Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nhân sinh quan và thế giới quan qua ánh sáng của đại thừa khởi tín luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.49 KB, 16 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

Đề tài:
Nhân Sinh Quan và Thế Giới Quan qua ánh sáng của
Đại Thừa Khởi Tín Luận
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.T. Đồng Trí
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Nga
Pháp danh: TN.Chánh Y
Mã sinh viên: TX 6258
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2022


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

Đề tài:
Nhân Sinh Quan và Thế Giới Quan qua ánh sáng của
Đại Thừa Khởi Tín Luận
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.T. Đồng Trí
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Nga
Pháp danh: TN.Chánh Y


Mã sinh viên: TX 6258
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2022


MỤC LỤC


A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Cứu vớt và giải thoát ln là mục đích và nội dung của nhân sinh quan tư tưởng triết
học Đạo Phật. Phật giáo bác bỏ “sự tồn tại” của Brahman – “đấng sáng tạo” và “ngã”
(Atman) của Upanishad, nhưng lại tiếp thu tư tưởng “Luân hồi” (samsara) và “nghiệp”
(karma) của Upanishad trong toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại. Phật giáo chỉ
thừa nhận bốn điều thường tồn là : Mọi chúng sinh đều sinh ra từ “vô minh”; Tất cả
mọi đối tượng của dục vọng đều là vô thường, là sự khổ, là điều thay đổi; Tất cả mọi
tồn tại đều vô thường, đều khổ là điều thay đổi; “Ngã” cũng không phải là gì thuộc về
ta.Nhân sinh quan Phật giáo nói gọn là giải thoát luận. Tuy vậy, hạn chế là để đạt mục
đích cuối cùng, Phật giáo lại thực hiện bằng cách loại bỏ dần nguyên nhân của sự tồn
tại của thế giới hiện thực. Bởi lẽ : Đối tượng giải thoát và cứu rỗi của Phật giáo là tất
cả chúng sinh không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, nam, nữ, già, trẻ. Tất cả đều có
thể giải thốt, có thể thành Phật. Bản thân Phật cũng không phải là vị thánh thần mà là
một con người đã giải thoát, đã giác ngộ. Niết bàn hay trạng thái giải thoát chính là
trạng thái đã đoạn trừ được những ràng buộc trần thế, những đau khổ, phiền não do
“vô minh”, “tham dục” gây ra. Niết bàn là trạng thái tâm hồn hồn tồn được giải
thốt, tĩnh lặng, trong sáng thanh tịnh, cực lạc siêu không gian, siêu thời gian. Vấn đề
kiến giải của hàng phàm phu ngoại đạo luôn quanh quẩn trong lưới tà kiến là việc hiển
nhiên; nhưng bấy giờ trong Phật giáo, tiêu biểu là hệ tư tưởng A-tỳ-đàm cũng rơi vào

thiên chấp, khi xiển dương Nhân sinh quan (bao hàm cả Vũ trụ quan) của mình là
Nghiệp cảm Duyên khởi. Thiên chấp này được triển khai từ giáo nghĩa nguyên thỉ là
năm uẩn và mười hai nhân duyên, tức là từ giáo nghĩa Vô ngã mà rơi vào hữu ngã. Và,
vấn đề bế tắc của Chủ thuyết này là Nghiệp tích lũy ở đâu và do đâu mà hiện hữu? Bế
tắc này sau đó đã được trường phái Duy thức giải đáp với giáo nghĩa A-lại-da Duyên
khởi. Tuy vậy, phái Duy thức vẫn chưa đáp ứng vướng mắc tế nhị: Do đâu mà có Alại-da? Đây là tăng thượng duyên đẩy đưa sự phát khởi giáo nghĩa Khởi Tín với Chủ
thuyết Chân như Duyên khởi. Với Chủ thuyết này, Khởi Tín đã đưa Nhân sinh quan
(và Vũ trụ quan) Phật giáo đến tận uyên nguyên; đồng thời, vừa phủ nhận hệ tư tưởng
thiên chấp của trường phái A-tỳ-đàm, cũng vừa hệ thống hóa giáo nghĩa Đại Thừa về
một mối. Và, theo bản ý Luận chủ, đây là Pháp cần phải được xiển dương để phát
khởi và phát triển đức tin chính xác Đại Thừa nhằm hạt giống Phật được tồn tại trong
cuộc đời..Đó là lý do Học viên chọn đề tài: Nhân Sinh Quan và Thế Giới Quan qua
ánh sáng của Đại Thừa Khởi Tín Luận làm đề tài nghiên cứu.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên dùng phương pháp: nghiên cứu của Tôn giáo học, triết học như: phân tích,
tổng hợp, lơgic, lịch sử, khái qt hóa, trừu tượng hóa.
3.Nội dung nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu :phân tích niết bàn theo quan
điểm của Phật giáo Theravàda
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung.Nội dung gồm 03 chương
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo

A. NỘI DUNG
4


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN

1.1.Giải thích tên Đại Thừa khởi tín luận
Đại Thừa khởi tín là, làm phát khởi niềm tin đối với Đại thừa. Đại Thừa là, trong Thập
Nhị Môn Luận, Bồ tát Long Thọ nói: “Vì sao gọi là Đại thừa? Vì đối với Nhị thừa là
trên nên gọi là Đại Thừa. Chư Phật là bậc tối đại mà thừa này hay đến nên gọi là Đại.
Chư Phật là bậc đại nhân mà ngồi thừa này nên gọi là Đạ. Hay diệt trừ các đại khổ của
chúng sanh, cho việc đại lợi ích nên gọi là đại. Vì là chỗ nương của các đại sĩ như
Quán Âm, Văn Thù … nên gọi là Đại. Thừa này tột biên để của tất cả pháp nên gọi là
Đại. Trong kinh Bát Nhã, Phật nói về nghĩa Đại Thừa vô lượng vô biên nên gọi là
ĐẠI. Phần thâm nghĩa của Đại Thừa chính là khơng. Nếu thông suốt nghĩa này là
thông suốt Đại thừa, đầy đủ ba la mật, khơng có chướng ngại...”.Như vậy, nghĩa của
Đại Thừa thì vơ lượng vơ biên, khó mà định nghĩa hết, nhưng khơng ra ngồi một
nghĩa khơng.Luận là, quyết trạch đúng sai, phát minh chánh lý, giảng trạch những thứ
chẳng phải là kinh luận, dùng luận để minh chứng. Luận này được làm khoảng 600
năm sau khi Phật nhập diệt. Tiểu thừa thì chẳng tin duy tâm, ngồi tâm thủ pháp, khởi
nhiều tranh luận. Ngoại đạo thì tà chấp, phá hoại chánh pháp. Nên Luận chủ khởi lịng
thương xót mà tạo luận này. Nó là cương yếu của 2 tơng Tánh Tướng, thâm cùng cội
nguồn của mê ngộ, chỉ bày yếu chỉ thẳng tắt của việc tu hành. Nghĩa là, tổng nhiếp tất
cả nghĩa lý sâu mầu mà Như Lai đã nói.
1.2.Sơ lược vế tác giả Mã Minh
Mã Minh là tên của người tạo luận. Ngài là người Trung Thiên Trúc, xuất hiện khoảng
600 năm sau khi Phật nhập diệt, là Tổ thứ 12 trong Phật giáo Ấn Độ và có cơng rất lớn
trong việc chuyển Phật giáo Tiểu thừa qua Đại thừa. Tương truyền, khi ngài vừa sanh
ra đã cảm đến bầy ngựa khiến chúng kêu lên bi thiết. Sau giảng pháp ở Bắc Thiên
Trúc, bầy ngựa của vua cũng bỏ ăn nghe pháp mà hí vang. Vì thế, người đời gọi ngài
là Bồ tát Mã Minh (Mã, là ngựa. Minh, là kêu).Ngài là người thông minh, hiểu rộng,
về mặt biện luận thì khơng ai bằng. Lúc đầu xuất gia làm sa môn của Ngoại đạo. Một
lần, ngài xướng lên rằng: “Tỳ kheo nào có thể cùng ta tranh luận thì hãy gõ kiến trùy.
Nếu khơng thắng được thì không được nhận lễ cúng dường”. Bấy giờ, trưởng lão Hiếp
đang ở vùng Bắc Thiên Trúc, biết ngài là người có thể giáo hóa, bèn dùng thần thơng
bay đến Trung Thiên Trúc, sai mọi người gõ kiến trùy cùng ngài tranh luận. Ngài thua

và trở thành đệ tử của trưởng lão Hiếp từ đó.Sau, trưởng lão trở về bản quốc. Ngài ở
lại, hoằng dương Phật pháp một thời gian thì vua Tiểu Nguyệt Thị nước Bắc Thiên
Trúc mang quân đánh chiếm Trung Thiên Trúc. Ngài và chiếc bát của Phật là 2 báu vật
mà vua Trung Thiên Trúc phải dâng nạp cho Bắc Thiên Trúc mới được cầu hàng. Từ
đó về sau, ngài hoằng pháp ở Bắc Thiên Trúc, biện luận thuyết pháp khơng ai sánh
được, có thể cảm hóa cả lồi phi nhân.Tác phẩm của ngài gồm có : Đại Thừa Khởi Tín
Luận, Đại Tơng Nghĩa Huyền Văn Bản Luận, Phật Sở Hành Tán, Thập Bất Thiện
Nghiệp Đạo Kinh, Lục Thú Luân Hồi Kinh, Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh.
CHƯƠNG 2
NHÂN SINH VÀ THẾ GIỚI QUAN TRONG ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
5


2.1. TÂM – Ý – THỨC
TÂM là khả năng nhận biết một đối tượng, là sự biết cảnh, biết đối tượng.
• TÂM THỨC: là khả năng nhận biết, ghi nhận, ý thức, nắm bắt một đối tượng.
• TÂM TRẠNG : là hình thức biểu hiện, diễn tả của Tâm xuyên qua 5 trạng thái: vui,
sướng, buồn, đau và thản nhiên (hỉ, lạc, ưu, khổ, xả)
• TÂM HÀNH: là khả năng hành xử của TÂM hay thái độ của nó trước một đối tượng
tùy theo tính cách thụ động (quả), chủ động (nghiệp) hoặc tự động (duy tác).
• TÂM TƯỞNG: là khả năng ghi nhớ, hồi tưởng, hình dung những sự vật hay khái
niệm mà mình đã kinh nghiệm biết qua.
• TÂM VƯƠNG: là phần chính yếu của tâm, nó làm chủ và nâng đỡ các pháp đồng
sanh.
• TÂM SỞ hay SỞ HỮU TÂM: là thành phần phụ thuộc của Tâm làm cho tâm có một
trạng thái riêng biệt, hoặc một khả năng nào đó tuỳ theo bản chất của loại tâm sở đó.
Ngun nhân làm phát sanh tâm:

Nghiệp q khứ (hành=>thức)


Cảnh (khơng có cảnh sẽ khơng có tâm)

Sở hữu tâm (đồng sanh với tâm)

Vât nương tựa (ý căn là tập hợp toàn bộ các nơ-ron cùng làm một việc trong
cùng một lúc)
Khác nhau giữa tâm, ý, thức

Tâm = Citta đó là Tàng thức hay A lại Da Thức (Alayavijana) bảo lưu tất cả
chủng tử, trưởng
dưỡng tất cả tập khí của tất cả Uẩn, Xứ và Giới, nghĩa là toàn bộ thân tâm này.

Ý = Mana hay Mạt na thức chính là sự chuyển biến, thể hiện của Tàng thức
thành tư duy, biện uận và ln tự có khuynh hướng chấp ngã với tập nhiễm của 4 thứ
phiền não Ngã kiến, Ngã ái, Ngã mạn và Vơ minh.

Thức = Vijnana, chính là lục thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân
thức và ý thức.
Giống nhau là cùng góp phần để tạo nên tiến trình tâm thức, nhận biết đối tượng, tạo
nên hữu tình chúng sanh.
Giải thích “tình dữ vơ tình giai dĩ thành Phật đạo”: đó là Chánh báo và y báo như ở
Tây Phương Cực Lạc có cả chim hót, cây cối, gió mát... hiển bày chân lý. Chúng đều
góp phần vào việc giác ngộ.
Vậy nên ba cõi là giả dối, duy tâm làm ra: rời cái tâm thì khơng có cảnh giới lục trần.
Nghĩa đó thế nào? Vì tất cả các pháp đều do tâm khởi ra vọng niệm mà sinh, nên tất cả
sự phân biệt tức là phân biệt tự tâm. Song tâm không thấy được tâm, khơng có tướng
gì có thể nhận được; vậy thì biết tất cả cảnh giới thế gian đều nương với vọng tâm vơ
minh của chúng sinh mà có chân đứng. Lại nữa, gọi là ý thức, tức là tương tục thức,
nhưng với sự chấp trước thâm sâu của hàng phàm phu, chấp ngã, ngã sở và vọng chấp
nhiều thứ, theo sự mà phan duyên, phân biệt sáu trần, nên gọi là ý thức, cũng gọi là

phân ly thức, lại cũng gọi là phân biệt sự thức. Thức đó có cái nghĩa nương với kiến ái
phiền não mà tăng trưởng vậy. Nương với sự huân tập của vô minh mà khởi ra thức.
Phân biệt hành - thức trong Thập Nhị nhân duyên và hành - thức trong Ngũ uẩn
Hành – thức của 12 nhân duyên liên quan đến những việc đã xảy ra. Trong tam thế
lưỡng trùng nhân quả thì Vơ minh – hành – thức thuộc quá khứ. Do Vô minh dẫn đến
6


hành (như khối nghiệp), còn thức (Alaida) mang đi tái sanh rồi mới có danh sắc – lục
nhập... Ái – thủ - hữu là cái đang diễn ra.
Hành – thức của Ngũ uẩn là liên quan đến những gì đang xảy ra. Thức bao gồm cả
Alaida, Mana và 6 thức.
5 thành phần của Ý

NGHIỆP THỨC: Là lực vơ minh bất giác tâm động. Nó là nền tảng đầu tiên để
có tâm thức.

CHUYỂN THỨC: Y nơi tâm động mà thấy tướng. TÂM ĐỘNG là chỉ cho
Nghiệp Thức trên. Vì động mà có chuyển. CHUYỂN là chỉ cho sự thay đổi chuyển
biến so với trạng thái cũ. CHUYỂN THỨC là chỉ cho trạng thái tâm khơng cịn tĩnh
lặng mà đã có sự sanh diệt.

HIỆN THỨC: Là hay hiện tất cả cảnh giới. Như gương sáng hiện các sắc
tượng, hiện thức cũng như vậy. Tùy 5 trần nào ứng đến được thì liền hiện khơng có
trước sau. Vì tất cả thời nhậm vận mà khởi, thường hiện tiền. Hiện thức tức là thức
Alaida. Alaida là chỗ chấp trì chủng tử của các pháp mà cũng là chỗ biến hiện ra các
pháp. Chỉ nhấn mạnh về mặt biến hiện nên nói là hiện thức. Phân biệt là đặt trưng của
thức. Phân biệt là nền tảng để ý thức nương đó so đo vạn pháp rồi tạo nghiệp.

TRÍ THỨC: Phân biệt pháp nhiễm tịnh. Phân biệt là đặt trưng của thức. Phân

biệt là nền tảng để ý thứcnương đó so đo vạn pháp rồi tạo nghiệp.
•TƯƠNG TỤC THỨC: Vì niệm tương ưng chẳng dứt. Trụ trì nghiệp thiện ác trong vơ
lượng đời q khứ khiến chẳng mất. Lại hay thành thục quả báo khổ, vui … trong
hiện tại và vị lai không hề sai lệch. Hay khiến hiện tại, bỗng nhiên nhớ lại những việc
đã qua, bất giác lo nghĩ vọng tưởng những việc chưa đến. Niệm tương ưng chẳng dứt
là hiển bày nghĩa của 2 chữ tương tục: niệm này nối tiếp niệm kia sanh diệt không dứt.
2.2. Nhân duyên biến-phân biệt biến
Nhân duyên, là nền tảng để có thế giới, con người và vạn vật như hiện nay.Kinh Lăng
Già nói: “Bất tư nghì huân và bất tư nghì biến là nhân của hiện thức”.Luận Đại Thừa
Khởi Tín nói rõ hơn: "Tất cả pháp chỉ y nơi vọng niệm mà có sai biệt. Nếu khơng có
tâm niệm thì khơng có tướng tất cả cảnh giới".Tất cả suy nghĩ và hành động của
chúng sinh, được qui kết trong ba thứ là thân, khẩu và ý nghiệp, được HUÂN tập và
lưu giữ trong tạng thức của chính mình dưới dạng các chủng tử. Khi đủ dun, nó sẽ
có lực BIẾN ra thế giới và thân tâm chúng sinh hiện tại. Việc ‘biến’ này tương tự như
ngủ mê rồi mộng mà thấy mọi cảnh giới như thật, hoặc như tình trạng đi trong sa mạc,
khát nước quá mà thấy trước mắt hiện ra các ốc đảo.Một lần ra Phan Thiết, tôi được
biết nhân duyên vào đạo của một người bạn rất hy hữu. Với cái nhìn Duy tâm của nhà
Phật, đó là chuyện bình thường, nhưng khơng phải là chuyện dễ tin với người chưa
từng biết gì về lý Duy tâm, lại là người có đầu óc Duy vật.Chị là một cán bộ nhà nước,
không tin lắm những chuyện mang tính đạo giáo. Chị có một người em đau nặng. Sau
một thời gian chữa trị, bác sĩ khuyên nên mang bệnh nhân về. Vì bệnh nhiễm trùng
huyết đã sang thời kỳ nặng, vi khuẩn đã theo mạch máu vào khắp tất cả các cơ quan
phủ tạng làm thương tổn tất cả. Nhưng gia đình khơng đành nên vẫn van nài để được
ở lại bệnh viện. Mười hai ngày sau, bệnh trở nặng. Bác sĩ khuyên nên chuẩn bị hậu sự.
Gia đình khóc rất nhiều.Riêng người em kế, lại là một người rất tin tưởng vào Bồ tát
Quán Thế Âm. Nhìn thấy cảnh đau lịng đó, cơ khơng biết làm gì ngồi việc lên bàn
thờ, lễ lạy liên tục rồi khấn: “Nếu số của em con cịn thì cho ngày mai em con tỉnh lại,
nếu khơng thì xin cho em con ra đi được nhẹ nhàng. Con không thể nào chịu nỗi khi
7



nhìn thấy sự đau đớn của em con khi mang nó về nhà”.Khấn rồi, cơ ngồi như hóa đá
nơi bàn Phật, chí tâm niệm liên tục danh hiệu Quán Thế Âm từ 19 giờ đến 23 giờ, rồi
cùng người chị vào bệnh viện để thay ca. Lúc đó người của bệnh nhân trương phù lên
như cái bong bóng, tồn thân tím ngắt. Vừa lau người cho bệnh nhân, cơ vừa niệm Bồ
tát Quán Thế Âm, rồi ngủ thiếp đi lúc nào khơng hay. Cơ nghe thấy ai nói bên tai
“Mua muối đắp lên”. Giật mình tỉnh giấc, cơ cùng chị chạy xuống căng tin mua muối,
hòa vào nước rồi lén bác sĩ xoa khắp lên người bệnh nhân. Đến giờ bác sĩ vào phịng
khám, mọi người được mời ra ngồi. Hai chị em lật đật mở tấm drap để “tẩu tán”
những vết muối đã xát lên người bệnh nhân, thì thấy thân thể bệnh nhân đã trở lại bình
thường. Cơ la lên: “Chắc Phật cứu bé L rồi chị Hai ơi!”, rồi hai chị em cùng ra
ngồi.Khi vào lại phịng, một hiện tượng lạ đã xảy ra: Một đàn bướm lớn đang đậu
trên thành giường và bay chung quanh bệnh nhân. Người chị rờ được cả vào thân
chúng. Có điều, khơng ai thấy được đàn bướm ngồi hai chị em, dù trong phịng có
đến bốn bệnh nhân thêm bác sĩ và y tá. Phịng lại là phịng kín, khơng có lỗ hở, bướm
khơng thể vào phịng. Điều kỳ diệu ấy khiến tín tâm của hai chị em càng tăng trưởng,
càng chí thành niệm Phật hơn nữa.Bảy ngày sau bệnh nhân hồi phục nhanh chóng. Vết
tích của bệnh nhiễm trùng huyết khơng cịn. Với các bác sĩ đây là một ca bệnh hy hữu.
Họ đã nói với gia đình khi gia đình lên cám ơn: “Đừng cám ơn, bác sĩ khơng có cơng
cán gì trong việc này. Nó vượt ngồi khả năng của bệnh viện. Đây là một phép lạ, do
phước đức của gia đình lớn quá …”.Đúng là việc hy hữu ở thế gian. Người chị cũng
phát tâm tu hành từ đó. Cơ em cũng đã nhắn một lời với chúng ta thế này:“Phật pháp
của chúng ta rất nhiệm mầu. Khi chúng ta thành tâm thành kính đặt trọn niềm tin vào
Tam bảo, chúng ta sẽ được đáp ứng và đáp ứng một cách rất kỳ diệu ngoài sức nghĩ
bàn của chúng ta”.Hiện tượng trên nói lên phần nào những gì Phật Tổ đã nói trong
kinh luận: “Tam giới duy tâm. Vạn pháp duy thức”. Thế giới của mình là từ chính
thân, khẩu, ý của mình mà ra. Nói chính xác là ‘Từ vọng niệm mà sinh’. Do chủng
nhân là từ chính mình mà ra, nên những gì thuộc về mình mà người khác khơng có
mặt cộng nghiệp trong đó, thì khơng thể thấy. Đó là lý do vì sao đàn bướm chỉ có hai
chị em cảm nhận được mà người khác không thấy.

Phân biệt biến. Tô Đông Pha là một học sĩ làm quan thời Tống. Quan trường thăng
trầm nên ông thường đến chùa Kim Sơn học thiền và luận đạo với thiền sư Phật Ấn.
Là một học giả có tài, nên ơng tự hào ln về trình độ hiểu thiền của mình. Một lần,
nhà thơ hỏi thiền sư Phật Ấn: Thầy thấy con tọa thiền ra sao?Trang nghiêm như
Phật.Nhìn vẻ mặt phấn khởi của Tơ Đơng Pha, Phật Ấn hỏi lại: Cịn học sĩ, ơng thấy
tơi tọa thiền thế nào? Như đống phân bò. Thời gian qua đi, tin đó tới tai Tơ tiểu muội,
em gái Tơ Đơng Pha. Tuy là nữ nhi nhưng tài hoa xuất chúng, hơn người. Nghe anh kể
lại sự việc cô lắc đầu: “Tâm thầy như tâm Phật nên nhìn Sư huynh trang nghiêm như
Phật. Tâm sư huynh như phân bị nên nhìn thầy như đống phân bị”. Tâm nhìn vạn sự
vạn vật theo ý mình như thế, là một loại ‘Phân biệt biến’ mà hành giả tu thiền cần ý
thức để thanh lọc, trả tâm về cái nhìn chân thật.Thiền sư Hữu Tâm, trụ trì chùa Tịch
Tướng, có người sư đệ tên là Hữu Đắc. Hữu Đắc căn cơ chậm lụt lại chột hết một mắt,
bình thường chỉ giúp sư huynh làm việc ở nhà sau, chưa bao giờ tiếp khách. Một lần,
thiền sư Hữu Tâm đi vắng, vừa ra khỏi cửa thì một thầy tăng đến tham vấn. Sư Hữu
Đắc bất đắc dĩ phải dùng tay tiếp khách, cịn miệng thì câm như hến để khỏi lộ cái sở
đoản của mình.Sư Hữu Tâm trở về cũng vừa lúc gặp thầy tăng đến đầu ngõ. Thầy vui
vẻ khen ngợi: “Sư đệ của Thầy đúng là bậc pháp khí khơng ai sánh được. Trước tiên
8


con đưa một ngón tay muốn biểu thị Phật là đấng duy nhất trong cõi trời người, thầy
ấy liền đưa hai ngón tay biểu thị Phật Pháp tuy hai mà khơng phải hai. Sau đó con đưa
3 ngón tay muốn hiển thị Phật - Pháp - Tăng hịa hợp khơng thể thiếu. Sư thầy liền
cung tay vào mặt con biểu thị ba cái đó đều do một cú ngộ mà được”. Nói rồi tăng đắc
chí lễ bái mà đi.Sư Hữu Tâm về đến cổng chùa, Hữu Đắc ấm ức chạy ra: “Vừa rồi có
một thầy tăng chẳng ra làm sao. Vừa đến cổng, đã chỉa ngay vào con mắt chột của đệ
mà chế giễu. Đệ bỏ qua, đưa hai ngón tay biểu thị đủ hai con là may mắn. Không ngờ
hắn vẫn chưa hết cái tật đó, đưa ba ngón tay ám chỉ hắn và đệ cộng lại cũng chỉ mới
ba. Đệ chẳng nể nang gì nữa, cung tay đánh vào mặt hắn một cú. Không ngờ hắn cũng
biết lỗi, quì xuống lạy, rồi chạy mất”.Cùng một cảnh ngộ mà tăng thấy theo đường

tăng, sư thấy theo đường sư. Chỉ có sư Hữu Tâm ở giữa là hiểu sự việc khơng như hai
vị đó nói. Chẳng qua vì tư tưởng của mỗi người mỗi khác nên cảnh trở thành khác.
Đây là sản phẩm của phần ý thức phân biệt, nên gọi là Phân-biệt-biến. Chỉ với một
cảnh là 'Ba ngón tay và một cú đấm' nhưng trở thành hai cảnh khác nhau để có
chuyện mà nghe, là nhờ dịng vọng tưởng phong phú của mỗi người.Đây là việc xảy
ra rất thường trong cuộc sống của mình nhưng khơng mấy ai để ý. Vì ai cũng cho cái
thấy của mình là chính xác.Thật ra, khơng phải khi nào cái nhìn của mình cũng hoàn
toàn sai, hoàn toàn bị loại phân biệt biến này chi phối. Khơng hẳn. Có thứ mình vẫn
nhìn đúng, nhưng có thứ mình nhìn khơng đúng. Tệ hại là mình lại ln cho những gì
mình nghĩ là đúng. Mình dễ dàng nhận định người khác nhìn về mình khơng đúng,
nhưng chính mình lại đang nghĩ về người cũng khơng đúng.Trong cuốn Theo hành
trình vào phân tâm học của VĐL có nói đến hiện tượng PHĨNG RỌI. Hiện tượng này
là một dạng của loại Phân-biệt-biến nói đây. Hiện tượng đó được ghi lại như
sau:Nghiên cứu tiềm thức, người ta nhận thấy một hiện tượng sau đây: Con người
thường hay đem những tâm tình kín đáo vùi sâu trong tiềm thức của mình phóng rọi
vào người khác. Họ gán cho người khác những mặc cảm, thái độ, thèm khát, lo âu của
họ. Và lạ lùng thay, họ thấy ở người khác những dấu hiệu biểu lộ những tâm tình ấy.
Đó là hiện tượng phóng rọi. Phóng rọi tạo ra những liên lạc thầm kín trong tiềm thức,
khơng kiểm sốt được. Khi người ta không hiểu được những lo sợ khát khao thầm kín
của mình, người ta dễ phóng rọi những nét chính yếu của tâm trạng thầm kín đó vào
người khác.Sự nguy hiểm của hiện tượng phóng rọi là họ có thể lầm lẫn một cách
đáng tiếc. Họ suy diễn sai lạc những dấu hiệu ấy. Rốt cuộc họ khen ngợi tính tốt hay
chê bai tính xấu của người khác mà kỳ thực tính tốt hay tính xấu đó chỉ từ chính họ
mà ra.Ca tụng quá đáng một người hay chê trách cay nghiệt một người đều là dấu hiệu
phóng rọi. Nhiều người khi nói đến người thân, một người bạn, một người mẹ hay một
ông thầy, họ tỏ vẻ tôn sùng ái mộ một cách khác thường. Giữa họ và người thân của
họ có những mối dây ràng buộc bí ẩn mãnh liệt trong tiềm thức. Đó là một trường hợp
phóng rọi.Tuy nhiên, người có ý thức rõ rệt về tự do, về tư cách, ít khi chịu nhận sự
khen ngợi quá đáng. Họ không muốn bị lôi kéo vào những tình trạng giả tạo. Một
người đàn bà thơng minh chỉ có thể nhận lời tán dương của chồng trong một thời gian

nào thôi. Họ muốn sự chân thật, nên không thể nuốt trôi được cái gọi là quá đáng,
tượng trưng cho sự phóng rọi của những xúc động tiềm thức khơng có kiểm sốt.Hầu
hết những cuộc tình dun đều bắt đầu bằng một hiện tượng phóng rọi. Trong cõi
thâm sâu của tiềm thức, những tâm tình cao đẹp nhất của ta khơng ngờ khi ta đem
tặng người u, nó đã dội trở lại và giúp ta cấu tạo hình ảnh của người yêu trở nên cao
đẹp. Tuy chỉ là một ảo ảnh nhưng là ảo ảnh tượng trưng cho lý tưởng. Nó huy động
9


được nguồn sinh lực lớn lao để dẫn dắt bước tiến tới và giúp ta vượt những trở ngại
dọc đường.Vì chỉ là sự phóng rọi tâm thức của mình lên đối tượng, nên chẳng bao lâu
qua các cuộc tiếp xúc chung đụng thực tế, hình ảnh ấy tan rã. Kinh nghiệm thực sự
thay thế cho những ảo tưởng ban đầu ... Điều tai hại là cuộc chung đụng đó, có khi lại
làm xuất hiện những phóng rọi khác, mà những phóng rọi đó có khi chỉ là những ham
muốn kín đáo không được thỏa mãn, những lo lắng bất an của chính mình. Bây giờ
mọi trách móc bắt đầu lộ diện. Những điều trách cứ đó chính là những bất mãn sâu xa
của chính họ.Đời sống gia đình, xã hội, cơng việc, chính trị v.v... đem lại biết bao cơ
hội cho người ta phóng rọi thầm vọng và thắc mắc. Bởi người ta phải đụng chạm
nhau, lệ thuộc nhau và phải tìm hiểu những gì chung quanh mình để tạo lấy đường lối
ứng thù ...Có lẽ lồi người khó lịng tránh được các hiện tượng phóng rọi. Nhưng với
người hiểu biết, họ vẫn cố gắng xét người một cách công bằng, vô tư. Họ không đem
những bất mãn, những lo lắng thâm sâu của họ phóng rọi lên người khác.Chỉ có tình
u chân chánh, thiện chí chân thành và sự nhận định đến nơi đến chốn mới có thể
loại trừ những hiện tượng phóng rọi tai hại. Muốn thốt khỏi hiện tượng phóng rọi,
phải cố gắng vươn lên đời sống chân thật. Vươn lên đời sống chân thật chính là phải
tìm hiểu mình trước tiên, khơng để cho những mãnh lực tình cảm cản trở sự liên lạc
chân xác của mình với những người chung quanh. Lập được sự liên lạc chân xác đó là
lập được quan hệ tự do của ta với cuộc đời.Loại Phân-biệt-biến này góp phần làm cho
những hiện tượng thuộc Nhân-duyên-biến vốn đã muôn màu muôn vẻ lại càng thêm
muôn màu muôn vẻ hơn nữa. Chiến tranh, tai họa v.v... phần lớn đều do loại Phânbiệt-biến này mà ra.


CHƯƠNG 3
ỨNG DỤNG TU TẬP ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN TRONG ĐỜI SỐNG
3.1.Qn vơ ngã
Trong kinh Phật nói: “Thân này chẳng phải là Ta, chẳng phải của Ta, chẳng phải tự
ngã của Ta”. Vậy phải quán như thế nào để thấy được nó chẳng phải Ta, chẳng phải
của Ta, chẳng phải tự ngã của Ta. Sắc uẩn do bốn đại hợp thành, giả hiện có thân
tướng. Đã do bốn đại hịa hợp thành thì đất là của đất, sao bảo là của Ta? Cũng thế,
nước là của nước, gió là của gió, lửa là của lửa đâu thể bảo là của Ta? Còn thế nào là
10


chẳng phải Ta? Bởi ta là hữu tri, vốn có đủ tánh phân biệt hiểu biết, trái lại bốn đại là
vật không tri giác làm sao gọi bốn đại là Ta? Vả lại bốn đại mỗi đại đều có tính chất
riêng, đất tính cứng, nước tính ướt, gió tính động, lửa tính nóng, mỗi phần riêng biệt
hợp lại đâu thể thành một thể thuần nhất. Vì thế nên biết sắc uẩn cũng không phải tự
ngã của Ta. Thọ, tưởng, hành, thức. Tức thuộc về phần tinh thần. Thọ: do căn trần tiếp
xúc mà sanh khổ vui, hoặc bình thường (khơng khổ, không vui). Tưởng: do nghĩ nhớ
những việc đã qua, suy tưởng việc sắp đến, nghĩ việc hiện tại. Hành: do niệm sanh
diệt tương tục trong từng sát na, có thiện hành, ác hành, vô ký hành. Thức: do phân
biệt lành dữ, tốt xấu, phải quấy... có thủ xả, khơng thủ xả.Về Thọ có phải là Ta chăng ?
Thọ do xúc mà có, khơng xúc thì thọ cũng khơng. Nếu bảo Thọ là Ta như vậy khi
không xúc Ta cũng không nữa sao? Thế nên biết Thọ chẳng phải là Ta. Nếu bảo Thọ là
của Ta cũng khơng được, vì Thọ do xúc mà có, là của xúc sao bảo là của Ta? Thọ từ
xúc sanh, lại có khi thọ vui, thọ khổ, thọ không vui không khổ, chẳng phải một thể
nguyên vẹn, nên cũng chẳng phải tự ngã của Ta.Về Tưởng có phải là Ta chăng ?
Tưởng do nhớ nghĩ mà thành, khơng nhớ nghĩ thì Tưởng cũng khơng. Nếu bảo Tưởng
là Ta thì khi khơng nhớ nghĩ ta cũng không. Thế nên biết Tưởng chẳng phải là Ta. Lại
Tưởng do nghĩ nhớ mà thành, thì Tưởng là của nhớ nghĩ sao gọi là của Ta? Tưởng có
tưởng về quá khứ, tưởng về vị lai, tưởng về hiện tại, không một thể nhất định không

phải tự ngã của Ta.Về Hành có phải là Ta chăng ? Hành do niệm khởi, niệm diệt thì
Hành cũng khơng. Nếu bảo Hành là Ta, như vậy khi niệm diệt Ta cũng không. Thế là
Hành cũng chẳng phải Ta. Hành do niệm khởi thì Hành là của niệm sao bảo của Ta?
Hành có ác hành, thiện hành, vô ký hành, sanh diệt không dừng, khơng có thể cố định,
nên cũng khơng phải tự ngã của Ta.Về Thức có phải là Ta chăng ? Thức do phân biệt
sanh, khơng phân biệt thì Thức cũng khơng. Nếu bảo Thức là Ta tức khi không phân
biệt Ta cũng không. Thế nên Thức chẳng phải là Ta. Thức đã do phân biệt sanh thì
Thức là của phân biệt, sao bảo của Ta? Thức có thủ có xả, có bình thường, khơng thủ
khơng xả, chẳng có một thể cố định nên cũng chẳng phải tự ngã của Ta. Theo Bát Nhã
Tâm Kinh: Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn
giai không, độ nhất thế khổ ách.Quán Tự Tại Bồ Tát, chủ thể quan sát, hay hành giả,
trong quá trình tư duy sâu sắc (Trí quan sát) mới thấy được ngũ uẩn đều không, nên
vượt qua mọi khổ ách.Khi hành thâm: tức qua một thời gian thực hành nghiền ngẫm
với Trí rộng khắp nhiều phương diện, lúc ấy mới thấy được ngũ uẩn đều không.
Không ở đây là hai giai tầng thực tại của Tính Khơng. Tính Khơng thứ nhất là Tướng
Khơng của ngũ uẩn (dung thể Không của ngũ uẩn chiếm trong không gian: Tướng
không của Sắc và Sắc là Một, tức Sắc không khác Không và Không không khác Sắc)
tức là Tự tính Tuyệt đối; cịn Tính Khơng thứ hai là khơng thật là nó nữa (như Sắc tức
thị khơng nghĩa là Sắc trong 1 sát-na đã biến thành không thật là Sắc nguyên thủy: Sắc
0 tuổi và Sắc +1sát-na tuổi) là thực tại giả lập do lịch trình huyễn hóa ngũ uẩn.Cho
nên suy xét kỹ thì thấy rõ mọi khổ ách (là quá khứ: Sắc tức thị không= Sắc qua 1 sátna thì khơng cịn thật Sắc ngun thuỷ nữa), khi ở thể không tuyệt đối (hư không) -không thể chạm vào hư không được dù hiện tại hay quá khứ. Còn ở thực tại giả lập,
khổ ách quá khứ thì hiện tại khơng cịn nữa. Sự đau khổ đã qua đi,chúng ta chỉ còn
vương vấn trong ký ức và luôn lập lại bằng ảo giác âm vang trong tâm thức mà thôi.
Giáo lý vô ngã là nền tảng, là căn bản của đạo Phật, chúng ta hãy xét đến lợi ích của
vơ ngã trên hai phương diện: đời sống hàng ngày và trên đường đạo.Trong đời sống
hàng ngày, chúng ta đau khổ phiền não vì tham, sân, si, giận hờn, ưa ghét, buồn lo, ...
11


tất cả những thứ phiền não đó có là vì chấp ngã mà ra. Vì khi tham thì ai tham? Tham

cho ai, vì ai? Khi tham thì Ta tham chứ ai vào đây. Ta tham cho Ta, cho vợ con của
Ta, cho gia đình của Ta, vì quyền lợi của Ta.Khi sân thì ai sân? Tại sao sân? Khi sân
thì Ta sân. Ta sân tại vì người khác làm trái ý Ta. Khi ưa thì ai ưa? Khi ghét thì ai
ghét? Khi ưa thì Ta ưa, ưa những thứ làm cho Ta vừa lịng. Khi ghét thì Ta ghét, ghét
những thứ làm cho Ta bực bội, khó chịu.Khi có nội kết thì ai có? Tại sao có nội kết?
Khi có nội kết thì Ta có. Có nội kết bởi vì người khác làm tổn thương Ta, danh dự của
Ta, tình cảm của Ta.Chấp ngã nhiều chừng nào thì khổ đau nhiều chừng đó. Ngược lại,
tu tập vơ ngã nhiều chừng nào thì bớt khổ nhiều chừng đó.
Mai lên núi buồn vui xin trả lại
Đường lợi danh tôi đã ngại bon chen
Bao vọng thức từ lâu xoay chuyển mãi
Thôi ngồi yên, nghe hơi thở, lãng quên.
Mai lên núi, thôi họp đêm suốt sáng
Thơi luận bàn, chuyện chiến quốc xn thu
Nước róc rách, gió vi vu là bạn
Bỏ cuộc vui, bao chén tạc, chén thù.
Mai lên núi, tơi khơng cịn du lịch
Khơng cịn ham dạo thế giới đó đây
Sống một chỗ nơi u nhàn tĩnh mịch
Tìm đâu xa? Lo khám phá tâm này.
Mai lên núi khỏi bộn bề phiền toái
Khỏi bận tâm, canh từng phút từng giây
Nếu cuộc sống không ung dung thư thái
Mãi rong tìm, ta được cái chi đây?
Mai lên núi khỏi nhọc cơng gặp gỡ
Khỏi tính bày những kế sách thành công
Mâm cỗ lớn, bổng lộc nhiều thêm nợ
Nghiệp đeo mang, đền trả kiếp nào xong?
Mai lên núi, lo toan thôi bỏ hết
Mặc cho ai dùng chiêu thức, tiến xa

Đi loanh quanh cho đời thêm mỏi mệt
Dừng phiêu lưu, nay cùng tử về nhà.
Mai lên núi khỏi nhọc công đi giảng
Khỏi soạn bài, khỏi cân nhắc tâm tư
Việc chính yếu: cốt cho lòng trong sáng
Tâm so đo sao hiển thị lý NHƯ?
Mai lên núi, thơi thuyết trình, hội thảo
Thơi luận tranh chuyện trứng với con gà
Bàn nói mãi, lại càng rời xa Đạo
Hãy trở về với thể tánh trong Ta.
Mai lên núi, bao chuyện tình dang dở
Thơi đủ rồi, ta xóa nợ cho nhau
Ta đeo mang đã bao đời bao thuở
Tiếc làm chi, thêm vướng bận về sau?
Mai lên núi, đâu có gì quan trọng
12


Dù thiếu tôi, thế giới vẫn đông vui
Thôi gởi lại những đêm trường mơ mộng
Những băn khoăn, phấn khởi với ngậm ngùi.
Mai lên núi là một lần cắt bỏ
Bao ngoại dun, bao gom góp cho mình
Nếu chân lý chưa vẹn phần ngộ tỏ
Thôi loay hoay với công việc độ sinh.
Mai lên núi, thật có cần khơng vậy?
Bạn bảo tơi hãy cứ sống nơi đây
Ai yếu sức mới tìm đường trốn chạy
Mai làm chi? Hãy hưởng phút giây này!
Mai lên núi, Bạn nghĩ sao cũng được

Bạn hay rồi, tôi đâu phải Thánh nhân?
Chân đã mỏi giữa dòng đời ngũ trược
Tâm chưa an khi đối diện cảnh trần.
Mai lên núi tôi vui cùng cây cỏ
Trăng lên cao bàng bạc ánh Lăng Già
Đêm thanh vắng, bạn cùng chòm sao nhỏ
Nhớ người xưa đạt Đạo lúc canh ba.
Mai lên núi, xin lãng quên người ấy
Xin một lần hoan hỷ, thứ tha nhau
Ta sẽ gặp trong một ngày trở lại
Sẻ chia nhau về lý Đạo nhiệm màu
Trích bài thơ mai lên núi tác giả TT.Thích Đồng Trí
3.2. Quán thân bất tịnh
Quán sát cái thể chất của thân người, để nhận thấy rõ sự bất tịnh của nó như thế
nào.Về chất cứng như xương, tóc, lơng, móng tay. Chất lỏng như máu, nước miếng,
nước mắt. Chất sệt như mỡ, óc, tủy. Trong các chất ấy, dù cứng, hay lỏng cũng chẳng
có thứ nào là trong sạch cả. Về chất cứng, như tóc của chúng ta nằm trên đầu, ai cũng
q nó hết. Nhưng nếu ta khơng tắm rửa gội đầu thường xuyên hoặc chải chuốt chăm
sóc hằng ngày thì lâu ngày nó trở nên hơi dơ bẩn thỉu, khơng một ai dám đứng gần.
Tóc là thứ ở nơi cao quý của con người mà còn bất tịnh như vậy, thì những thứ khác
như ruột, gan, phèo phổi lại còn bất tịnh biết chừng nào?Về chất lỏng, thì nước miếng
là sạch nhất, vì nó được ở trong miệng là nơi hằng ngày được lau chùi súc rửa nhiều
nhất. Thế mà lúc ra khỏi miệng, dù là của kẻ khác hay của chính mình, rủi bị dính vào
mặt, vào áo, thì ta liền có thái độ và những cử chỉ tỏ rõ sự nhờm gớm ngay.Về chất
sệt, thì não là phần quan trọng và được ở trong đầu óc là nơi cao quý nhất. Nhưng thử
tưởng tượng, khi chúng ta đi xe hơi chẳng hạn, rủi bị tai nạn, người ngồi bên cạnh ta
bị bể đầu, não trắng như đậu hũ tung tóe vào mặt mày chúng ta, thì chắc chắn những
người thiếu bình tĩnh sẽ chết giấc vì ghê tởm. Quán bất tịnh sau khi chết.Đây là thời
kỳ chung cuộc của mấy mươi năm sinh tồn của thân này. Phật dạy: Thân người do bốn
chất đất, nước, gió, lửa giả hợp lại mà thành, đến khi chết, xác con người phải trả về

cho tứ đại. Trước hết, là hơi thở về với phong đại. Kế là hơi ấm trở về với hỏa đại.
Tiếp theo là chất lỏng trong người trả về với thủy đại và cuối cùng chất cứng như thịt
xương cũng trở về địa đại.Nói một cách tổng quát từ kẻ sang đến người hèn, từ kẻ
13


giàu đến người nghèo, từ kẻ già đến người trẻ, từ kẻ đẹp đến người xấu, ai ai đến giai
đoạn chung cuộc này, cũng chỉ với một xác chết sình thối. Nói tóm lại, mỗi hành giả
phải quán sát qua năm giai đoạn bất tịnh: Nhờ vậy chúng ta thấy rõ bản chất của thân
này là bất tịnh nhơ nhớp mà khơng tham đắm dính mắc thân này là ta và của ta, do đó
thành tựu được thân vơ ngã. Ta quán thân này bất tịnh để mỗi hành giả khơng bị tham
đắm dính mắc vào xác thân hư giả này không thật thể, nhờ vậy ta phá được ngã chấp.
Chấp thân này là mình thiệt.

C.KẾT LUẬN
Bồ-tát Mã Minh là một trong những bậc Long Tượng của Phật giáo Ấn Độ đương
thời. Đây là thời kỳ đơm hoa kết trái, muôn sắc muôn hương của Phật giáo Đại
thừa.Vấn đề kiến giải của hàng phàm phu ngoại đạo luôn quanh quẩn trong lưới tà
kiến là việc hiển nhiên; nhưng bấy giờ trong Phật giáo, tiêu biểu là hệ tư tưởng Atỳ-đàm cũng rơi vào thiên chấp, khi xiển dương Nhân sinh quan (bao hàm cả Vũ
trụ quan) của mình là Nghiệp cảm Duyên khởi. Thiên chấp này được triển khai từ
giáo nghĩa nguyên thỉ là năm uẩn và mười hai nhân duyên, tức là từ giáo nghĩa Vô
ngã mà rơi vào hữu ngã. Và, vấn đề bế tắc của Chủ thuyết này là Nghiệp tích lũy ở
đâu và do đâu mà hiện hữu? Bế tắc này sau đó đã được trường phái Duy thức giải
14


đáp với giáo nghĩa A-lại-da Duyên khởi. Tuy vậy, phái Duy thức vẫn chưa đáp ứng
vướng mắc tế nhị: Do đâu mà có A-lại-da? Đây là tăng thượng duyên đẩy đưa sự
phát khởi giáo nghĩa Khởi Tín với Chủ thuyết Chân như Duyên khởi. Với Chủ
thuyết này, Khởi Tín đã đưa Nhân sinh quan (và Vũ trụ quan) Phật giáo đến tận

uyên nguyên; đồng thời, vừa phủ nhận hệ tư tưởng thiên chấp của trường phái Atỳ-đàm, cũng vừa hệ thống hóa giáo nghĩa Đại thừa về một mối. Và, theo bản ý
Luận chủ, đây là Pháp cần phải được xiển dương để phát khởi và phát triển đức tin
chính xác Đại thừa nhằm hạt giống Phật được tồn tại trong cuộc đời.Duyên khởi là
pháp mà đức Thế Tôn giác ngộ đêm cuối cùng tại cội Bồ-đề. Nói khác hơn, Tri
kiến Phật là Tri kiến về Duyên khởi. Đây là giáo nghĩa cốt lõi để các trường phái
sau này (trường phái A-tỳ-đàm và các trường phái Đại thừa) triển khai lập thành
giáo nghĩa và dẫn chứng biện minh cho hệ tư tưởng của mình. Một điểm trọng yếu
khác, đối tượng nghe pháp Duyên khởi không ai khác hơn là con người và nội
dung chủ yếu của Duyên khởi là Duyên khởi của con người. Chính thế, khi đức
Phật tại thế cũng như các Luận chủ sau này, nói pháp Duyên khởi là nhằm nói cho
con người, nói bởi con người, con người là một sinh thể gồm vật lý và tâm lý.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.K.Sri Dhamamananda (2006), người dịch Thích Tâm Quang, Vì sao tin Phật, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
2.Nguyễn Đức Diện (2009), “Quan niệm về nhận thức trong triết học Phật giáo Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học,
3.Thích Thiện Hoa (1992), Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ
Chí Minh.
4.Phan Văn Hùm (1943), Phật giáo Triết học, Nxb Tân Việt, Sài Gòn
15


5.Thích Thanh Từ: Luận Đại Thừa Khởi Tín, Giảng giải
6. Thích Thiện Hoa: Luận Đại Thừa Khởi Tín, Lược giải, Phật học phổ thơng.
7. Luận Đại Thừa khởi tín: Hán dịch: Chân Đế Tam Tạng Pháp Sư- Trí Khải Đại
Sư soạn,HT Thích Liêm Chính dịch

16




×