Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

ĐẢNG LÃNH đạo văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.45 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã khẳng định: xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là chiến lược lớn của Đảng
trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Xây dựng nền văn hóa dân tộc chính
là xây dựng những thế hệ con người Việt Nam với những phẩm chất tiêu chí cụ
thể; đồng thời con người Việt Nam chính là động lực để xây dựng và phát triển
văn hóa, phát triển đất nước.
Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) về văn hóa ban hành khi nước ta mới bước
vào giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường. 15 năm sau, tình hình trong nước
và thế giới có nhiều thay đổi, thực trạng văn hóa nước ta cũng xuất hiện một số
hạn chế, thậm chí đang suy thối khá nghiêm trọng về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống. Chính vì vậy, việc tổng kết, đánh giá một chặng đường thực hiện
Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) xuất phát từ yêu cầu khách quan, nhằm "làm mới"
nhận thức về văn hóa.
Vấn đề trọng tâm, cốt lõi của xây dựng văn hóa là xây dựng con người.
Đây được coi là điểm bổ sung nổi bật của Nghị quyết TW9 (khóa XI), bởi nói về
văn hóa cũng là nói về con người, vì văn hóa là của con người, do con người, vì
con người. Hai chữ “Con người” được đưa vào trang trọng trong tên gọi của
Nghị quyết là sự khẳng định của BCH TW Đảng xác định vấn đề trọng tâm, cốt
lõi của xây dựng văn hóa là xây dựng con người.
Với ý nghĩa đó, Nghị quyết TW 9 (khóa XI) đã đề ra 5 quan điểm, nhiệm
vụ của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam: một là, văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững
đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; hai là,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; ba là, phát
triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để
phát triển văn hóa; bốn là, xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa; năm là, xây
dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân.



NỘI DUNG
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO VĂN HÓA
- Văn hóa là phạm trù phản ánh mối quan hệ thống nhất giữa thực tiễn
hoạt động của con người với tự nhiên, xã hội; là phương thức tồn tại tích cực
trong tiến trình phát triển của con người.
- Văn hóa là tổng thể các giá trị do con người tạo ra, đó là các giá trị vật
chất và các giá trị tinh thần, văn hóa cũng là trình độ, năng lực hoạt động sống
của con người; và cũng là chính bản thân sự phát triển của con người. Về bản
chất, văn hóa mang tính xã hội thơng qua các phương thức hoạt động sinh tồn và
hoạt động giao tiếp của con người. Song xã hội và văn hóa khơng phải là đồng
nhất. Trong xã hội có giai cấp, văn hóa mang tính giai cấp sâu sắc, đồng thời
mang tính nhân loại phổ biến.
1. Tính tất yếu khách quan Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo văn hóa
* Xuất phát từ vai trị, tầm quan trọng của văn hóa
- Lịch sử cho thấy rằng, bất cứ lực lượng xã hội - chính trị nào muốn tác
động tích cực vào q trình phát triển đều phải nắm lấy văn hoá. Khi xã hội có
những chuyển biến lớn lao thì lực lượng tiên phong lại càng coi trọng vai trị của
văn hố.
- Các chính đảng có sứ mệnh lãnh đạo xã hội xưa nay đều sử dụng văn
hoá văn nghệ như là một vũ khí lợi hại trong cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt
trận tư tưởng.
- V.I.Lênin đã chỉ rõ: Phải làm cho nghệ thuật trở thành “một bộ phận
trong toàn thể sự nghiệp của giai cấp vô sản, phải thành “một cái bánh xe nhỏ và
một cái đinh ốc” trong một bộ máy dân chủ - xã hội vĩ đại, thống nhất, do đội
tiên phong giác ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân điều khiển”. [4. tr123]
* Xuất phát từ quan điểm của Đảng ta và chủ tịch HCM về vai trị, tầm
quan trọng của văn hóa

2



- Nhận thức rõ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về ý nghĩa to lớn và vai
trò của hoạt động văn hoá, nghệ thuật, trong chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm chủ trương cùng với nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, thì đồng thời phải giải phóng văn hố, nghệ thuật, đưa
hoạt động văn hoá, nghệ thuật trở về phục vụ cách mạng, phục vụ dân tộc, bởi
lẽ: “dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì
phải tham gia cách mạng” [5. tr63]
- Ngay từ những ngày đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “văn hoá nghệ thuật cũng
như mọi hoạt động khác khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính
trị” [3. tr389] và chỉ rõ: “Khơng hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn
hoá và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào
việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người” [5. tr129].
- Với việc cơng bố Đề cương văn hố năm 1943, Đảng đã tập hợp được
lực lượng, đoàn kết những nhà văn hố văn nghệ, những trí thức có khuynh
hướng tiến bộ cùng với toàn dân tham gia cách mạng. Đề cương văn hoá 1943
xác định: Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hố)
“ở đó người cộng sản phải hành động”.
- Tháng 6/1960, Đảng tiến hành Đại hội lần thứ III, báo cáo chính trị tại
Đại hội III khẳng định: “Chúng ta phải xây dựng một nền văn nghệ mới có tính
chất dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa phong phú. Văn nghệ phải có tính
Đảng và tính nhân dân rõ rệt… Phải khơng ngừng nâng cao tính tư tưởng và tính
nghệ thuật của các tác phẩm văn nghệ, làm cho các tác phẩm đó trở thành những
vũ khí sắc bén trong việc xây dựng con người mới về tư tưởng và tình cảm…”
[4. tr75]. Tại Đại hội này, Đảng đặt vấn đề “trong sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá mới, việc phát động phong trào quần chúng rộng rãi làm văn nghệ có ý
nghĩa rất quan trọng” [4. tr76]..
- Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước ta

bước vào thời kỳ lịch sử mới. Tại Đại hội IV, Đảng lại tiếp tục khẳng định và
phát triển những tư tưởng “biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân
3


và tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp sáng tạo ra mọi giá trị văn hoá” [3. tr389].
Trên cơ sở những đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cộng đồng, của quyền làm chủ
tập thể, phải tôn trọng và đảm bảo các quyền công dân, bảo đảm sự phát triển
phong phú của nhân cách, bồi dưỡng và phát huy sở trường và năng khiếu cá
nhân, tạo điều kiện cho mọi người “tự do tìm tịi và sáng tạo trên các lĩnh vực
sản xuất, hoạt động khoa học, kỹ thuật, văn hoá, văn học nghệ thuật” [6].
- Đại hội V tiếp tục quan điểm của Đại hội IV, nêu rõ : “nền văn hố mới
là nền văn hố có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và
tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô
sản” [6. tr73].
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, Đại hội VI của
Đảng đã vạch ra đường lối đổi mới, đáp ứng yêu cầu bức thiết của dân tộc và
thời đại. Về hoạt động văn hoá, nghệ thuật, Đảng xác định “tiếp tục phát triển và
nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật; xây dựng nền
văn hoá, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc” [6.tr122]. Bên cạnh
việc khẳng định các tư tưởng văn nghệ trước đây, “Đảng yêu cầu các văn nghệ sĩ
trau dồi ý thức trách nhiệm công dân, chiến sĩ, thực hiện chức năng cao quý: tạo
nên những giá trị tinh thần, bồi dưỡng tâm hồn và tình cảm, xây dựng nhân cách
và bản lĩnh các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội” [5.
tr30].
- Tiếp tục đi theo những quan điểm được đề cập trong Nghị quyết 05
Khoá VII, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng
định “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam”, xác định mọi
hoạt động văn hoá nghệ thuật phải trở thành bộ phận khăng khít của sự nghiệp

đổi mới trong giai đoạn hiện nay, Đảng đã chỉ rõ “Mọi hoạt động văn hoá nhằm
xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan
dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hố, quan hệ hài hồ trong gia đình,
cộng đồng và xã hội” [8. tr114].
4


- Tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thức X của Đảng, Đảng tiếp tục
khẳng định: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm,
xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã
hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá trong kinh
doanh và văn hoá trong nhân cách của thanh, thiếu niên; chống những hiện
tượng phản văn hoá, phi văn hoá..” [9. tr213].
- Ngày 16 tháng 6 năm 2008, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 23 về tiếp
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Tiếp tục chỉ
rõ: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá;
là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người, là một
trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của
xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam” [7. tr7].. Để phát triển
nền văn học, nghệ thuật toàn diện, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh cơng nhiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc
tế, Nghị quyết khẳng định: “Tài năng văn học là vốn quý của dân tộc. Chăm lo
phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là
trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức
trong hệ thống chính trị các cấp” [7. tr8].
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định mục tiêu: “xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; con người phát triển tồn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật” [10. tr19].

- Tiếp tục thực hiện những tư tưởng của Đại hội XI, văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo
đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [11. tr126].
5


Nhìn tổng qt, có thể thấy rằng: Ngay từ những ngày đầu lãnh đạo cách
mạng cũng như suốt quá trình dẫn dắt dân tộc thực hiện mục tiêu giành độc lập
dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam trước sau đều coi văn hố, nghệ thuật là bộ phận khăng khít của sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo, coi văn hoá, nghệ thuật là một mặt trận và văn
nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; luôn luôn nhất quán trong quan điểm xây
dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đưa hoạt động văn hoá,
nghệ thuật thực sự trở thành bộ phận khăng khít của cách mạng Việt Nam.
* Từ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng
nước ta về văn hóa
2. Nội dung, phương thức lãnh đạo văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Đảng lãnh đạo văn hóa bằng chủ trương, đường lối, bằng sự chỉ đạo
định hướng những vấn đề chiến lược do thực tiễn đặt ra.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với lĩnh vực văn hóa trước hết
bằng việc ban hành quan điểm, đường lối chung. Từ đường lối chung Đảng chỉ
ra quan điểm về sự thống nhất giữa các lĩnh vực: Chính trị - kinh tế văn hóa - xã
hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại... Đường lối phát triển văn hóa là sự cụ
thể hóa đường lối chung của Đảng trong lĩnh vực văn hóa.
Đảng lãnh đạo bằng định hướng chính trị, chủ trương, nghị quyết đối với
lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; tập trung hoạch định chiến lược, lộ trình, bước đi

phát triển văn hóa phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Sứ mạng
cao cả của văn hóa là “Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia
đình, từng người, hồn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các
giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của lồi người, tăng
sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại” .
Từ đường lối phát triển văn hóa, Đảng xác định mục tiêu chiến lược, mục
tiêu cụ thể, nhiệm vụ và chỉ tiêu phát triển văn hóa, định hướng các chính sách
văn hóa – xã hội, trên cơ sở đó các cơ quan Nhà nước xây dựng luật pháp, chính
sách, quy hoạch và kể hoạch phát triển văn hóa của đất nước.
6


b. Đảng lãnh đạo văn hóa thơng qua bộ máy Nhà nước.
Lãnh đạo phát triển văn hóa thơng qua bộ máy nhà nước là phương thức lãnh
đạo chủ yếu, hiệu quả và đặc thù trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đảng không thể
lãnh đạo trực tiếp các tầng lớp nhân dân, các lĩnh vực và hoạt động văn hóa thực hiện
đường lối, nghị quyết của Đảng, mà đường lối nghị quyết ấy phải thông qua bộ máy
nhà nước thể chế hóa thành luật pháp và chính sách để nhân dân thực hiện.
Bộ Chính trị căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội, Nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương, lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội, Chính phủ soạn thảo, ban
hành các luật, pháp lệnh, văn bản pháp quy, các kế hoạch thực hiện đường lối
xây dựng và phát triển nền văn hóa đất nước. Đảng đồn Quốc hội, Ban cán sự
Đảng của Chính phủ và các bộ... giúp Bộ Chính trị lãnh đạo các cơ quan nhà
nước thực hiện nghiêm túc, sáng tạo cơng việc thể chế hóa các chủ trương,
đường lối thành các văn bản pháp lệnh và kế hoạch cụ thể.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, chính quyền, ngành “Đẩy nhanh việc thể chế
hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa” để quản lý,
kiểm sốt, tiếp thu văn hóa tiên tiến, thải loại văn hóa phẩm độc hại bào mịn
niềm tin, lý tưởng của thế hệ trẻ. Định hướng chính trị của Đảng chỉ được hiện
thực hóa khi nhà nước thể hiện rõ năng lực cụ thể hóa và quản lý có hiệu quả

lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
Đảng lãnh đạo nhà nước tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với các
lĩnh vực của văn hóa. Đảng định hướng chính trị nhưng không cầm tay chỉ việc.
Nhà nước quản lý có hiệu quả là cơ sở để các chủ trương, nghị quyết của Đảng về
văn hóa đi vào cuộc sống. Quản lý của Nhà nước thể hiện ở chỗ cụ thể hóa nghị
quyết của Đảng thành cơ chế, chính sách, luật pháp; tạo lập đồng bộ những định
chế, quy chuẩn để quản lý điều tiết các hoạt động văn hóa, khơng để chệch hướng.
Mọi hoạt động văn hóa, nghệ thuật có đảm bảo tính Đảng, đường lối quan điểm của
Đảng hay khơng tùy thuộc rất lớn vai trị quản lý của Nhà nước XHCN. Song thực
tiễn vừa qua cho thấy quản lý về nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật đang
có những bất cập, cần có những giải pháp để tháo gỡ, khắc phục.
7


c. Lãnh đạo văn hóa thơng qua cơng tác cán bộ và vai trò đội ngũ cán
bộ, đảng viên
Đảng thực hiện lãnh văn hóa thơng qua đào tạo, bồi đường bố trí, sử dụng
đội ngũ cán bộ của Đảng hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Tuy Đảng khơng
trực tiếp điều hành các hoạt động sáng tạo, hưởng thụ và quản lý văn hóa, khơng
quyết định các chính sách phát triển văn hóa thuộc thẩm quyền của bộ máy Nhà
nước, không lập kế hoạch và điều hành các kế hoạch phát triển văn hóa - xã hội.
Nhưng Đảng phái lãnh đạo các hoạt động đó theo đúng quan điểm, tư tưởng của
Đảng thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ của Đảng hoạt
động trong lĩnh vực văn hóa, tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành quan
điểm, đường lối phát triển văn hóa của Đảng.
Thơng qua các đảng viên nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật. Tinh thần trách nhiệm và năng lực quản lý của đội ngũ cán
bộ chủ chốt là cơ sở để đưa quan điểm, các định hướng, chủ trưởng về phát triển
văn hóa, nghệ thuật của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống, bảo tồn được bản
sắc văn hóa, thải loại những yếu tố văn hóa lai căng, độc hại.

Thơng qua sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong từng cơ
quan, đơn vị, thôn, buôn, làng, tổ dân phố để thực hiện chủ trương, đường lối
phát triển văn hóa của Đảng. Cán bộ, đảng viên phải coi trọng rèn luyện tư
tưởng đạo đức lối sống, gương mẫu, nói đi đơi với làm, là lực lượng nòng cốt
trong xây dựng đời sống văn hóa trong cộng đồng dân cư.
Xây dựng văn hóa trong từng tổ chức Đảng là cơ sở để đánh thức, lan tỏa
văn hóa Đảng ra tồn xã hội, cộng đồng. Khơng xây dựng văn hóa Đảng thì khó
có thể xây dựng văn hóa ngồi xã hội, cơ quan, đơn vị…
d. Đảng lãnh đạo văn hóa thơng qua cơng tác kiểm tra, giám sát đội ngũ
cán bộ, đảng viên và các tổ chức của Đảng hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.
Kiểm tra, giám sát là một phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng. Đảng ta
chỉ rõ: lãnh đạo phải kiểm tra, giám sát; lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát coi
như không lãnh đạo. Đảng lãnh đạo đối với lĩnh vực văn hóa bằng cơng tác kiểm
tra, giám sát; thanh tra văn hóa. Qua kiểm tra, giám sát, thanh tra kịp thời phát hiện
8


những sai sót, lệch chuẩn để kịp thời chỉ đạo chính quyền, ngành văn hóa khắc
phục sửa chữa; khơng để các dấu hiệu vi phạm trở thành bản chất nghiêm trọng, từ
một người liên quan đến nhiều người.
Thông qua kiểm tra, giám sát sẽ kế thừa, tiếp nhận những giá trị văn hóa
tiên tiến và lọc bỏ những yếu tố phản văn hóa. Phát triển văn hóa của mỗi dân
tộc phải đi đơi với giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc trên tồn thế giới.
Khơng một nền văn hóa dân tộc nào tồn tại được trong quá trình khép kín. Điều
đó có nghĩa là, bất cứ dân tộc nào trên thế giới đều có sự giao lưu với những dân
tộc khác nhau và đều chịu ảnh hưởng lẫn nhau về văn hóa, nghệ thuật. Hồ Chí
Minh khẳng định: Tây phương hay Đơng phương có cái gì tốt thì ta lấy để tạo ra
nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, q trình giao lưu, tiếp nhận văn hóa phải
“Tránh nguy cơ thành kẻ bắt chước”, đồng thời “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích
thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của văn hóa đế quốc”.

Q trình kiểm tra, giám sát cũng là quá trình Đảng lãnh đạo tạo môi
trường, cơ chế để nhân dân giám sát, phản biện các chương trình, đề án phát
triển văn hóa. Quần chúng nhân dân rất thông minh và sang tạo; do đó tạo điều
kiện cho nhân dân tham gia tích cực vào xây dựng và phát triển văn hóa là vấn
đề mang tính quy luật, thực tiễn cấp bách hiện nay.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐCSVN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA HIỆN NAY
1. Quan điểm chỉ đạo phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay
a. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Nền sản xuất vật chất tạo ra những sản phẩm vật chất giúp con người tồn
tại như một sinh thể thì “sản xuất tinh thần” [1. tr275-278]. tạo ra những sản
phẩm tinh thần đem đến cho con người sự hiểu biết, làm phát triển nhân cách và
giúp con người tồn tại với tư cách một sinh thể xã hội.
Trước đây, do quan niệm rằng văn hoá thuộc lĩnh vực phi sản xuất, văn hoá
chỉ là một lĩnh vực thuộc phúc lợi xã hội, là hệ quả của kinh tế, phát triển văn hoá
nghệ thuật được đến đâu là tuỳ thuộc khả năng của kinh tế, của ngân sách.
9


Đến Đại hội VI của Đảng, với sự đổi mới tư duy mạnh mẽ, vấn đề văn hoá
được đặt ra theo quan niệm mới, tức là coi trọng ngang nhau giữa chính sách xã
hội và chính sách kinh tế.
Trong Nghị quyết 05 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá VI, văn hoá được xác định là lĩnh vực sản xuất tinh thần.
b. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm dà
bản sắc dân tộc.
- Tính tiên tiến của nền văn hoá thể hiện:
Về mục tiêu: lấy con người làm trung tâm, làm mục đích. Xây dựng văn
hố vì con người, giải phóng năng lực của con người.

Về thế giới quan, phương pháp luận: dựa vào thế giới quan khoa học, hệ
tư tưởng tiến bộ của dân tộc, của nhân loại, định hướng theo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về nội dung: thể hiện tinh thần dân chủ, gắn liền với tự do sáng tạo văn hoá
của quần chúng; thể hiện bản chất của chế độ XHCN, tính ưu việt của một xã hội
tiên tiến nhất trong thời đại hiện nay; thể hiện truyền thống văn hoá tốt đẹp của
dân tộc và những tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới mà nền văn hoá
nước ta tiếp thu được một cách có chọn lọc; thể hiện sự tiên tiến về trình độ học
vấn, trình độ dân trí, trình độ khoa học kỹ thuật, cơng nghệ, hướng vào quá trình
CNH – HĐH đất nước; thể hiện tinh thần nhân văn, giải phóng con người, xây
dựng lịng nhân ái, tình yêu con người, yêu cộng đồng, đất nước mình.
Nền văn hố tiên tiến mà ta xây dựng dựa trên cơ sở kết cấu hạ tầng kiến
trúc xã hội, từng bước hiện đại hoá, đầu tư khoa học công nghệ tiên tiến, là cơ
sở khách quan để từ đó xây dựng nên hệ thống giá trị văn hố vật chất và tinh
thần của xã hội.
- Tính dân tộc của nền văn hoá thể hiện :
Về phương pháp tư duy: sử dụng phương pháp tư duy truyền thống của
dân tộc Việt Nam.
Về Ngôn ngữ: sử dụng ngôn ngữ bản địa của dân tộc Việt Nam
10


Về hình tượng nghệ thuật: xây dựng trên cơ sở các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc, ca ngợi cái đẹp, cái tích cực, ủng hộ cái mới; đấu tranh chống
cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu và các biểu hiện lai căng, lệch lạc.
Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ
bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo văn hoá của mỗi dân tộc trong
lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ được tính
riêng duy nhất, tính thống nhất, tính nhất qn so với bản thân mình trong q
trình phát triển. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam biểu hiện cơ đọng

trong các tính chất Nhân bản, Nhân văn, Nhân đạo, Nhân ái, trở thành phong tục
thuần phác của đất nước, con người Việt nam.
Nhân bản: thể hiện tính đặc trưng phân biệt lồi người với lồi vật, tính
người với tính súc vật. Thể hiện khuynh hướng phát triển tiến lên của loài người,
là sự khẳng định về tính người, thể hiện con người là sản phẩm của văn hoá,
đồng thời là chủ thể của văn hố.
Nhân văn: nói lên tính chất văn hố của lồi người. Là tập hợp các giá trị
do con người sáng tạo ra.
Nhân đạo: là sự thể hiện của nhân bản, nhân văn trong mối quan hệ giữa
người với người: tôn trọng con người, vì con người. Nói lên đạo làm người, đặc
trưng của tính người, là cốt lõi của văn hố.
Nhân ái: là tụ diểm của nhân đạo. Đó là lòng yêu thương con người, coi
trọng, bảo vệ con người. Tình yêu thương con người là bản chất đặc sắc của
người Việt nam. Từ tình u đó, con người Việt nam luôn giúp đỡ lẫn nhau, nhất
là khi gặp hoạn nạn, khó khăn.
c. Nền văn hố Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam đã trải qua mấy nghìn năm xây dựng, đấu tranh giành
và giữ độc lập đã hình thành, giữ gìn và phát triển truyền thống văn hóa thống
nhất của cộng đồng dân tộc là một tài sản tinh thần quý báu, được đúc kết, tích
tụ hàng ngàn năm và phải trả giá bằng xương máu của nhiều thế hệ cha ông, trở
thành tiềm năng sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
11


Tổ quốc Việt Nam trước mọi quân thù. Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng
Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, Đảng luôn đứng vững trên lập trường
giai cấp công nhân, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, hồn cảnh cụ thể, đây chính là cơ sở bảo đảm
cho các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam được giữ gìn, phát

huy ngày càng rực rỡ và hiệu quả.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, nhân
dân ta ngày càng quan tâm đến việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa. Qua
mỗi nhiệm kỳ cơng tác, Đảng ln có những bổ sung, hồn thiện quan điểm về
văn hóa, về phát huy giá trị văn hóa. Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách
nhằm từng bước hiện thực hóa việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân
tộc. Quần chúng nhân dân cũng có thái độ trân trọng, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, khơi dậy những giá trị bền vững vào thực hiện xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, nền văn hố Việt Nam theo
thời gian càng khẳng định được tính thống nhất trong đa dạng của mình.
d. Xây dựng và phát triển văn hố là sự nghiệp của tồn dân, do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Nhờ giải quyết đúng đắn mối liên hệ tất yếu giữa văn hố và chính trị,
giữa hoạt động văn hố và sự nghiệp giải phóng dân tộc, cải tạo xã hội, vận
dụng những quan điểm khoa học, tiên tiến về hoạt động văn hoá một cách phù
hợp và sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối văn hoá nghệ thuật phù hợp với yêu cầu
của cách mạng Việt Nam, đưa hoạt động văn hoá nghệ thuật vào cuộc chiến đấu
giành độc lập, tự do cho dân tộc, vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội của
đất nước. Trong sự nghiệp tồn dân và vẻ vang đó, nền văn hố nghệ thuật mới nền văn hoá nghệ thuật cách mạng, chân chính được hình thành và phát triển
trên nền tảng dịng chảy và truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự quan tâm
chăm sóc tồn diện tới lực lượng văn nghệ sĩ, trong điều kiện và hoàn cảnh của
đất nước cịn có nhiều khó khăn và những bất cập về hệ thống pháp lý, lực lượng
12


văn nghệ sĩ đã được quan tâm về bồi dưỡng quan điểm chính trị, nhận thức tư
tưởng, được chăm lo những điều kiện vật chất thiết yếu cho sáng tác theo khả
năng. Những quan điểm: “bồi dưỡng văn nghệ sĩ về các mặt chính trị, tư tưởng

văn hố, nghiệp vụ” [4. tr76], “bồi dưỡng về thế giới quan Mác- Lênin, về kiến
thức văn hố, về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước…” [6. tr123].,
đến vấn đề: “Cải tiến chính sách đối với người làm cơng tác nghệ thuật chuyên
nghiệp, đãi ngộ xứng đáng lao động nghệ thuật…” [5. tr84], “bổ sung và hoàn
chỉnh các chế độ chủ trương, thù lao, mua bán tác phẩm, thuế, chính sách
khuyến khích sáng tác v.v. bảo đảm cho văn nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống
bằng nghề nghiệp chính của mình” Nhờ có quan điểm đúng về xây dựng và đãi
ngộ đối với đội ngũ văn nghệ sĩ, chúng ta đã hình thành nên một đội ngũ văn
nghệ sĩ sống cùng nhịp đập, hơi thở với nhân dân, gắn bó máu thịt với vận mệnh
Tổ quốc và sự phát triển của dân tộc, cống hiến trọn vẹn tài năng và sức lực cho
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
đ. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hố là sự nghiệp
cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Sự lựa chọn con đường phát triển theo Chủ nghĩa xã hội đối với Đảng ta,
nhân dân ta là sự lựa chọn nhất quán. Bởi xây dựng chủ nghĩa xã hội vì một
nước Việt Nam hồ bình độc lập, dân chủ và giàu mạnh, trong đó con người
được sống trong độc lập tự do, có được những bảo đảm về vật chất và tinh thần,
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo, phát triển mọi năng lực cá nhân và xã hội là
mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Mục tiêu ấy phù hợp với khát vọng của mỗi văn
nghệ sĩ đối với sự nghiệp đổi mới nền văn nghệ nước ta.
Định hướng xã hội chủ nghĩa thuận chiều với văn hoá và phát triển. Văn
hoá kết tinh trong bản thân mình sự phát triển các giá trị văn minh, nhân đạo.
Chủ nghĩa xã hội tích luỹ và làm phong phú bản thân mình bằng kho tàng văn
hố chung của nhân loại. Những gì thuộc về chủ nghĩa xã hội với tính chất là lý
tưởng vươn tới, với tính cách là một chế độ xã hội phù hợp và có triển vọng đối
với tiến bộ xã hội và phát triển, một chế độ xã hội cần và có thể xây dựng là phù
hợp với văn hố, văn minh, mang trong mình những phẩm chất mỹ học.
13



Những thành công bước đầu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam chứng
minh rằng: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng
kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng - vẫn bảo tồn giá trị. Đó là những tư tưởng
khoa học, kết tinh những giá trị tiêu biểu về tính nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo
trong nền văn hoá nhân loại, đã vạch rõ quy luật khách quan của tiến bộ và văn
minh chỉ rõ và khẳng định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội là một sự lựa chon
sáng suốt của Đảng và nhân dân ta, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại sự giải phóng thực sự và hoàn toàn cho
nhân dân, đảm bảo cho con người được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc.
2. Biện pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển
văn hoá hiện nay.
a. Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân đối với sự nghiệp phát triển văn hóa
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã sớm thấy được vai trò quan
trọng của sự phát triển văn hố trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng, Nhà nước luôn nhất quán chủ trương: “Phải không ngừng
nâng cao tính tư tưởng và tính nghệ thuật của các tác phẩm văn nghệ, làm cho
các tác phẩm đó trở thành những vũ khí sắc bén trong việc xây dựng con người
mới về tư tưởng và tình cảm…”[5. tr75]. , phấn đấu: “Tạo điều kiện để nhân
dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật, trở thành
những chủ thể sáng tạo văn hoá, đồng thời hưởng thụ ngày càng nhiều các thành
quả văn hoá” [8. tr114].. Tuy nhiên quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa
của Đảng cũng cịn bộc lộ những bất cập, hạn chế:
Một là, sự không thống nhất về nhận thức và hành động trong các cấp ủy
đảng, lãnh đạo các cấp trong việc đề cao vị trí, vai trị của văn hóa trong phát
triển đất nước. Về nhận thức, các nghị quyết của Đảng về văn hóa chỉ rõ vai trị
quan trọng của văn hóa là soi đường cho quốc dân đi, là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hệ
14



điều tiết của xã hội. Trong các hội nghị bàn về văn hóa, các cấp ủy đảng, lãnh
đạo địa phương đều đề cao vai trị của văn hóa. Nhưng đáng tiếc là những nhận
thức này chưa được thể hiện thành hành động trong thực tiễn. Ở nhiều địa
phương, khơng ít mục tiêu kinh tế trước mắt đã được đặt lên trên các giá trị văn
hóa lâu dài.
Thứ hai, các cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thấy mối liên hệ hữu cơ
giữa phát triển văn hóa và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội; chưa thấy sự
phát triển văn hóa phục vụ sự phát triển bền vững của địa phương và của đất
nước; dẫn đến việc phát triển văn hóa chưa thực sự được kết hợp với các chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, dự án phát triển địa phương, khơng có
mặt trong các đánh giá hiệu quả tác động đến các dự án mới của các địa phương.
Thứ ba, công tác cán bộ cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng với vị trí,
vai trị của văn hóa trong xã hội, chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quy
hoạch và bổ nhiệm cán bộ trong lĩnh vực văn hóa thời gian qua đã tồn tại nhiều
bất cập; dẫn đến tình trạng việc triển khai các hoạt động văn hóa ở các địa
phương không được thực hiện tốt.
Thứ tư, cơ chế quản lý văn hóa chưa theo kịp cơ chế thị trường dẫn đến
việc lúng túng, bị động trong việc giải quyết những vấn đề về văn hóa. Các đơn
vị văn hóa ln bị động, trông chờ vào Nhà nước, chưa năng động tìm kiếm cơ
hội kinh doanh ở thị trường; vai trị của các doanh nghiệp văn hóa nhỏ, đơn vị
văn hóa tư nhân và các cá nhân nghệ sĩ, những người làm hoạt động sáng tạo
chưa được chú ý. Vì thế, chưa tạo ra một thị trường văn hóa năng động và phát
triển tương ứng với tiềm năng dồi dào của văn hóa.
Để khắc phục những hạn chế trên đây, cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên cần chú ý làm tốt những nội dung biện pháp sau:
- Tăng cường nhận thức, biến nhận thức thành thực tiễn thông qua các
chương trình hành động của các cấp ủy, chính quyền từ trung ương đến địa
phương; lấy phát triển văn hóa làm mục tiêu, là động lực, đồng thời là tiêu chí
đánh giá trách nhiệm, năng lực của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong việc

15


lãnh đạo, tổ chức cho quần chúng nhân dân xây dựng và phát triển đời sống kinh
tế - văn hóa trên từng địa bàn cụ thể.
- Cụ thể hóa các chiến lược văn hóa, đưa mục tiêu văn hóa vào tất cả các
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, đưa yếu
tố văn hóa vào tất cả các đơn vị xã hội; để văn hóa trở thành bản chất của mọi
hoạt động xã hội, từ đó, tạo ra sức đề kháng của xã hội đối với cái xấu, cái ác.
- Các chương trình hành động chấn hưng văn hóa cần có sự thống nhất từ
Trung ương đến địa phương và có sự kiểm tra, đôn đốc thường xuyên, liên tục.
Đây phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng.
b. Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng trong sự nghiệp đổi
mới, đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá tinh
thần của xã hội.
Một là, bảo đảm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức đúng về vai trị quan
trọng của văn hóa trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Việc quán triệt quan điểm của Đảng coi văn hoá là mục tiêu của sự phát triển
kinh tế - xã hội luôn tạo tiền đề cần thiết và là điều kiện không thể thiếu để văn
hố có thể phát huy khả năng thúc đẩy, kích thích sự phát triển của mọi lĩnh vực
đời sống xã hội hướng đến sự phát triển bền vững. Nếu mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội khơng tính đến văn hố, tách rời các chỉ số văn hố thì sẽ tự làm triệt
tiêu nguồn động lực căn bản của sự phát triển. Ngay bản thân sự tăng trưởng
kinh tế ngày nay cũng khơng chỉ được nhìn nhận ở tốc độ tăng trưởng, mà còn
phải được đong do bởi chất lượng đời sống văn hố. Nếu khơng đồng thời nắm
được văn hố thì thành tựu về kinh tế cũng khơng bền, tình hình chính trị và trật
tự an ninh sẽ không ổn định.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tạo ra
điều kiện, tiền đề và những động lực quan trọng để hình thành và phát triển

những giá trị văn hố mới; song, tác động mặt trái của nó cũng gây khơng ít khó
khăn, cản trở đối với q trình này, thậm chí tạo ra những phản giá trị như: sự
16


chập chờn về định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, sự so sánh thiệt - hơn về lợi
ích kinh tế, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự tụt hậu về tư tưởng - lý luận
và tri thức khoa học, xu hướng thị trường hóa trong xây dựng đời sống văn hố
và hoạt động văn hố. Vì thế, vấn đề quan trọng trước hết là phải nâng cao nhận
thức, tạo sự đồng thống nhất, đồng thuận cao trong tồn Đảng, tồn dân với
quan điểm “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển” đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, tạo được sự thống nhất trong Đảng, trong nhân dân về sự cần thiết
phải tiến hành cuộc cách mạng văn hoá; đặt cách mạng văn hoá trong mối quan
hệ chặt chẽ với cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế. Mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay suy cho cùng là nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người, bao gồm cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, một
cuộc sống ổn định và bền vững. Trong tiến trình phấn đấu đến mục tiêu đó, sự
tăng trưởng kinh tế là cực kỳ quan trọng và cần thiết. C.Mác đã chỉ ra rằng,
"trước hết con người phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi
có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị,
tơn giáo, triết học..” [1. tr166].. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời cũng chỉ có một
ham muốn tột bậc là, cùng với được độc lập tự do, "đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành" Phải tăng trưởng kinh tế mới nâng cao được
mức sống của con người, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng
cuộc sống. Tuy nhiên, điều hệ trọng hơn là từ cuộc sống đó, con người phải
được tồn tại, phát triển trong u thương, bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau, trong
cái đẹp không ngừng được nhân lên, trong ổn định để phát huy hết tiềm năng, tự
do khẳng định mình, góp phần thúc đẩy xã hội vươn đến đỉnh cao của cái đẹp.
Ba là, nâng cao trình độ thẩm mỹ của quần chúng nhân dân. “Tạo điều

kiện để nhân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ
thuật, trở thành những chủ thể sáng tạo văn hoá, đồng thời hưởng thụ ngày
càng nhiều các thành quả văn hoá” [8. tr144]. Động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội đã, đang và ngày càng chủ yếu là tiềm năng sáng tạo to lớn
của nguồn lực con người - đó là tiềm lực văn hoá. Là biểu hiện của phương
17


thức tồn tại người và là tổng thể các giá trị người. Nâng cao chất lượng
người, cũng có nghĩa nâng cao tính văn hố trong hoạt động của con người,
là chức năng cố hữu của văn hoá. Bởi lẽ, bản chất của văn hoá nằm ở thái độ
và cách thức hoạt động của con người. Mọi hoạt động cải biến xã hội của
con người và cộng đồng đều phải bắt đầu từ văn hoá, bằng văn hoá, dựa vào
văn hoá và thơng qua mơi trường văn hố.
Bốn là, tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội. Mọi hoạt động văn hoá nhằm
xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan
dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hố, quan hệ hài hồ trong gia đình,
cộng đồng và xã hội. Thể hiện tinh thần đó, phát triển văn hóa phải tạo ra sự kết
hợp hài hoà giữa điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần để nâng cao chất lượng
đời sống xã hội, đồng thời kết hợp hài hoà giữa mức sống cao và lối sống đẹp,
vừa an tồn vừa bền vững, khơng chỉ cho một số ít người mà cho tất cả mọi
người, không chỉ cho thế hệ hiện nay mà còn cho các thế hệ mai sau. Từ bản chất
của nó, văn hố bao giờ cũng là cái đích cuối cùng và là thước đo giá trị của mọi
sự phát triển, con người phải được coi là cứu cánh chứ khơng phải là phương tiện
duy trì và phát triển đời sống cộng đồng. Hơn nữa, dưới tác động của mơi trường
văn hố, q trình xây dựng đời sống cộng đồng ở từng địa phương, cơ sở ln
trở nên bền vững, có chiều sâu, vì con người và do con người.
Năm là, coi trọng giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc đi đơi với mở rộng giao

lưu hợp tác quốc tế, tiếp thu những tinh hoa văn hố của nhân loại. Tồn bộ đời
sống vật chất và đời sống tinh thần hợp thành một cộng đồng văn hố nhất định
mà con người tồn tại trong đó, chịu tác động, thích ứng, đồng thời cải tạo và xây
dựng nó, là do các thế hệ trước để lại. mỗi nền văn hố chỉ có thể phát triển
vững chắc khi kế thừa được kho tàng vô tận của lịch sử văn hố trước đó, đồng
thời biết tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hóa của nhân loại. Dựa chắc trên
cơ sở truyền thống mới có thể tiếp thụ những yếu tố hiện đại một cách có chọn
lọc; đồng thời, truyền thống chỉ có giá trị khi đi vào đời sống hiện thực, được
18


tiếp thêm hơi thở hiện đại từ đời sống văn hoá hiện tại và tương lai. Từ kinh
nghiệm lịch sử để dự báo chính xác các xu hướng phát triển mới, làm cho yếu tố
truyền thống và yếu tố hiện đại gắn kết chặt chẽ, tạo điều kiện cho nhau, thúc
đẩy lẫn nhau để phát triển và chuẩn bị cơ sở, tiền đề cho các thế hệ mai sau là
phương thức đúng đắn nhất để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, tăng nhanh mức đầu tư của Nhà nước và của xã hội cho sự nghiệp
văn hoá. Chú ý đầu tư từ các nguồn cơ bản như: ngân sách nhà nước, phát triển
các doanh nghiệp văn hoá, động viên các tầng lớp nhân dân cả trong và ngồi
nước đầu tư và đóng góp cho sự nghiệp văn hố, vì sự phồn vinh của văn hố
dân tộc. Chính từ nhận thức đúng đắn về vai trị của văn hoá trong việc tạo ra
điều kiện tổng thể thuận lợi để đưa tiêu chí chân, thiện, mỹ vào mọi lĩnh vực xã
hội, Đảng và Nhà nước đã có chiến lược phát triển văn hoá đúng đắn, bảo đảm
cho toàn bộ đời sống xã hội phát triển toàn diện, hài hoà, đồng bộ. Các chỉ tiêu
phát triển kinh tế - xã hội luôn được đặt trên cơ sở nền tảng văn hoá, chú trọng
phát triển văn hoá cả tầm vĩ mô lẫn vi mô. Đảng ta đã khẳng định: “Tăng nhanh
mức đầu tư của Nhà nước và của xã hội cho sự nghiệp phát triển văn hoá” [8.
tr114]. Ngay trong quy hoạch một đô thị, một đường phố, một làng xã, một đơn
vị... thì văn hố cũng ln được tính đến như là thành tố khơng thể thiếu, là

thước đo quan trọng đối với tính khả thi của tồn bộ quy hoạch. Những người
kinh doanh giỏi, quản lý giỏi cũng đang cố gắng phấn đấu để đồng thời là người
có trình độ văn hố, có ý thức sâu sắc về cái đẹp... Và ngay trong lĩnh vực tiêu
dùng, cả về nhu cầu và cách thức của nó, tính văn hoá cũng đang dần dần biểu
hiện rõ nét.
c. Tăng cường thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng thành chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển văn hóa
Một là, cải cách thể chế văn hóa; từ đổi mới về tư tưởng, quan niệm về
phát triển văn hóa mà nhận thức của các cấp ủy đảng, lãnh đạo là yếu tố vô cùng
quan trọng, đến sự kết hợp giữa phát triển sự nghiệp văn hóa cơng ích với phát

19


triển các ngành kinh doanh văn hóa, đổi mới các thể chế văn hóa với đổi mới
chính bản thân văn hóa.
Trên cơ sở nắm chắc xu thế phát triển văn hóa thế giới ngày nay, nhận
thức về quy luật xây dựng văn hóa dưới điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cải cách thể chế văn hóa là sự tiếp tục cải cách thể chế kinh tế,
chính trị, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, y tế, thể thao...
Hai là, đấy nhanh quá trình ban hành các luật tạo điều kiện vận hành văn
hóa trong nền kinh tế thị trường như các luật về bảo trợ, hiến tặng... cần được
ban hành, bổ sung, hoàn thiện, làm cơ sở để phát triển văn hóa, đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi chúng ta phải cùng lúc đưa
xây dựng văn hóa và xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội vào toàn cục phát triển.
Nguyên lý phát triển kinh tế, xã hội hài hòa đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức
mạnh tổng lực, hình thành tinh thần dân tộc mới, lấy chủ nghĩa yêu nước làm cốt
lõi của tinh thần thời đại mới, lấy quan điểm đổi mới toàn diện, triệt để làm hạt
nhân tư tưởng, nhằm tạo ra sự đoàn kết rộng rãi và phát huy tối đa trí tuệ của

tồn Đảng, tồn dân. Do vậy, cần phải cải cách thể chế văn hóa một cách mạnh
mẽ và khoa học, tiến hành giải phóng sức sản xuất văn hóa nhằm tạo động lực to
lớn cho sự phát triển của nền văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự
phát triển hài hòa giữa xây dựng văn hóa với xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội.
Ba là, tăng cường công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ hoạt động trong lĩnh
vực văn hóa, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chun mơn,
nghiệp vụ và quy hoạch những cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt, là tấm
gương tốt trong cộng đồng, xã hội.
Bốn là, tăng cường đầu tư cho văn hóa cần tương xứng với vị trí, vai trị
của văn hóa trong xã hội; khơng thể đặt hiệu quả kinh tế làm thước đo cho các
đầu tư văn hóa. Xác định việc phát triển văn hóa là nhiệm vụ, trách nhiệm của
tồn xã hội, khơng phải chỉ riêng ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Vì vậy, các
ngành, các cấp cần cơ sự phối hợp với nhau và với ngành văn hóa để việc phát
triển văn hóa được thuận lợi nhất.
20


Năm là, phát triển các ngành cơng nghiệp văn hóa nhằm khai thác và
phát huy những tiềm năng văn hóa Việt Nam; cân đối giữa lợi ích kinh doanh
với các mục đích chính trị, văn hóa, giáo dục của văn hóa; hướng văn hóa theo
sát sự chuyển đổi của thực tế đời sống, nhu cầu của quần chúng nhân dân; khơi
dậy sức sáng tạo văn hóa của mọi thành viên trong xã hội. Thúc đẩy sự kết hợp
giữa việc bảo tồn và phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc với việc tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Cần khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa
mang thương hiệu Việt Nam ra các thị trường nước ngoài, đưa thơng điệp văn
hóa Việt Nam đến với bạn bè năm châu, góp phần quảng bá văn hóa quốc gia ,
phục vụ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
d. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với sự nghiệp phát triển
văn hóa
Thơng qua kiểm tra, giám sát để phát hiện, uốn nắn những lệch lạc, biểu

dương khen thưởng kịp thời, chính xác những điển hình tiên tiến, gương người
tốt, việc tốt, cách làm hay trong quá trình lãnh đạo phát triển văn hóa từ cơ sở.
Đồng thời, tổng kết rút kinh nghiệm để khơng ngừng hồn thiện phương thức
lãnh đạo của Đảng cho sát hợp với thực tiễn hoạt động văn hóa ở cơ sở. Đặc biệt
phải khắc phục tác phong “du kích” trong quản lý văn hố và phát triển văn hố,
vì tác phong đó sẽ làm cho q trình phát triển văn hố trở nên lộn xộn, vơ tổ
chức, kế hoạch nọ ngáng trở kế hoạch kia, kế hoạch sau phá hỏng thành quả của
kế hoạch trước... Mặt khác, việc tăng cường công tác kiểm tra và tổng kết rút
kinh nghiệm cịn cho phép khắc phục tình trạng chồng chéo, cản trở lẫn nhau
giữa việc triển khai các kế hoạch phát triển văn hố với q trình thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế, chính trị và các phong trào, hoạt động khác.
Quá trình tăng cường kiểm tra, giám sát đối với lãnh đạo sự nghiệp phát
triển văn hóa của Đảng cần quán triệt tư tưởng kiên trì, kết hợp chặt chẽ xây và
chống; đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực lý luận văn hoá, nhằm bảo vệ nền tảng
tư tưởng văn hoá cách mạng, tiên tiến của Đảng.

21


KẾT LUẬN
Trong thời kỳ mới, xây dựng và phát triển văn hóa phải góp phần làm cho
mỗi người khơng chỉ nhận thức được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình
mà cịn phải thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội. Việc chú trọng phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ
với chính trị và kinh tế; phải “thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong
kinh tế”; coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước mà
một trong những nội dung quan trọng chính là đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cụ thể, văn hóa, đạo đức và lối sống
lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước, đồn
thể, trong cán bộ, cơng chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên,

nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ
quan, đơn vị; đồng thời, phải làm cho văn hóa góp phần “ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
công chức, đảng viên”[12], bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Làm được và làm tốt những nhiệm vụ này là thiết thực làm cho đất nước
phát triển toàn diện, đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và mơi trường;
để sự tăng trưởng về kinh tế đi đôi với phát triển văn hố - giáo dục, phát triển
tồn diện con người Việt Nam, bảo đảm ổn định chính trị và giữ vững an ninh quốc phòng của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ./.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tr. 166
[2] V.I. Lênin Toàn tập, Tập 12, Nxb Sự thật.H.1980, Tr123.
[3] Hồ Chí Minh - Về cơng tác văn hoá văn nghệ. Nxb Sự thật. H.1971.
[4] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III. BCHTW Đảng lao
động Việt Nam xuất bản. 9 -1960. Tr .75,76
[5] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật.H.1987.
Tr.129 -130
[6] Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V. (3-1982)
[7] Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển VHNT
trong thời kỳ mới. Ngày 16/6/2008 tr. 7,8.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 114
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr.106, tr.213.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị
quốc gia - Sự Thật, H, 2011, tr.19
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, H, 2016, tr.126
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI, Nghị quyết số 33 về “Xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,
ngày 9/6/2014

23



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×