông nổi
tiếng về tài ngôn luận. Ông bị bệnh từ trần ngày 1 - 5
- 1939. Mặt trận Bình dân đã tổ chức lễ tang đưa ông
về nơi an nghỉ cuối cùng.
Trong một bản báo cáo gửi về Quốc tê Cộng sản
năm 1939, Nguyễn Ái Quốc viết rõ: Đám tang Phan
Thanh có đại biểu 14 tỉnh về dự, có 153 vịng hoa và
dài hai cây sơ". Gia đình n h ậ n được 110 điện viếng.
Chưa bao giờ có một đám tang như th ế ở Hà Nội.

96


'Cục
# mâhổi
• hè
Làng q Việt Nam ta rất thích hội hè. Hình như
làng nào cũng thấy có lỗ hội. Hình thức thấp là những
cuộc tế lễ cúng bái ở đình làng, hoặc ở các đền chùa.
Hình thức cao là những ngày hội lễ kéo dài có khi đến
ba bơn hơm. Có nhiồu loại lỗ hội: hội mùa, hội nơng
nghiệp, hội lịch sử, hội tơn giáo.
Có lỗ Hà Nội là địa phương có nhiều lễ hội hơn
bất cứ nơi đâu trong cả nước. Vì ở Hà Nội, từng địa
phương có lịch sử riêng. Đây là quê hương của nhiều
danh nhân anh hùng nghĩa sĩ, là nơi phát tích hoặc tụ

hội nhiều tín ngưỡng và cũng là nơi ghi những chứng
tích về văn hoá, nghệ thuật...
Chúng ta ghi lại dưới một vài lễ hội tiêu biểu:
Lễ hội lịch sử: Đặc biệt lễ hội Gióng. Người nước
ngồi đến dự lễ hội phải cơng nhận là hiện tượng độc
đáo mà thế giới không thấy có. Ngày hội mà thật ra là
sự tái hiện cuộc chiến đấu hào hùng của thời kỳ lịch
sử xa xôi.

97


Cũng dạng này, có những lễ hội để nhắc đến
những sự kiện lịch sử nhất định. Có những hội để tôn
thờ an h hùng liệt sĩ.
- Lễ hội tôn giáo: Nước ta xem phật giáo là quốc
giáo, n ê n ở đây có nhiều hội chùa.
- Lễ h ộ i có tính chất nghệ thuật.
Điều thuận lợi là các loại lễ hội như thế đều hiện
hữu trên địa bàn Hà Nội. Lễ hội Hà Nội đồng thời cũng
là lễ hội Việt Nam.

HỘI GIÓNG (PHÙ ĐỔNG - GIA LÂM - HÀ NỘI)
Làng Phù Đổng thuộc tổng Phù Đổng, huyện Tiên
Sơn, tỉnh Bắc Ninh nay là xã Phù Đổng huyện Gia Lâm
(ngoại th à n h Hà Nội). Tổng Phù Đổng xưa gồm 5 làng:
Phù Đổng, Phù Đức, Đổng Viên, Đổng Xuyên, Hội Xá.
Ngày 9 tháng tư âm lịch hàng năm, ở đây mở hội Gióng
để tưởng n iệm anh hùng thần thoại Phù Đổng Thiên
Vương. Đây là một diễn xướng dân gian tổng hợp, một

hội trận trên quy mô lớn, được mở đầu từ th ế kỷ XI.
Tổng Phù Đổng có 13 giáp, các giáp luân phiên
nhau, mỗi giáp một lần trong vịng 10 năm, ìàm chủ
lễ. Giáp chủ hội chịu trách nhiệm tổ chức lễ hội, cắt
cử các ông h iệu cờ, hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu trung
quân, hiệu tiểu cổ. Đó là các tướng trong đội quân Văn
Lang, có hai lọng đi kèm. Riêng ông hiệu cờ đi bốn
lọng vì ơng là tượng trưng cho thiên tướng. Những
người đóng các vai này là trai làng của giáp, tuổi tìí

98


12 đến 20. Hai làng đóng vai thám báo cũng phải cử
mỗi làng 3 thanh niên đổ làm hiệu chiêng, hiệu trống
và đi thám thính.
Người ta chọn các trai làng trong cả tổng tuổi từ
18 đến 36, để lập đội quân. Có tất cả 10 đội quân mỗi
đội gồm 1 chỉ huy và 13 qn. Ngồi ra, cịn lấy thêm
12 người để lập đội vệ binh. Người đóng vai này mặc
đồng phục: Mảnh vải đen quấn quanh bụng, có thắt
lưng rủ xuống như khô cho, bôn hông đeo một túi vải
nhỏ màu đen hình lưỡi liềm có tua viền. Túi được thắt
đính vào mảnh vai chéo màu hoa cà quấn quanh người
hoặc buộc bằng những sợi dây đen. Tất cả đều cầm
quạt, đội mũ đen có đường thêu dát những mảnh gương
nhỏ tròn bao quanh đầu, chân đi đất. Người đóng vai
chỉ huy thì mắc áo thụng xanh, đội mũ đen, chân đi
giày hạ.
Cờ chỉ huy may bằng lụa, nhuộm m àu hồng

hồng, dài tám vng khổ vải 0.35 mét. Cờ nàv do hiệu
cờ cầm để sử dụng trong trận đánh.
Vai giặc Ân là những cô gái tuổi từ 10 - 13 tuổi.
Có tất cả 28 nữ tướng, đội mũ thôu hoa, tay cầm kiếm
và một lá cờ đuôi nheo làm hiệu, áo dài màu sặc sỡ,
đeo nữ trang. Người dân ở đâv quan niệm giặc bị thua
- yếu hơn nên phải là vếu tô" âm, ta thắng - m ạnh hơn
nên phải là yếu tơ" dương. Do đó đóng vai quân ta là
trai tráng khoẻ mạnh, quân giặc toàn là thiếu nữ đóng.
Trận đánh được chuẩn bị từ ngày mùng 6. Từ
ngày 6 tháng 12 là những ngàv giặc Ân đang đe doạ.

99


Bởi thế, mở đầu hội, ngày 6 tháng từ là ngày rước
nước. Người dân tin rằng đâv là nước ông Gióng ban
cho dân để sinh sơng và trồng trọt đồng thời đây là
ngày 1Ĩ1Ở đầu hội trận - lễ rước binh khí sẵn sàng chiến
đâu với địch.
Ngày hơm ấy, các vai quân và tướng rước hai
chiếc chum Ngô (chum do người Tàu làm, tương truyền
do Đặng Thị Huệ cung tiến, đặt ở đền Thượng) từ đền
Thượng đến giếng đền Hạ - Phường Ải Lao múa hát
dẫn đường. 24 binh sĩ của Thiên tướng đứng thành hai
hàng dọc, m ặt quay vào nhau dọc đường ra đến giếng.
Theo hiệu lệnh tiếng chiêng của vị chỉ huy, người đứng
sát giếng cầm chiếc gáo đồng múc nước chuyển cho
người trước mặt mình. Họ chuyển chéo nhau cho đến
người đứng sát bên chum. Người này nhận gáo nước

rồi theo hiệu lệnh đổ nước lên miếng vải đỏ che kín
miệng chum để nước được lọc sạch trước khi chảy vào
chum. Hiệu lệnh lúc này là trống và chiêng trong khi
đó phường Ái Lao múa hát trước sân đền.
Nước đã đủ (mỗi chum 3 gáo), mọi người rước
nước về đền Thượng.
Chọn ngày lành đầu tháng tư, một vị hương chức
chữ tốt được mời đến viết chữ lệnh lên cờ hiệu. Ngày
7 tháng tư, miều được rước từ nhà Hiệu cờ ra đến Hạ,
miều là túi cờ lệnh. Đó là một cái bao hình chữ nhật
thêu rồng phượng, đoạn cuối có tua rủ. Trong bao này
là lá cờ hiệu cuốn lại, một trăm tờ giấy bản trắng, hàng
ngàn m ảnh giấy màu, cắt hình con bướm và 60 mẩu
gỗ hương tròn như những đồng xu. Đồng thời với việc




100




rước miều, một mâm cỗ chay cũng được rước lên đền
Thượng để tế ơng Gióng trong lời ca tiếng nhạc của
phường Ái Lao. Trưa hơm ấy có múa rối nước ở hồ
trước đền.
Ba hồi trống dóng dả. Trong nhà thuỷ đình vang
lên tiếng gọi: A, bớ rối!
Pháo nổ vang, lá cờ hiệu từ dưới nước bật lên,

tung bay phấp phới. Ông Nhất - nhân vật giáo đầu của
Bùi Xá xuất hiện và giới thiệu tên các trị trình diễn.
1. Trị cô tiôn hái hoa: Cô tiôn mặc áo tứ thân,
giải xanh giải đỏ xuất hiện, múa lượn mềm mại theo
nhịp hát nom thật dịu dàng, rực rỡ.
2. Trò đánh đu: Diễn tả một đôi trai gái đang
đánh đu. Chàng trai quấn khăn đầu rìu, áo tứ thân màu
nâu, quần vàng, thắt lưng điều, cô gái mặc váv thâm,
áo dài mớ ba thắt vạt trước bụng, thắt lưng hoa lý, vếm
trắc, tóc bỏ đi gà.
Tiếp đó là các trị múa tứ linh, văn cơng nóc lều,
múa cá, đi cày đi bừa và rước kiệu. Kết thúc trò rối
nước là tiết mục đánh hổ.
Sang ngày mùng 9 tháng tư là ngày hội trận. Mở
đầu là lễ rước miều từ đền Hạ ra đền Thượng, về đến
đền Thượng, pháo hoa được đốt lên, các đội Phù giá
xếp hàng biểu diễn. Phù giá mình trần, đóng khơ" bao
đen, giải khố dài qng chóo qua ngực, qua vai, vòng
ra sau lưng và thắt lại ở hơng. Bên hơng đeo túi đen
hình sừng trâu, đầu đội mũ vải đen thêu kim tuyến,

101


đính mặt gương ưịn nhỏ, đằng sau có mái rủ xuông gáy.
Theo lệnh xướng, họ xếp hàng hai rồi hàng bốn,
quay phải quay ưái rồi bước đi, lúc đầu chậm rãi, sau
chạv rầm rậ p lộn vòng và đứng lại làm lễ. Theo nhịp
trông chiêng, họ chắp hai bàn tay trước ngực, tiến lên
sát bàn thờ Gióng thì đứng lại, giơ chân trái đá sang

trái, giơ c h ân phải đá sang phải rồi đi thụt lùi. Các
động tác được biểu diễn hùng mạnh, nhanh nhẹn, gọn
gàng và đ ẹp mắt. Đây là những động tác quân sự được
cách đ iệ u hố và biểu diễn theo tiếng trơng khẩu
"Tơng" và tiếng kẻng "kẻng".
Tiếng trông khẩu và tiếng kẻng CUỐI cùng vang
lên, tất cả dùng tay phải rút từ trong túi bên sườn ra
chiếc quạt giơ lên quá đầu, miệng "dạ" thật to xong bỏ
tay xuống. Động tác này được lặp lại 9 lần. Sau đó, cả
đội d àn hàng ngang, đi thụt lùi, miệng lại hô "dạ, dạ".
Đến giờ Thìn cùng ngày hơm đó, phường Ải Lao
diễn trị săn hổ. Trò săn hổ tượng trưng cho sức mạnh
hùng hổ đã phải quy phục ơng Gióng. Đồn múa trong trị
này còn gắn với truvền thuyết vua Lý Thái Tổ nhớ ơn
Thiên tướng đã gửi doàn ca múa đốn cung tiến thờ thần.
Tất cả các vai diễn đều mặc áo dài thâm, chít
khăn thâm, đi chân đất, thắt lưng xanh bỏ múi bên
sườn trái trừ người đội lốt hổ.
rrv

N

1* A __



Trò diên gôm:
- Một người đánh trống nhỏ
- Một người đánh mèn


102


- Một người đóng vai đi săn cầm cung nỏ hay súng
- Một người đóng vai đi câu, cầm cần câu.
- Hai người cầm cờ lau đóng trẻ chăn trâu. Cờ lau
là hai cái gậy dài, đầu gậv buộc chùm tua giấy ngũ sắc
làm bông lau.
- Một người đội lốt hổ.
- Mười hai người đánh sênh và hát
- Một ông Trùm.
Trước khi diễn trò này, phường đốn trước sân đền
vừa múa vừa hát theo nhịp sênh.
Đợi hiệu cờ vào lễ xong, phường Ải Lao bắt đầu
diễn trò săn hổ thờ thánh. Vai hổ tiến lên trước, bước
vào chiếu nhất, đứng thẳng lên bằng hai chân sau hơi
choãi ra. Hổ quv xuống, đầu cúi xuống rồi đứng dậy
lùi lại một bước. Hổ làm động tác trên 4 lần rồi đứng
về phía bên trái tượng Gióng. Tiếp đó, hai người cầm
cờ lau, hai người cầm trống con và mèn, hai người cầm
cần câu và cung tên vào quỳ gốì, chắp tay lễ rồi đứng
sang bên phía hổ.
Động tác của họ ăn khớp với nhịp trống và mèn.
Sau đó, 12 người cầm sênh tiến lên đứng vào chiếu ba
xếp thành hai hàng, gài sênh vào thắt lưng, đứng chụm
gót chân, hai cánh tay gâ'p và nâng lên ngang vai, bàn
tay ngửa về phía bàn thờ, xong quay sang trái và quay
sang phải. Họ làm động tác này 4 lần, cầm sênh gõ 4
tiếng rồi chia thành hai hàng đứng hai bên. Ba tiếng


103


trống đ á n h lên, cả phường đồng thanh hát.
Sênh, trống, m èn được đánh lên để giữ nhịp và
được cách điệu thành động tác múa, người đ á n h trống
đ á n h xong ba tiếng mở đầu, các c ặp sênh liền lên
tiếng giữ nhịp. Mỗi câu hát được ba tiếng sênh điểm,
còn trống cứ đánh hai tiếng khoan, ba tiếng mau, tiếng
cuối bao giờ cũng hồ với tiếng sênh.
Bài h á t chấm dứt, ơng trùm đứng ra nói lớn:
- Chiềng hàng đội, đền đây có ơng Hổ lang. Ai
n h â n tài ra bắt, chúa hội thưởng.
Hổ n h ả y ra múa nhiều động tác đẹp mắt.
Người đi săn cầm cung và người đi câu xuất hiện,
vừa làm động tác khoa trương vừa đối thoại.
- Tôi với anh! - Anh với tôi!
- (Vỗ ngực khoe khoang) Mạnh đã có tơi!
- (Làm vẻ hớn hở xắn tay áo) Bạo đã có tơi!
- (Chỉ tay về phía hổ tỏ vẻ sỢ sệt) Tơi trời tơi
khơng d á m ạ.
- (Lo lắng nhìn trước nhìn sau) Có làm sao anh là
tơi cho chóng.
Họ vờn múa, đối đáp trong tiếng khèn, tiếng
ưông. Điệu múa bắt hể diễn ra trong tiếng nhạc, tiếng
h á t của phường Ai Lao. Nội dung lời hát này khơng
liên quan gì tới việc săn hổ. Rồi hai người đi săn giương

104



cung bắn hổ bị thương lăn đùng ra chiếu, hai người
nhảy vào bắt trói trong tiếng hát của phường Ái Lao.
Sau đó cả phường đứng vào làm lỗ trước bàn thờ
rồi ra về trong tiếng hát ca ngợi chiến công.
Trong lúc đó, cạnh đầm sen giữa hai con đê cũ
và mới ở cuối làng Đổng Viên, trên bãi Đống Đàm, 28
tướng giặc đã chờ sẵn trôn 28 kiệu (tượng trưng cho
đồn giặc). Tướng Đốc và tướng Ngựa đứng cuối cùng.
Các tướng giặc ngồi kiệu nhỏ cỏ 4 người khênh, có lọng
che, chimg quanh có quân gia hầu hạ bảo vệ. Các đồn
trại giặc đóng thành hàng, cờ quạt đủ màu, binh khí
tua tủa, chiêng trơng ầm ĩ gây nơn một khơng khí
chiến tranh nghiêm trọng.
Giờ vị, qn thám báo chạy về báo tin giặc vây
Đông Đàm, chiêng trông nổi lên ba hồi liền. Tất cả
chỉnh đốn hàng ngũ, chuẩn bị xuất quân. Phường Ái
Lao vừa múa vừa hát bài ca ngợi Gióng.
Dứt tiếng hát, các ơng Hiệu - tướng của Gióng đến
làm lễ trước bàn thờ Gióng. Các động tác trong lễ rước
miều được nhắc lại. Ba hồi trống lệnh nổi lên. Một
tiếng "dạ" to và đồng loạt của toàn qn vang lên, tất
cả nhằm phía Đơng Đàm rầm rập tiến bước.
Hai hiệu tiến cổ - tướng tiên phong - mặc áo đỏ,
quần vàng chẽn ống, đội mũ thêu rồng, cầm trống khẩu
đi đầu dưới các lọng đỏ có tua vàng bng lóng lánh.
Tiếp theo là đội qn tiên phong gồm làng Áo đỏ và
làng Áo đen.

105



Làng Áo đỏ: Mặc áo đỏ, quần vàng, áo đỏ đội nón
thường, cầm roi gỗ sơn son, kéo đi ồn ào vui nhộn.
Làng Áo đen: Mặc áo the thâm, quần trắng, thắt
lưng xanh và đỏ bỏ múi bên sườn, cầm cờ đủ màu rực rỡ.
Tiếp đến là phường Ải Lao, áo the thâm, quần
trắng nón dứa, khăn lượt, giầy ban, vừa đi vừa múa
hát.
Sau đó là h iệu trơng, hiệu chiêng mặc áo đỏ,
quần vàng thắt đai lưng thôu, đội mũ ngũ long, tay cầm
dùi gỗ có hai lọng che, tiếng chiêng treo trơn giá có 2
người khiêng. Các qn gia (người nhà 2 ông) quần áo
xênh xang, vác binh khí theo hầu.
Hiệu trung quân là 8 người mặc áo vàng n ẹp đỏ,
quần chèn ống, cầm bát bửu đi trước giữa hai lọng ngũ
sắc che trên và n hiều quản gia vác binh khí hộ vệ.
Xen vào là phường bát âm, tiếng nhạc tưng bừng hoà
vào nhịp h àn h qn.
Đi sau là đội phù giá ngoại, đóng khơ" bao đen,
m ình trần, khăn hoa cà vắt chéo qua vai, đeo túi bán
nguyệt nhiều màu, cầm dùi đồng, siêu đao, hoạ kích
p hủ việt, cờ trìu, cờ tuyết, chạy rầm rập theo tiếng
trống và kẻng "tung, beng".
Đội phù gia nội mang lồng mũ, bao đai, phương
du, hòm màn, kiếm trần, long đao... tức quân trang,
binh khí của thánh đi kèm long giá. Long giá là con
ngựa gỗ sơn trắng có bánh xe khoảng 60 người dùng
hai dây dài buộc vào đ ế gỗ để kéo long giá. Sau 9 tiếng


106


trông hiệu, long giá được kéo đi vùn vụt cuốn cát bụi
tung trời.
Sát sau long giá là đội quân lương. Đám rước kéo
dài hàng cây số. Khi qua đình ở chợ Gióng thì tốn
qn báo chờ sẩn nhập vào trước long giá. Đồn qn
kéo đi kín một qng đê dài 3m.
Bãi chiến trường được bài trí rất đơn giản. Giữa
hai con đô là hồ sen. Địch án ngữ mặt hồ. Trên khoảnh
đất lơ nhơ những mơ gị trải 3 chiếc chiếu trắng, xén
đầu. Giữa mỗi chiếc chiếu có chiếc bát úp trên tờ giấy
trắng. Chiếu tượng trưng cho đồng bằng, bát là đồi núi,
giây là mâv, ý nói Gióng, vượt qua vùng đồng bằng,
đạp bằng đồi núi, quét sạch mây mù (cũng có ý kiến
cho đây là đồn trại giặc đóng như bát úp). Sát nền con
đê cũ dựng một bàn thờ. Ngựa, binh khí, cờ quạt tụ cả
ở đâv. Các ông hiệu tập trung quanh mấy chiếc chiếu.
Hai rưỡi chiều thì trận đánh bắt đầu. Ơng hiệu cờ cầm
cờ tiến vào chiếc chiếu phía gần bàn thờ. Ơng thủ chỉ
làng Phù Đổng và ông thủ từ mở lá cờ và túi nhiễu.
Những m ẩu giấy vàng hương tung ra, dân chúng tranh
nhau nhặt để lấy khước. Ông thủ từ cũng giữ lại một
ít trong cái hộp sơn son để sau này sẽ p h ân p hát cho
dân trong tổng.
Cờ được phất lên. Ông hiệu cờ bước ba bước, chân
ưái chếch sang tả, chân phải sang hữu. Ông nhấc chân
phải đá tung chiếc bát và tờ giấy - tượng trưng cho việc
vượt qua núi, qua chín tầng mây. Sau đó, ơng đứng vào

giữa chiếu, hai bàn chân sát vào nhau, nhảy tại chỗ
hai lần. Ơng quv gỗì bên phải xuống chiếu, ch ân trái

107


làm th àn h góc thẳng. Hai tay cầm cờ, ông phất sang
phải, sang trái rồi múa ba lần. Đám đông cũng cùng
đếm theo đ ể ông khỏi nhầm lẫn. Xong, ông đứng dậy
đi giật lùi khỏi chiếu. Cung cách tấn cơng thần bí ấy
lặp lại hai lần trên hai chiếc chiếu còn lại. Chiếc
chiếu thứ ba cuốn đi là giặc Ân tan vỡ.
Quân của Thiên tướng thắng trận, trật tự kéo về
đến. Tới đ ền Thượng, ông hiệu cờ cắm cờ trên giá binh
khí đặt trước hương án, chiêng trông dàn hai bên hiên.
Con ngựa bạch dừng trước bái đường. Tiệc lớn được
dọn ra đ ể thết tướng sĩ.
Nhưng địch chưa bị đánh bại hẳn, lại tập trung
quân đội kéo đến Phù Đổng. Đội Thám báo ở Đổng
Xuyên đến ư ìn h với Thiên tướng là địch đang lấn đất.
Mọi người lại lao ra chiến trường. Mỗi lần, ông hiệu
cờ lướt qua đám giặc người ta lại đốt một bánh pháo
đùng. Tới đ ề n Mẩu, nơi hai nguyên sối địch đóng
qn, đồn qn liền quay ngoắt lại, tiến gới Sịi Bia
đơi d iệ n với làng Phù Đổng. Ở đây sẽ diễn ra trận
đ ánh thứ hai. Ba cái chiếu lại dăng ra, ba tiếng trống
làm hiệu. Ồng hiệu cờ diễn lại các động tác như ở trận
đ án h thứ nhất. Chỉ khác là lần này ông phất lá cờ từ
trái sang phải. Chiếc chiếu cì cùng cuốn đi là bọn
địch đã hoàn toàn thất bại. Chúng sắp hàng trên sườn

đê dẫn vào đ ền Thượng để xin đầu hàng. Hai chánh
phó tướng địch phải rời ghế ngồi, quỳ xuống ưước bàn
thờ, lạy 4 lạy vái 2 vái. Ông thư từ cầm lấv thanh gươm
của chúng lấy mũi gươm hích mũ áo chúng ra, đem
vào chính diện dâng lên Thiên tướng - tượng trưng cho

108


sự hành quyết 2 tướng đầu sỏ. Các tướng khác được
tha. Quân của Thiên tướng mở tiệc ăn mừng.
Hôm sau, ngày 10 tháng tư là ngày duyệt quân,
kiểm tra khí giới, làm lễ tạ thần và đặt tiệc để khao
tướng sĩ. Các tướng giặc quy hàng đến nộp cống cũng
được dự tiệc.
Ngày 11 tháng tư lại có cuộc rước ra giếng, lấy
nước về rửa binh khí. Trị chơi thi đâu lấv giải được tổ
chức khắp làng. Dân làng diễn trò trước đền và hát
chúc tụng Thánh giữa đền Trung.
Ngày 12 tháng tư là ngày xem xét lại bãi trận. Cờ
trắng treo lên các cây sào, cắm dọc đường làng Đổng
Viên ra Đơng Đàm, chứng tỏ kẻ địch hồn tồn bị
khuất phục. Dân làng làm ]ễ lớn dâng thần. Đốn tối, 4
nghệ nhân xuất sắc nhất trong hội được chọn trình bày
Lạc Thành. Đến đây là kết thúc hội gọi là hạ hội.

109


Qý€âi đền 6Yé^ơa

m

Đền Cổ Loa thuộc xã c ổ Loa, huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội, nằm trong khu vực thành c ổ Loa Kinh đô của vua Thục An Dương, đầu thế kỷ III tr. CN.
Đền Cổ Loa thờ An Dương Vương (gần có am thờ Mỵ
Châu), hàng năm dân c ổ Loa vào hội ngày mùng 6 tháng
Giêng âm lịch, kỷ niệm ngàv Thục Phán nhập cung.
Sáng ngàv mùng 6, làng tổ chức cuộc rước văn tế
từ nhà vị tiên chỉ ra đền, để t ế thần, theo thơng lệ 12
ơng trưởng xóm đ ế n đơng đủ, ai nấy cũng phải sửa lễ,
văn tế được soạn thảo đặt lên giá. Đi đầu đám rước là
phường bát âm, tiếp là quan viên trong làng, sau đó là
dân đinh mang lọng, rước giá văn tế và kiệu long đình.
Cuộc rước dừng lại giữa sân đền; giá văn tế được đặt
lên long đình và long đình được khiêng tới kê trước
hương án đồ thờ. Phường bát âm tấu nhạc cùng với các
nhạc cụ dân gian khác, chủ tế làm lễ tế thần, sau đó
các quan viên và những người dự lễ, lần lượt vào lễ
trước bàn thờ c ầu nguyện nhà vua phù hộ cho d â n
làng.

110


Buổi chiều là đám rước thần có đơng đảo dân
làng tham dự, một số người hoá trang áo trắng đỏ, đeo
râu giả. Thứ tự cuộc rước: cờ quạt, long đình, các tư
khí bộ bộ bát bửu, phường bát âm, các quan viên lễ
phục bưng theo khí giới của vua (cung, kiếm, tên, nỏ)
kỳ mục xóm Chùa khiêng long đình có bài vị vua, kỳ

mục các thơn khác có kiệu và long đình thơn mình,
mỗi thơn cũng có phường bát âm, cờ quạt và hoá trang
riêng cùng dân chúng. Đám rước kéo dài chừng vài
giờ, từ săn đền cổ Loa - ra đến đầu làng thì giải tán,
thơn nào về thơn ấy, chỉ có Xóm Chùa - xóm sở tại
của đền, khiêng lung dìnli bài vị Vua về đền.
Hội đền Cổ Loa còn kéo dai nhiều ngày với nhiều
trò vui: đánh bài, đánh đáo, chới đu, cờ người... các
buổi tôi lại có hát chịo thờ thần.

111


QýGôỉ

é^jối

Làng Nhội hay kẻ Nhội, một làng Việt c ổ có từ
thuở An Dương Vương, nay là thơn Tliuỵ Lơi, xã Thuỵ
Lâm, huyện Đông Anh, thành phô" Hà Nội. Thuộc đất
làng Nhội có núi Sái, trên núi có đền thờ Trấn Vũ, vị
thần có cơng trừ được quỷ gà trắng, giúp vua Thục An
Dương xây thành c ổ Loa. Theo tục truyền, để nhớ ơn
vị thần đã phù giúp, vua An Dương, khi xây xong
thành, tự đến núi Sái để tạ ơn và cho xây dựng m iếu
điện nguy nga để hàng năm vào ngày 12 tháng Giêng
âm lịch cùng triều đình từ c ổ Loa sang núi Sái t ế lễ.
Nhưng vì quá tốn kém, và đi lại làm hư hại mùa màng,
vua An Dương bèn giao cho dân làng Nhội cử người
thay mặt vua (vua giả) và tổ chức tế lễ giơng như vua

An Dương và triều đình đã làm trước đó, lâu ngày
th à n h hội lễ, cũng gọi là hội rước vua giả, hay h ộ i
Nhội. Chính hội là ngày 12 tháng Giêng. Xưa kia đây
là một làng, về sau tách làm hai làng Đồng và Đoài
n ê n lúc tế lễ truyền thống, mỗi làng đều cử "vua giả”
và lễ vật. Riêng làng Đồi có cỗ bánh chưng bánh dày
và sắm thêm vai ông Chúa. Hai làng còn thoả thuận

112


với nhau: thay phiên nhau rước vua giả; năm nay làng
Đơng rước trước thì năm sau làng Đồi rước trước. Như
vậy hai làng Đơng và Đồi tổ chức hai hội riêng biệt cùng
một nghi thức truyền thống, tại một nơi truyền thống.
Để chuẩn bị hội lễ, làng phải chọn Vua giả. Người
được đóng Vua giả, phải là một cụ già 72 tuổi, vự
chồng song toàn, tự lo lấy trang phục: Áo thụng bằng
sa màu lam, mũ hoàng đế: màu vàng hình trịn, có hai
cấp, hai cánh chuồn cắm đứng ở sau (gọi là mũ vua
bếp) và một đôi hia; và với điều kiện là người đó đã
từng làm lỗ Thượng Thính (thon tập tục ở Nhội, thì các
lão ơng đến tuổi 55, vào ngày mồng 8 tháng Giêng phải
sửa hai cỗ, bánh dày bánh chưng, mỗi cỗ lớn dâng lên
chùa Sái để lễ Thánh, sau đó người được cử giữ vai
"Vua giả" thưởng một cỗ bé để khao dân làng gọi là
lễ Thượng Thính. Nếu ai khơng sửa cỗ thì biện trầu
cau xôi oản và thủ lợn để mua nhưng, và họ không bao
giờ được cử làm Vua giả). Người làm lễ Thượng Thính
thì đến 60 tuổi được cử vai chúa và quan đến 72 tuổi

thì được đóng Vuo giở.
Vua chúa chỉ có ở làng Đồi, tự sắm lấy trang
phục, gồm có: Mũ, hia làm bằng giấy, quần áo bằng
vải xơ tất cả nhuộm màu vàng. Ngồi ra là các quan
như. tá n Lý, đề lĩnh, thị vệ, lưu thủ.
Người đến tuổi 72 đóng vua giả được cấp 3 mẫu
ruộng để chi phí mọi thứ, trong đó có một con trâu,
một lợn; cịn chúa được cấp 1 mẫu ruộng ni 1 con
bị và các chi phí khác.

113


Đến ngày quy định thì vua giả và chúa làm thịt
trâu đơ bị đơ và lợn để khao d â n làng. Vua tế ở chùa
Sái, chúa t ế ở đền Thượng (dưới chân núi). Khi cắt tiết
bị đơ của chúa, người ta hứng lấy một bát tiết, nhổ
một túm lông để lên trên tảng đá sau đền Thượng, khi
lễ xong, ông chúa cầm thanh gươm gỗ bôi phấn vàng
ra ướm thử vào tảng đá, tục truyền là diễn lại sự tích
th ầ n Kim Quy giết con ma gà.
Vào ngày chính hội, đình làng trang trí lộng lẫy,
các vị vua giả, chúa quan được kiệu và võng rước ra
đình. Vua giả ngồi trên ngai sơn son thếp vàng đặt trên
sập cao gần chính giữa đinh; Thềm đình bên phải là
hai đỉnh của quan tán lý và quan đề lĩnh, bên trái là
dinh quan thị vệ; Ngồi đình về phía bên phải là dinh
chú a che rạ p bằng cót, chúa ngồi trên một ngai gỗ;
phía sau đình là dinh quan lưu thủ.
Sau khi vua, chúa, CỊuan an vị, vến tiệc bắt đầu ở

đình và ở dinh lưu thủ. ị đình dọn cỗ thí, tất cả gồm
10 cỗ, mỗi cỗ cao 2,3 tầng, bày đủ món ă n truvền
thống, đặc biệt có bánh té là đặc sản làng Nhội và đều
có chấm giải cho từng cỗ một đ ể chọn cỗ nhất. Những
người được mời ăn cỗ thí là quan viên, cử 3 người một
mâm. Ớ dinh lưu thủ có 4 m âm cỗ, tương tự như mâm
ở đình, cỗ do 4 ông "đầu phe" sửa, và những người
hàng giáp đ ến lượt được mời ă n cỗ.
Tan tiệc vào khoảng quá trưa, chiêng trông nổi
lên, chúa lên kiệu, và theo nghi lễ truvền thống, rước
vào đình kiệu chúa vào triều kiến vua. Khi đó vua lên
kiệu bát cống. Các quan tán lý, đề lĩnh... lần lượt lên

114


võng và cuộc rước bắt đầu. Đi đầu là cờ, tiếp là kiệu
chúa, rồi kiệu vua. tiếp là phường bát âm, rồi võng các
quan và cuối cùng là cờ xí chiêng trống từ đình tiến
lên núi Sái. Đồn rước dừng lại ở Đồng Chầu, để các
vị xuống kiệu, võng đến mô Bái Vụng làm lễ bái vọng
về chùa và đền. Sau đó đám rước trở về đình và dừng
lại trước dinh lưu thủ, lúc này dinh đã dỡ bỏ hết, quan
lưu thủ ngồi trên ghế chéo với mấy chiếc chiếu ư ả i từ
ghế đến nơi đám rước dừng lại, được coi là tượng trưng
cho cái cổng. Từ đám rước, 4 ơng Xá người của vua
đến quỳ ở chiếu ngồi, bôn trong 4 ông đầu phe ra quỳ
đối diện, sau đó tất cả đứng lên, 4 ơng đầu phe quv
trước quan lưu thủ 4 ông xá quỳ trước mặt vua. Họ làm
đi làm lại đến ba lần, như làm thủ tục xin mở cổng để

vua vào, rồi cái cổng tượng trưiig được mở, kiệu vua,
chúa, các quan tiến vào trong dinh. Một cụ già chống
gậy gốc tre có hình đầu gà, bôi màu xanh đỏ đến đứng
trước kiệu vua. Vua đọc một bài văn, cụ già cầm gậy
đầu gà gõ gõ xuống đất. Sau khi vua đọc bài văn xong,
một tràng pháo nổ giòn. Cuộc rước coi như kết thúc,
vua, chúa và các quan được rước trả về nhà.

115


Qý&Ịị chùa éZảncf
Chùa Láng, tên chữ là Chiêu Thiền tự, nằm trên
đất Láng cũ, nay thuộc phường Láng Thượng, quận
Đống Đa, th à n h phô' Hà Nội, cách trong thủ đơ hơn
6km về phía tây.
Chùa Láng là ngơi chùa chính trong quần thể di
tích có liên quan đến sự tích về Thiền sư Từ Đạo Hạnh
(? - 1116) và các n h â n vật có liên quan. Theo tục
truyền, cha của Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh, một người
có phép thuật, vì hay hố phép đêm vào trêu ghẹo vợ
của Diên T hành Hầu mà bị nhà SIÍ Đại Điên bày phép
cho vỢ Diên Thành Hầu giữ lại, khi đó Đại Điên đến,
Từ Vinh hiện hình, liền bị Đại Điên chém làm 3 khúc
vứt xuống sông Tô Lịch, đoạn cống Cót. Vì mổi thù này
mà Đạo Hạnh học được nhiều pháp thuật, và cuối cùng
hoá thân vào cây thiền trượng trơi ngược dịng Tơ, và
vụt vào đầu Đại Điên ở ngõ Vụt, giết chết Đại Điôn
khi ông ta về đến chùa. Sau này, làng Láng dựng chùa
Láng (gọi là chùa Cả) thờ Đạo Hạnh và kiếp sau của


116


Đạo Hạnh là vua Lý Thần Tông (1127 - 1138) chùa Nền
thờ Từ Vinh và vợ ông (tương truyền đâv là nền nhà
cũ của Từ Vinh), còn làng Mọc, làng Lủ c ầ u và làng
Pháp Vân, dọc theo sông Tơ cũng thờ Từ Vinh. Làng
Vịng Tiền có chùa Thánh Tổ thờ Đại Điên và chùa Ba
Lăng thờ mẹ Đạo Hạnh, tương truyền đây là phần mộ
của bà.
Hội chùa Láng mở vào ngày mùng 7 tháng Ba âm
lịch, tương truvền là ngày hoá của Đạo Hạnh, và cứ 15
năm mới mở một lần.
Những nơi có hoạt động của hội lễ là các di tích
như vừa nêu. Việc chuẩn bị cho mỗi lần hội lễ khá
công phu, chẳng hạn đủ sô" lượng các loại pháo để bắn
pháo vào khoảng nửa giờ trong nghi lễ "dấu thần",
chọn lựa và huấn luyện các đô tuỳ và những người
tham dự vào cuộc rước để đốn cuối tháng Hai phải có
xong hai bộ đơ tuỳ nội và ngoại. Bộ đô tuỳ nội gồm 18
trai đinh, phải là những người đang cịn chịu tang, như
có V để tang cho Thánh phụ, sẽ rước kiệu từ chùa Láng
đến cống Cót, rồi "độ hà" sang bên kia sơng, chuyển
kiệu cho đô tuv ngoại. Đô tuỳ ngoại gồm 36 người
(trong đó 18 là dự bị), rước kiệu đi tiếp và rước trở về
chùa Cả.
Ngày mùng 5, rước kiệu đến chùa Nền, để Thánh
thăm lại nơi sinh; ngày mùng 6 rước kiệu đến chùa
Tam Huyền ở làng Mọc để Thánh thăm cha, trên kiệu

chỉ có bát hương. Tối mùng 6, rước tượng Thánh trong
chùa Cả ra đặt trong nhà "bát giác" giữa sân, để Thánh
xem lễ; 10 cô gái ăn mặc lộng lẫy, buộc vào mu bàn

117


×