Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Nghiên cứu tư tưởng “phá chấp” trong kinh kim cang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.44 KB, 14 trang )

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
VIỆT NAM TẠI TP. HCM

BÀI THU HOẠCH CUỐI KỲ HK 5
MÔN: TƯ TƯỞNG KINH KIM
CANG

Họ và tên: Lê Văn Can
Pháp danh: Trí Cường

Khoa: ĐTTX - K6

Điểm
Bằng số:
Bằng chữ:

Nhận xét của giáo thọ

SBD: TX 6031

Đề bài:
Nghiên cứu tư tưởng “phá chấp” trong kinh Kim Cang.
Trả lời:
Kinh Kim Cang là một trong những bộ Kinh trọng yếu của Phật giáo Đại thừa. Có
lẽ vì bộ kinh này cơ đọng, hàm súc tinh hoa lời Phật dạy, nên kinh này được khắc trên
đá và khắc trên gỗ. Kinh Kim Cang được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tại tịnh xá
của ông trưởng giả Cấp Cô Độc, trong vườn của thái tử Kỳ Đà, ở nước Xá Vệ. Ngài A
Nan kết tập. Và có nhiều Tam Tạng Pháp sư dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán cũng như
các nhà sớ giải và bản dịch từ Hán sang Việt.Bộ kinh này được các bậc cao đức Phật
giáo và giới nghệ nhân đặt lên vị trí hàng đầu.Trong thời Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (602675), Kinh Kim Cang đã phổ biến khá rộng rãi trong giới học Phật, ngay cả trong giới
cư sĩ. Chính nhờ Kinh này, một Bồ-tát tiều phu ở Lĩnh Nam đã đến với đạo Phật và trở


thành bậc Tổ Sư Long Tượng siêu việt nhất trong lịch sử Thiền tơng Trung Hoa, đó là
Lục Tổ Huệ Năng. Tư tưởng "phá chấp" là cốt lõi của kinh Kim Cang cũng là mục
đích của giới học Phật, nhất là Thiền Tơng, dùng nó làm yếu chỉ tu hành. Vì Tư tưởng
"phá chấp" trong kinh kim cang có một tầm quan trọng như vậy nên người học Phật
không thể nào không nắm bắt được ý nghĩa thâm sâu của nó. Hiểu được Tư tưởng
"phá chấp" trong kinh kim cang.” là ta đã hiểu được cốt lõi của kinh Kim Cang.Vậy
Tư tưởng "phá chấp" trong kinh kim cang như thế nào?làm sao để phá nó?khi phá nó
rồi thì nó đem lại lợi ích gì cho chúng ta... chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu.
Chấp, chấp trước: là dính mắc, bám chặt và tư tưởng cho rằng ngã và các hiện tượng
khác là có thật. cũng gọi mê chấp, chấp trước, kế trước, trước. có hai loại chấp cịn gọi
là nhị chấp.Ngã chấp: cịn gọi là nhân chấp. Chấp chúng sanh hữu tình có một thể tánh
thường còn bất biến như linh hồn, thần ngã, … Kinh Kim Cang liệt kê nhiều hình thức
ngã chấp như ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng.Pháp chấp:
chấp các sự vật hiện tượng bao gồm 6 trần cảnh và các cảnh giới Phật, Bồ Tát, thánh
hiền, … đều có tự tánh. Về bản chất, pháp chấp cũng là một hình thức chấp ngã trên
đối tượng nhận thức. Tâm chấp thuộc về thức uẩn. Ngài An Tuệ cho rằng thức thứ

1


năm, thức thứ tám chấp pháp, thức thứ bảy chấp ngã, thức thứ sáu chấp cả ngã và
pháp. Nhưng ngài Hộ Pháp thì cho rằng thức thứ năm, thức thứ tám không chấp, chỉ
thức thứ sáu và thức thứ bảy là có chấp. Hễ chấp thì đều là chướng. lại chấp và
chướng là nói tắt của ngã chấp phiền não chướng và pháp chấp sở tri chướng..Người
phá được chấp sẽ trở về với bản tánh chân tâm của mình, dưới đây là những tư tưởng
phá chấp trong kinh kim cang.
Thứ nhất tổng phá chấp chân – vọng:Phẩm 1: Pháp hội nhân do và Phẩm 2 (Thiện
Hiện khải thỉnh): hình ảnh Đức Thế Tôn đi khất thực rồi trở về thọ trai, trải tọa cụ
ngồi thiền. Sau đó Ngài Tu-Bồ Đề thưa hỏi, trình bày phát hiện của mình về sự hộ
niệm và phó chúc của Đức Thế Tơn dành cho Vị Bồ Tát được ẩn ý thông qua bài pháp

không lời về các hoạt động thường ngày của Ngài. Hình ảnh một bậc Đại giác ngộ, Vô
thượng sĩ, Đức Pháp Vương được cả thế giới tơn kính, Thầy của trời và người như
Đức Thế Tôn mà vẫn thể hiện ra ngồi bằng cách sinh hoạt bình thường như đi khất
thực, ăn mặc, ở đi đứng, nằm, ngồi …. Chính là phá chấp phân biệt của tình thức con
người về phàm và thánh, về Phật và chúng sanh về phẩm đế và tục đế. Về bản thể và
hiện tượng.Qua đó người có trí tuệ Bát-nhã Ba-la-mật sẽ thấy ngay Như Lai hay bản
tánh như nư của các pháp không rời hiện tượng mà riêng có, chân đế khơng rời tục đế,
thật tướng khơng rời giả tướng. Niết bàn khơng riêng có ngồi phiền não (khi phiền
não hết thì niết bàn cũng khơng, đó mới thực sự là niết bàn.Cũng như “vơ bệnh bất
cầu y”, nếu khơng cịn có ai bệnh thì bác sỹ cũng đâu có. Bậc Thánh chứng A-la-hán
cịn khơng chấp mình chứng A-la-hán (Phẩm 6). Huống chi là Đức Thế Tơn, dưới con
mắt Phật, khơng có pháp gì gọi là chúng sanh thid khơng có pháp gì gọi là Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, phiền não tức Bồ đề, khơng có niêt bàn riêng ngoại sanh tử.
Ngay phẩm 1 và 2, nếu người nào ngộ được những điều trên đây thì xem như là bậc
thượng căn thượng trí, như Ngài Tu-Bồ-Đề chẳng hạn, đã phá được chấp thủ nhị
nguyên tức chấp thủ chân vọng nói chung, đạt được vơ phân biệt của Bát-nhã Ba-lamật và xem như hiểu biết được toàn bộ Kinh Kim Cang.Tuy nhiên Bồ Tát trung căn
và hạ căn thì vẫn cịn chấp trên thì có Phật đạo để thành, nên thuận theo khao khát của
trí tuệ, ln tìm cách làm sao để giác ngộ để an trụ tâm vào đạo quả Vơ thượng Bồ-đề.
Dưới thì vì lịng bi mẫn, cịn có chúng sanh đau khổ cần phải độ. Chúng sanh thì chín
người mười ý, nghiệp chướng sâu dầy, khi hướng rangoaij thì tu bố thí, nhẫn nhục Bala-mật thì phiền não khơng thể khơng sinh, nên ln tìm cách hàng phục vọng tâm,
phiền não. Từ đó có câu “làm sao hàng phục tâm, làm sao an trụ tâm” của Ngài TuBồ-đề. Giải đáp của Đức Thế Tơn chính là nội dung phá chấp ngã và chấp pháp nói
chung ở phẩm 2 và 3. Trong cả hai phương thức để hàng phục vọng tâm và an trụ
chơn tâm, hành giả đều phải buông xả tất cả vọng chấp về ngã, nhân, chúng sanh, thọ
giả và các pháp như là những thực thể hiện hữu. Khi nào còn một mảy may ý niệm cố
chấp về sự thực hữu của ngã và pháp thì vọng tâm điên đảo vẫn cịn khởi động, do đó,
khơng thể ngộ chứng và an trú được chơn tâm. Muốn buông xả các vọng chấp ngã và
pháp thì hành giả nhất định phải vận dụng đến trí tuệ Bát Nhã để quán nghiệm và
hàng phục.
Thứ hai tổng phá chấp ngã -pháp:Phẩm 3 (đại thừa chánh tơng) là phẩm phá ngã chấp
nói chung: cách hàng phục tâm theo Đại thừa Bồ Tát, không phải là dừng hết các hoạt

động của tâm như các bộ phái thiểu thừa, cụ thể là ở phẩm 3 Kinh Kim Cang này,
hàng phục vọng tâm chỉ là thay đổi nhận thức về chúng sanh (trong đó có chủ thể
nhận thức là ngã, là mình).Trước kia thấy chúng sanh (có mình trong đó) mỗi mỗi đều

2


có cái tự tánh, thực thể thường cịn bất biến, còn gọi là linh hồn cốt tủy, hay còn gọi là
ngã tướng (atma – chân tâm hay bản ngã thanh tịnh bất biến), nhân tướng (Pudgala –
chủ nhân ông, điều khiển các hoạt động thân thể và tinh thần), chúng sanh tướng
(sattva - hữu tình- tức phần tình thức bất biến) và thọ giả tướng (jiva, tức linh hồn bất
tử đi tái sinh, thọ nhận mạng sống và thân thể đời này qua đời kia).Giờ đây, Bồ Tát
phải độ tất cả 10 loại chúng sanh (nỗn, thấp, hóa, thai, có hình sắc, khơng hình sắc,
có tư tưởng, khơng tưởng, vừa có vừa khơng tưởng, khơng có khơng khơng tướng)
vào vơ dư y niết bàn mà khơng thấy có chúng sanh được diệt độ. Cái cốt lõi ở đây là
phá chấp thấy có chúng sanh, tức chấp 4 tướng thuộc về ngã. Khi khơng thấy có ngã
chấp về chúng sanh, tức mặc dù thấy có 10 loại chúng sanh nhưng tất cả đều vơ ngã,
thì như đã độ chúng sanh vào vơ dư niết bàn. Vì vơ ngã chính là niết bàn. Vơ ngã sẽ
khơng sinh ra chấp có ta, có người khác biệt, sẽ có trí “trí vơ phân biệt”, sẽ hết vô
minh, tức hết si. Mà si là nguồn gốc sinh ra tham sân (tham sinh ra khi thấy đối tượng
hợp với ngã, và ngược lại là sân). Tham sân si vắng mặt thì tất cả phiền não vắng mặt,
đó là niết bàn. Đó là cách hàng phục tâm. Phẩm 4: phá chấp nói chung qua đó an trụ
tâm. “Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên khơng có chỗ trụ mà làm việc bố thí,
gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này
Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng.” Hạnh tu của Bồ Tất là
tu “Lục độ Ba-la-mật” , ở đây bố thí Ba-la-mật làm mơ hình mẫu, các Ba-la-mật tu
tương tự. Sáu trần cảnh nói riêng và tất cả các hiện tượng, sự vật bao gồm cả cả thế
giới Phật, Thánh, phàm đều gọi là pháp. Chấp sáu trần cảnh thật và trụ vào đó, dính
mắc vào đó gọi là chấp pháp. Thật ra chấp pháp là một dạng đặc biệt của ngã
chấp.Khơng trụ vào sáu trần cảnh có nghãi là qn sát thấy sáu trần cảnh là dun

hợp, khơng có tự tánh rồi khơng chấp, khơng dính mắc vào đó. Ngay khi có sáu căn
tiếp xúc sáu trần cảnh vẫn có khởi niệm, sinh tâm, hưng khởi tâm rồi thì thơi, khơng
dính mắc, khơng chấp pháp, tức chấp thủ có thật. Ngay chỗ khơng trụ vào sáu trần đó
là đã trụ tánh như như hay tánh Như Lai của các pháp, đó cũng chính là chỗ để an trụ
tâm. Hay nói cách khác, ngồi sáu trần cảnh ra, khơng cịn chỗ trụ nào riêng khác, mà
chỉ còn trụ nơi trạng thái “không trụ” (không chấp) vào sáu trần khi tiếp xúc chúng.
Đó là tinh thần phá chấp pháp nói chung trong Kinh Kim Cang qua phẩm thứ 4 này.
Thứ bá phá chấp các loại chấp pháp vô vi:Từ phẩm thứ 5 trở đi là triển khai các ý phá
chấp pháp, lồng vào đó là phá chấp ngã vì chấp pháp thực ra là một dạng chấp ngã đặc
biệt. trước tiên là phá luôn cả chủ thể nhận thức.
(1)Chấp chân tướng Như Lai:Phẩm 5 (như lý thật kiến): phá chấp pháp nơi thân tướng
Như Lai: “không thẻ do thân tướng thấy được Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai đã nói
thân tướng tức khơng phải thân tướng. Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu
thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.”Bồ Tát sơ cơ lúc nào cũng hướng
đến Như Lai (Nhất niên Phật tại tiền) và còn chấp thân tướng Phật là chân lý, là Như
Lai thì vẫn cần phải phá chấp từ nơi hình tướng của Như Lai. Hình tướng Như Lai có
thể là chữ “Phật”, hoặc tượng Phật hoặc hình tướng Phật lúc Ngài cịn tại thế,….Từ đó
quy nạp lên, chiếu con mắt pháp ra, qn tất cả những gì có hình tướng của đều là hư
vọng. Khi thấy các tướng chăng phải tướng là thấy được thật tướng hay pháp tánh,
tức tánh như như rỗng lặng của các pháp, tức thấy Như Lai.
(2) Chấp pháp vơ vi bậc Thánh: Phẩm 6 (chánh tín hy hữu) việc này chỉ người có tu
hành nhiều đời nhiều kiếp, trồng Sâu căn lành nơi Phật pháp (như học việ Đào tạo từ
xa đây-dù hồn cảnh khó khăn vẫn học Phật) thì mới có thể tin hiểu và phá chấp pháp,

3


mới thấy được Như Lai nơi tướng trạng các pháp được, mới buông bỏ được hết mọi
thứ: “Thế nên không nên chấp pháp, khơng nên chấp phi pháp. Pháp ví dụ như chiếc
bè, pháp còn nên bỏ, huống chio phi pháp.”Hàng trung căn Bồ Tát, là các vị đã tu

Thanh văn thừa, vẫn cịn chấp pháp vơ vi như 4 quả Thánh là thật nên cần phải phá.
Phật dạy 4 phasl vô vi này như chiếc bè , nếu qua sơng rồi (chứng Thánh rồi) thì nên
xả bỏ để tiến xa hơn đạo lộ Bồ Tát.Phẩm 9 (nhất tướng vô tướng)“những ai chứng quả
Nhập lưu (cho đến A-la-hán) khơng có nghĩ: “Ta đã được quả nhập lưu (cho đến A-lahán). Vì cớ sao? Thật khơng có pháp tên là nhập lưu… (cho đến A-la-hán). Bạch Thế
Tơn nếu Tu-đà-hồn (cho đến A-la-hán) khởi ngĩ thế này: Ta được đạo Tu-Đà Hoàn
(cho đến A-la-hán).Tên A-la-hán chỉ là giả danh còn cái bất sanh bất diệt đó khơng có
tên. Vì thế ngài Tu-bồ-đề mới nói: “Bạch Thế Tơn, nếu A-la-hán khởi nghĩ "ta được
đạo A-la-hán” tức là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.”
Đoạn này phân tích chấp các pháp vơ vi bậc Thánh là thật về bản chất vẫn là chấp ngã.
(3)Chấp nhân tu Phật và pháp Phật thuyết:Phẩm 7 (vô đắc vơ thuyết) “khơng có pháp
nhất định tên là Vơ Thượng CHách đẳng Chánh giác, cũng khơng có pháp nhất định
Như Lai có thể nói. Vì cớ sao? Vì pháp Như Lai nói đều khơng thể chấp, khơng thể
nói, chẳng phải pháp, chẳng phải pháp. Vì cớ sao? Vì tất cả các bậc Hiền Thánh đều
do pháp vơ vi mà có sai biệt.” Đoạn này phân tích chấp các pháp vơ vi bậc Thánh là
thật về bản chất vẫn là chấp ngã.Cao hơn 4 quả Hiền Thánh do đắc pháp vô vi là quả
vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Bồ Tát cần phải phá chấp thủ. Lưu ý đoạn này
không bác bỏ sự hiện hữu của các giáo pháp vô vi (4 quả Thánh) cũng như quả Phật
mà Phật đã nói, mà chỉ khun dạy các Bồ Tát khơng nên chấp cho các pháp đó là các
pháp có tự tánh riêng, tồn tại riêng bên ngoài con người và thế giới bình thường này.
Thấy được các pháp nơi người và cả hư vọng được bao nhiêu phần là chứng được
Hiền Thánh và Như Lai báy nhiêu phần. Phẩm 8: Y Pháp Xuất sanh: “Công đức được
tạo ra bởi người chỉ cần nắm được một bài kệ bốn câu của giáo pháp này và truyền bá
cho người khác lớn hơn công đức cúng dường 7 báu cho các bậc giác ngộ hồn tồn,
vì chư Phật và Thánh Hiền cũng từ đây mà được sinh ra. Vì cớ sao? Phật pháp khơng
phải là Phật pháp. Chính như vậy mói gọi là Phật pháp. Phật pháp (Pháp Phật thuyết)
về bản chất cũng không có tự tánh, nhờ duyên mà có, nên chỉ là giả danh. Thấy như
vậy mới được gọi là thấy pháp Phật thuyêt về Như Lai tánh.Phẩm 10 (trang nghiêm
tịnh độ) “Như Lai thuở xưa ở chỗ Đức Phật Nhiên Đăng, đối với Pháp thật khơng có
sở đắc. Bồ Tát khơng trang nghiêm cõi Phật, vì trang nghiêm cõi Phật, tức không phải
trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm. Theea nên Tu-Bồ-đề, các vị Bồ Tát lớn nên như

thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ thanh,
hương, vị xú, pháp sanh tâm, nên khơng có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Thân to như núi
chúa Tu-di rất lớn, vì thân chảng phải thân, ấy gọi là thân lớn.” Phá chấp công hạnh tu
hành của Bồ Tát tức thân tu Phật (trang nghiêm cõi Phật) Qua tất cả các cháp thủ trên,
kinh văn quy nạp lên Bồ Tát nên “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên khơng có chỗ
trụ mà sanh tâm kia). Nghĩa là trụ nơi thật tướng như như của các pháp để sinh ra các
tâm hành chứ không phải gỗ đá khi tiếp duyên đói cảnh. Từ thân tướng hay công đức
to lớn như núi Tu-Di, Bồ Tát nên quan thấy báo thân ấy không thật mà xả bỏ nó thì sẽ
chứng được pháp Vơ lượng vơ biên của Phật thân.Phẩm 11 (vô vi phước thắng) Nếu
người thiện nam thiện nữ, đối trong kinh này cho đến thọ trì bốn câu kệ… vì người
khác giảng nói, phước đức này nhiều hơn phước đức đem 7 báu nhiều như cát sơng
Hằng bố thí.Phẩm 12 (tơn trọng chánh giáo) “Nơi nói kinh này cho đến bốn câu kệ ..

4


nên biết chỗ này, tất cả thế gian trời, người, A-tu-la đều nên cúng như pháp miếu của
Phật. Người trọn hay thọ trì đọc tụng, người ấy thành tựu pháp tối thượng đệ nhất hi
hữu. Nếu kinh này ở chỗ nào ắt chỗ đó là có Phật hoặc là nhưngc đệ tử lớn của Phật.”
Phá chấp pháp vô vi chứ không phải phá pháp vô vi. Đoạn này tái khẳng định lần thứ
hai về phước đức vơ vi là có thật để Bồ Tát không rơi vào chấp không, chấp đoạn diệt,
xen như kết thúc phần pháp chấp vô vi.
(4)Chấp pháp hữu vi
-Phá tên kinh Bát Nhã Ba-la-mật và vi trần, thế giới
-Phẩm 13 (như pháp thọ trì)
“Kinh này tên là Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật, do danh tự ấy ông nên phụng trì. Vì cớ
sao? Này Tu-bồ-đề, Phật nói Bát-nhã ba-la-mật tức không phải Bát-nhã bala-mật, ấy
gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Này Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Như Lai có nói pháp chăng?
Này Tu-bồ-đề, các vi trần Như Lai nói khơng phải vi trần, ấy gọi là vi trần. Như Lai
nói thế giới không phải thế giới ấy gọi là thế giới. Này Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Có

thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng? Này Tu-bồ-đề nếu có người thiện
nam, người thiện nữ đem thân mạng nhiều như cát sơng Hằng để bố thí, hoặc lại có
người ở trong kinh này cho đến thọ trì bốn câu kệ v.v… vì người khác nói thì phước
này rất là nhiều.”Các pháp hữu vi là pháp có 3 tướng sanh-trụ-diệt, nhỏ là vi trần, lớn
là thế giới. Tất cả đều khơng có tự tánh, Bồ Tát khơng nên cháp và trụ vào chúng. Tuy
nhiên phải xuyên qua chúng, thấy chúng khơng phải là chúng thì thấy được thật tướng
hay pháp tánh của chúng.32 tướng tốt là cụ thể hóa hình tướng Như Lai ở phẩm 5 bên
trên. Chúng đề là sắc tướng Như Lai bên trong đó, mới thật sự thấy đúng bản chất của
32 tướng. Lần thứ 3 Phật nhắc lại phước đức vơ vi là có khơng nên rơi vào chấp
không .Phá chấp thật tướng, 4 ngã tướng, chúng sanh tướng.Phẩm 14 (li tướng tịch
diệt): “Nếu lại có người được nghe kinh này, lịng tin thanh tịnh ắt sanh Thật tướng,
nên biết người ấy thành tựu được cơng đức ít có bậc nhất. Bạch Thế Tơn! Thật tướng
ấy tức khơng phải tướng, thế nên Như Lai nói tên là thật tướng.Bạch Thế Tôn! Nay
con được nghe kinh điển như thế, tin hiểu thọ trì khơng đủ làm khó. Nếu đời sau,
khoảng năm trăm năm về sau, lúc đó có những chúng sanh được nghe kinh này, tin
hiểu thọ trì, người ấy ắt là ít có bậc nhất. Vì cớ sao? Vì người này khơng tướng ngã,
tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Vì cớ sao? Vì tướng ngã tức không phải
tướng, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức khơng phải tướng. Vì sao? Vì
lìa tất cả tướng tức gọi là chư Phật. Phật bảo Tu-bồ-đề: Đúng thế, đúng thế! Nếu lại
có người được nghe kinh này, không kinh, không hãi, không sợ, nên biết người ấy rất
là ít có. Vì cớ sao?Này Tu-bồ-đề! Như Lai nói đệ nhất ba-la-mật tức khơng phải đệ
nhất ba-lamật ấy gọi là đệ nhất ba-la-mật. Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai
nói khơng phải nhẫn nhục ba-la-mật ấy gọi là nhẫn nhục ba-la-mật.” Nếu tâm có trụ ắt
là khơng phải trụ. Thế nên Phật nói tâm Bồ-tát khơng nên trụ sắc mà bố thí. Tu-bồ-đề!
Bồ-tát vì lợi ích tất cả chúng sanh nên như thế mà bố thí. Như Lai nói tất cả các tướng
tức là khơng phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh tức khơng phải chúng sanh.”Thấy
được tướng thật của các pháp. Nghe Kinh Kim Cang nói rằng tướng thật là tướng Như
Lai nằm ở trong các tướng bt sẽ thấy Phật ở trong chúng sanh. Nếu có Niềm tin sẽ
sinh cơng đức, vì niềm tin là dẫn đầu các công đức. Nếu ngộ thật tướng nằm trong giả
tướng, nếu cho thật tướng là như như, là vơ vi. Khi khái niệm hóa là thật tướng, thì

các pháp thật tướng trở thành hữu vi và lúc này cần phải phá cái thật tướng đó nữa. “vi
tướng tịch diệt”. và cần phải lìa tướng tịch diệt đó đi. tướng tịch là thật tướng mà đã

5


thành một pháp, thành một tướng, tướng do tưởng tưởng tượng ra thành tướng. Tướng
tịch diệt là khơng có phiền não, không vọng động mà nằm ở trong các pháp. Lúc đó
cần phải phá cái chấp nơi tướng đó có thật. Nói cách khác, tịch diệt là một pháp thì nó
chẳng khác gì pháp hữu vi. Bởi vì cái gì có tướng cái đó có sanh- trụ- diệt. Mà vì cái
gì có sanh- trụ- diệt cái đó là pháp hữu vi nên cần phải phá. Phá chấp vi tế ở chỗ này.
Đức Phật cho ta thấy tư tưởng phá chấp rất vi tế trong Kinh Kim Cang xuyên suốt tất
cả tác phẩm đều có sự phá chấp, nên đặt tên kinh là Kim Cang. Kim Cang là Kim
Cương, là trí tuệ bát nhã cứng chắc, bén như Kim Cương có thể chặt đứt tất cả các cố
chấp từ dây nhợ, cho đến chiều sau của tâm thức. Cho nên khi ngộ được pháp gì, tiểu
ngộ hay đại ngộ. “Có thì có tự mảy may. Khơng thì cả thế gian này cũng không.”
(ngài Từ ĐẠO HẠNH) khi đã ngộ tánh không trong cả thế gian này thì ngay cả tánh
khơng là tướng khơng. Vì đã có tướng khơng tịch diệt rồi. Mà khơng tịch diệt đó vẫn
là pháp hữu vi, vì cịn có tướng là cịn cịn có sanh trụ diệt, là pháp hữu vi, phải lìa nó
đi nên gọi là “li tướng tịch diệt” là vậy. Khi đó Bồ Tát khơng ngồi đó qn chiếu nữa
mà phải đi độ chúng sanh, mà áp dụng chúng sanh tướng, có chứa tính tịch diệt trong
chúng sanh tướng đó thì phải phá ln chúng sanh tướng, từ đó mói có sự cơng bằng
do phá ln cả 2 tính tịnh diệt và chúng sanh tướng. thấy khơng có chúng sanh nào
được diệt độ hết mới gọi là Bồ Tát. Đức Phật nhắc đến li tướng tịch diệt, là khơng
chấp pháp đó là “Pháp tính tịnh diệt và Pháp tướng chúng sanh”. Đó là trí tuệ Bát Nhã
Ba-la-mật.“Thế nên, Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên lìa tất cả tướng mà phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thanh hương vị
xúc pháp sanh tâm, nên sanh tâm không chỗ trụ. Nếu tâm có trụ ắt là khơng phải trụ.
Thế nên Phật nói tâm Bồ-tát khơng nên trụ sắc mà bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì lợi ích
tất cả chúng sanh nên như thế mà bố thí. Như Lai nói tất cả các tướng tức là khơng

phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh tức không phải chúng sanh.”Lần thứ tư Đức
Phật nhắc đến cơng đức vơ lượng khi khơng cịn chấp pháp. Đức Phật sợ Bồ Tát chấp
“Pháp tính tịnh diệt và Pháp tướng chúng sanh” sẽ rơi vào chấp không. Đức Phật nhắc
lại lần nữa là công đức nhiều vô lượng khi “Li Tướng Tịch Diệt”, lìa tướng chúng
sanh đi. Phẩm 15: Trì kinh cơng đức .Trong phẩm 15 Đức Phật đưa cơng đức trì kinh
lên cao trào kết thúc của Kinh Kim Cang. Ví dụ trì Kinh Pháp Hoa có Bồ Tát Phổ
Hiền hộ trì kinh. Từ phẩm 1 tới 16 là nhấn mạnh tới đối tượng nhận thức đó là chấp
ngã, chấp pháp nơi đối tượng nhận thức cần phải phá. Từ phẩm 17 tố 32 là nhấn mạnh
tới chủ thể nhận thức. Ví dụ Đức Phật nhấn mạnh đế ngũ nhãn, 3 loại tâm….. phẩm 15
này nhấn mạnh tới việc trì Kinh Kim Cang cịn hơn mạng sống, người trì Kinh Kim
Cang khơng quan tâm tới mình chết đi về đâu, mà cảnh giới nào cũng tự tại. Ngay cả
trong địa ngục vẫn tự tại, thấy được thực tướng trong giả tướng. Ngay cả tên cõi trời
sung sướng vẫn thấy được vô ngã, thấy tự tại trong các cõi dục, sắc, vơ sắc, các tầng
thiền định…. Đó là sự tự tại giải thoát tu thiền theo Kinh Kim Cang. Khơng có pháp
nào trói buộc được mình. Đó là giải thoát sanh tử, mà luân hồi sinh tử tự tại với luân
hồi sinh tử đó. “Tu-bồ-đề! Nếu có người thiện nam thiện nữ, buổi sáng đem thân
mạng bằng số cát sơng Hằng ra bố thí, buổi trưa lại đem thân mạng bằng số cát sơng
Hằng ra bố thí, buổi chiều cũng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, như
thế vơ lượng trăm ngàn mn ức kiếp đem thân mạng bố thí. Nếu lại có người nghe
kinh điển này, lịng tin khơng nghịch, phước của người này hơn phước của người kia,
huống là chép viết, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói.”“Tu-bồ-đề! Nhược thiện nam
tử, thiện nữ nhân, ư hậu mạt thế, hữu thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc cơng đức, ngã

6


nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhân văn tâm tắc cuồng loạn hồ nghi bất tín. Tu-bồ-đề!
Đương tri thị kinh nghĩa bất khả tư nghị, quả báo diệc bất khả tư nghị.”Trong phẩm
này, những vị này có thể gánh vác được pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của
Phật. Các vị ấy khơng cịn chấp ngã, chấp nhân, chấp chúng sanh chấp thọ giả. Đức

Phật phá chấp đoạn diệt. Phẩm 16: năng tịnh nghiệp chướng“Lại nữa, này Tu-bồ-đề!
Nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, nếu bị người khinh chê,
người này do tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa trong đường ác, do đời này bị người
khinh chê nên tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt, sẽ được quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.” Phẩm này mơ tả người thọ trì đọc tụng Kinh Kim Cang, nếu bị người
khinh chê là do tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa trong đường ác, do đời này bị người
khinh chê nên tội đời trước ắt là tiêu diệt, sẽ được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Ngoài ra đoạn này lần thứ 6 Đức Phật tán thán cơng đức trì Kinh Kim Cang.
Phẩm 17: cứu kính vơ ngã/ tột cùng khơng có ngã.So sánh với Đoạn 3: chỉ qn chiếu
chúng sanh khơng có tự tánh, nghĩa là họ có vơ ngã tánh, như vậy sẽ lìa được tướng
ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, đó là lìa đối tượng nhận thức.Đoạn
17 này Khác đoạn 3: “Tu-bồ-đề, thật khơng có pháp phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.”Bồ Tát phát tâm Chánh đẳng Cháng giác cần độ vô lượng vô biên các
chúng sanh nhưng không thấy chúng sanh nào được diệt độ. Ngay bản thân vị Bồ Tát
đó phải quay lại quán chiếu nơi bản thân mình coi tâm vơ thượng Chánh đẳng Chánh
giác đó cũng khơng có tự tánh đó mới được. Nhân ban đầu thành Phật cũng khơng có
tự tánh thì lúc đó mới hàng phục được tâm vọng tưởng của mình. Đây là phá chấp chủ
thể nhận thức, khơng phải phá đối tượng nhận thức vì đối tượng chúng sanh là ở đoạn
3, Đức Phật dạy phải quán chiếu là khơng có tự tánh. Đoạn 17 nhắc lại hàng phục tâm,
trong lúc phá đối tượng nhận thức tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng
thọ giả nơi 10 loại chúng sanh mình có dun gặp (nỗn sanh, thấp sanh, hóa sanh,
cso sắc, vô sắc…). ngay cả Nhu Lai đã chứng được pháp đó rồi cũng khơng có tự
tánh. Bồ tát đó cũng khơng thật, người độ sanh đó cũng khơng thật. “ Phùng Phật sát
Phật, Phùng ma sát ma.” Ngài Lâm Tế. Pháp đó có tên có tuổi là pháp hữu vi, là phải
phá. Pháp tên là Bồ Tát là hữu vi là phải phá.Đoạn 17, Đức Phật nhắc lại các phương
pháp phá các đối tượng nhận thức, bên trên gồm có hữu vi (chúng sanh tướng..), vơ vi.
Đức Phật phá luôn cả chủ thể nhận thức.“Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát cũng như thế, nếu nói
lời thế này: ta sẽ diệt độ vơ lượng chúng sanh, ắt khơng gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Này
Tu-bồ-đề! Thật khơng có pháp tên là Bồ-tát. Thế nên Phật nói: tất cả pháp khơng ngã,
khơng nhân, khơng chúng sanh, khơng thọ giả.Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói lời thế

này: ta sẽ trang nghiêm cõi Phật, ấy chẳng gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Như Lai nói trang
nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm.Này Tu-bồ-đề!
Nếu Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi đó là chân thật Bồ-tát.”Bất kỳ khi nào
gặp cũng phải quay về quán chiếu con người đang chiếu ra ánh sáng trí tuệ đó khơng
có thật. “Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi đó là chân
thật Bồ-tát.”Từ phẩm 17 trở đi, đa phần là nhắc lại các ý phá ngã chấp và pháp chấp
bên trên. Đặc biệt là nhấn mạnh đến chủ thể nhận thức cũng khơng thật. Bồ tát nói: “ta
sẽ trang nghiêm cõi Phật” thì phá cái ta, xoay quanh chủ thể nhận thức. Người còn
chấp ta sẽ trang nghiêm cõi Phật thì chẳng gọi là Bồ Tát. Đức Phật nhắc lại các
phương pháp phá đối tượng nhận nhận bên trên, gồm có hữu vi, vơ vi. Hữu vi có
chúng sanh tướng. Ngồi ra Đức Phật ln cả đối tượng nhận thức là Như Lai, Bồ Tát
và những người phát tấm độ chúng sanh chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh

7


giác chứng thành Phật quả. Phẩm 18: Nhất thể đồng qn /đồng qn có một thể “Này
Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Như Lai có nhục nhãn chăng? Bạch Thế Tơn, như thế! Như
Lai có nhục nhãn.Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Như Lai có thiên nhãn chăng? Bạch Thế
Tơn, như thế! Như Lai có thiên nhãn.Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Như Lai có tuệ nhãn
chăng? Bạch Thế Tơn, như thế! Như Lai có tuệ nhãn.Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Như
Lai có pháp nhãn chăng?Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Như Lai có pháp nhãn chăng?
Bạch Thế Tơn, như thế! Như Lai có pháp nhãn.Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Như Lai có
Phật nhãn chăng?Bạch Thế Tơn, như thế! Như Lai có Phật nhãn.”Năm loại nhãn/ ngũ
nhã đều khơng có tự tánh, cho nên Bồ Tát cũng khơng nên chấp tầng nhận thức của
mình là năm tầng tri vọng: nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn
cũng đều khơng có tự tánh. Người phát ra Phật nhãn cũng khơng có tự tánh luôn mới
gọi là Như Lai. Chỉ khi nài không cháp thuevoo 5 tầng quán chiếu của mình: nhục
nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn mới thực sự gọi là người giác ngộ
nên gọi là đồng quán một thể. Năm loại quán chiếu thế gian và con người chỉ có một

thể là vơ tướng như như bất động. Như lai có mắt trần nhưng khơng bị nhục nhãn che
mờ con mắt như như của mình. Nghĩa là người thế gian thì thấy núi là núi, sơng là
sơng, thấy Phật là Phật, ta là ta. Nên Đức Phật hay nói rằng: “Ta nói rằng…” thuận
theo thế gian, theo nhục nhãn, xương mình là ngã, là Ta. Chứ bản thân Như Lai khơng
dính vơ Pháp Ngã. Nên gọi là Như Lai có nhục nhãn là vậy. Như Lai có con mắt thế
gian để nhìn thấy, để ứng phó với Thế gian, để sống hịa hợp với thế gian nhưng
khơng bị thế gian trói buộc thì mói gọi là Như Lai. Cịn chúng sanh có con mắt trần thì
nhìn đâu dính đó, nhìn dsdaau ngã chấp đó. Đùng đùng nổi giận khi nghe người khác
chê, vui mừng khi nghe người khác khen. Tất cả đều là nhục nhãn. Cuối cùng Đức
Phật khẳng định rằng chúng sanh trong các cõi nước đầy dẫy nhiều như số cát sơng
Hằng, nhưng chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm Như Lai đều thấy biết hết. Như Lai nói
các tâm ấy khơng phải là tâm ấy gọi là tâm. “Trong các cõi nước đầy dẫy như thế, có
tất cả chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai thảy đều biết. Vì cớ sao? Như Lai
nói các tâm đều khơng phải tâm, ấy gọi là tâm. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tâm quá khứ
không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.” Có câu
chuyện Bà lão bán bánh cam, Ngài Đức Sơn là đệ tử của Ngài Long Đàm Sùng Tín là
một vị giảng kinh Kim Cang rồi tập hợp tất cả các bản kinh Kim Cang là Bộ Long
Kinh Sớ Sao, tới cật vấn Ngài Sùng Tín (tu theo Lục Tổ Huệ Năng là bất lập văn
tự…), thì đó là phi lý, người Phải học Phật mới được. Ngài đi suốt đêm đến gặp bà lão
bán nước và bánh cam thì Ngài Đức Sơn mua bánh cam thì bà hỏi Ngài: “Tâm Ngài
muốn ăn bánh điểm tâm thì cái tâm đó thuộc lại tâm nào? Ngài muốn ddierm tâm quá
khứ, tâm hiện tại hay trong tương lai?” Nếu Ngài Đức Sơn trả lơid tâm trong hiện tại
thì bất khả đắc thì tâm muốn ăn sáng, cho nên Ngài Đức Sơn bị bà lão đuổi đi. Ý nói
là đối với người mà quán chiếu năm giác quan của mình nhìn ra bên ngồi mà khơng
thấy có tự tánh có nghĩa là trong q khứ thấy tâm mình khơng có, hiện tại khơng có
tự tánh, tương lai cũng khơng thì thực sự mới có Phật nhãn.Trong tam thiên đại thiên
thế giới có bao nhiêu loại chúng sanh mà có bao nhiêu thứ tâm trong đó mà Như Lai
đều tháy biết hết vì sao Thế Tơn nói: “Như Lai nói các tâm đều không phải tâm, ấy
gọi là tâm.”Người giác ngộ thấy được thật tướng trong các pháp phải quay lại quán
chiếu bản thân mình, các tâm hành, vọng tưởng của mình đều khơng có tự tánh, đều

khơng phải là tâm thì mới thực sự gọi là tâm, mới thực sự thấy bản chất của phiền não,
mới thực sự thấy được niết bàn trong phiền não, mới thực sự thấy chân tâm trong

8


vọng tâm. Trong thế gian có bao nhiêu loại tâm thì là bậc Như Lai sẽ đều thấy biết
được các loại tâm đó đều vơ ngã. Và thấy được vơ ngã trong các vọng tâm đó chính là
thấy được Phật tánh nơi các vọng tưởng. Nên thật tánh vô minh tức phật tánh như là
Chứng Đao Ca nói. Thật tánh của vơ minh có nghĩa là thấy được tâm của chúng sanh
có một thứ đó là vơ ngã ấy mới gọi là tgaam, là chân tâm không phải cái nằm riêng
ngoài vọng tâm. Như vậy gọi là con mắt của Như Lai trong ngũ nhãn của chương 18.
Phẩm 19: Pháp giới thơng hóa.Khi qn tâm bên trong, tất cả chủ thể nhận thức đã
thong suốt, đẻ chiếu ra ngoài pháp giới thì thơng hết cả pháp giới. Đó gọi là hào quang
của Phật chiếu khắp mọi nơi từ địa ngục đén cõi trời gọi là pháp giới thơng hóa.“Này
Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Nếu có người đem bảy báu đầy dẫy cả tam thiên đại thiên
thế giới dùng bố thí, người ấy do nhân duyên này được phước đức nhiều chăng? Bạch
Thế Tôn! Như thế! Người này do nhân duyên đó được phước đức rất nhiều.Này Tubồ-đề! Nếu phước đức có thật, Như Lai chẳng nói được phước đức nhiều, do phước
đức khơng, nên Như Lai nói được phước đức nhiều.”Đức Thế Tôn một lần nữa nhắc
lại lần thứ 8 về phước đức nhân duyên nhiều ít là do chấp hay khơng chấp. Chấp là ít,
mà khơng chấp nơi phước đức lại là nhiều. Phẩm 20: Ly sắc tướng “Này Tu-bồ-đề, ý
ơng nghĩ sao? Phật có thể do đầy đủ sắc thân mà thấy chăng? Bạch Thế Tôn, không
vậy! Như Lai không nên do đầy đủ sắc thân mà thấy. Vì cớ sao? Như Lai nói đầy đủ
sắc thân tức chẳng phải đầy đủ sắc thân ấy gọi là đầy đủ sắc thân.Này Tu-bồ-đề, ý ơng
nghĩ sao? Như Lai có thể do đầy đủ các tướng mà thấy chăng?Bạch Thế Tôn, không
vậy! Như Lai không nên do đầy đủ các tướng mà thấy. Vì cớ sao? Như Lai nói các
tướng đầy đủ tức chẳng phải đầy đủ, ấy gọi là các tướng đầy đủ.”Quan trọng là thấy,
nói về chủ thể nhận thức. Ở đây ta khơng nên dính mắc vào câu sắc thân Như Lai, mà
cần nhấn mạnh chủ thể đang nhìn Như Lai, đầu tiên cái thấy của mình phải phá. Là vị
Bồ Tát quay lại quán chiếu sắc thân Như Lai bên trong “đoạt cảnh bất độc nhân”

nghĩa là lơ cảnh mà không lơ người quán chiếu mới thấy thật tướng trong đó.Phẩm 21:
Phi thuyết sở thuyết/ khơng năng thuyết và khơng sở thuyết.Đoạn này nói về sắc thân
Như Lai nhắc lại đoạn số 5 và 6 Đức Phật phá về sắc thân Như Lai và đồng thời luôn
pháp Phật thuyết là không thật. Đức Phật nhắc lại để nêu bật chủ thể nhận thức.“Này
Tu-bồ-đề, ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế này: ta sẽ có nói pháp, chớ khởi cái nghĩ
ấy. Vì cớ sao? Nếu người nói Như Lai có nói pháp tức là phỉ báng Phật, khơng thể
hiểu nghĩa ta đã nói. Này Tu-bồ-đề, nói pháp đó khơng có pháp có thể nói ấy gọi là
nói pháp. Khi ấy ngài Tuệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng:Bạch Thế Tơn, vả lại có
chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này sanh lịng tin chăng? Phật bảo:Tu-bồ-đề, kia
chẳng phải chúng sanh, chẳng phải chẳng chúng sanh. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề,
chúng sanh, chúng sanh ấy Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, ấy gọi là chúng
sanh.”“Này Tu-bồ-đề, ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế này” là chủ thể của nhận
thức.“ta sẽ có nói pháp, chớ khởi cái nghĩ ấy” là Như Lai nói rằng khơng nên nghĩ
Ngài nói Pháp, người nói Pháp cúng khơng thật. Đoạn 6 Đức phật lo xa người đời sau
vị lại nghe nói pháp này khơng có tin, Đức Phật nhấn mạnh người sanh ra chánh tín
chủ thể nhận thức khơng có thật nên cần phá tướng chúng sanh đi. Đó gọi là vô đắc vô
thuyết.Phẩm 22: vô pháp khả đắc giống đoạn 7, 8, 9.Cũng giống đoạn 7, 8, 9, không
đặt nặng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà chính người có pháp Vơ
thượng Chánh đẳng Chánh giác thấy mình khơng có chứng. “Ngài Tu-bồ-đề bạch
Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay là
không được ư? Phật bảo: Đúng như thế, như thế! Này Tu -bồ-đề, ta đối với Vô

9


thượng Chánh đẳng Chánh giác nhẫn đến khơng có một chút pháp có thể được, ấy
gọi là Vơ thượng Chánh đẳng Chánh giác.”Phẩm 23: Tịnh tâm hành thiện/ tâm trong
sạch làm việc thiện “Lại nữa Tu-bồ-đề, pháp này bình đẳng khơng có cao thấp, ấy gọi
là Vơ thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do không ngã, không nhân, không chúng
sanh, không thọ giả tu tất cả pháp lành tức được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tu-bồ-đề, nói rằng pháp lành đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp lành, ấy gọi
là pháp lành.”Nhấn mạnh vấn đề không phải pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác mình phải đạt mà con người đạt pháp Vơ thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng
khơng có ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả. Tu tất cả pháp lành là
nhân, được pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là quả. Người tu pháp lành tịnh
tâm hành thiện nhấn mạnh chữ tịnh tâm. Tức là người tu cũng khơng có ngã, khơng
nhân, khơng chúng sanh, khơng thọ giả. Người tu và Người đạt được quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác cúng khơng có tự tánh, khơng có ngã tướng. Phủ nhận pháp
lành mà Đức Phật dạy là khơng có tự tánh, người nói pháp lành người là Như Lai
cũng khơng có tự tánh. Phẩm 24: Phước trí vơ tỉ/ Phước trí khơng có gì sánh
bằng“Này Tu-bồ-đề, nếu trong tam thiên đạ ithiên thế giới có các ngọn núi Tu-di
chúa, như thế dùng bảy báu nhóm họp bằng những ngọn núi Tu-di ấy có người mang
ra bố thí. Hoặc có người đem kinh Bát-nhã Ba-la-mật này cho đến bốn câu kệ v.v…
thọ trì đọc tụng, vì người khác nói thì phước đức của người này đối với người trước,
người này trăm phần, người kia không bằng một, trăm ngàn mn ức phần cho đến
tốn số thí dụ cũng khơng thể bằng.”Phức trí khơng có gì sánh bằng cao hơn đoạn
trên, chỉ phá công đức hướng ra bên ngồi mà có cịn bây giờ hướng vào bên trong mà
có phước đức vơ tỉ. Đoạn 23 Đức Phật nhắc lại lần thứ 10 phước đức nhiều vô lượng.
Đoạn 24 này Đức Phật nói về phước trí phá chấp đoạn của người tu trong Bát-nhã.
Nói về Vị Phật, Bồ Tát tu phơng có tự tánh. Phẩm 25: Hóa vơ sở hóa/ giáo hóa khơng
có chỗ giáo hóa “Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ
thế này: ta sẽ độ chúng sanh. Này Tu-bồ-đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật
khơng có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt
có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Này Tu -bồ-đề, Như Lai nói có ngã ắt khơng phải
có ngã mà người phàm phu cho là có ngã. Này Tu-bồ-đề, người phàm phu đó Như Lai
nói tức khơng phải phàm phu, ấy gọi là phàm phu.”Đoạn này có ý khác các đoạn trên,
giáo hóa khơng có chỗ giáo hóa. Từ quan trọng trong đoạn này là “Như Lai khởi nghĩ
ta sẽ độ chúng sanh” có ta đi độ chúng sanh, người tu cần quay về beeb trong để
quán chiếu người đi độ chúng sanh không thật. Như đoạn 14 là phá tướng chấp ngã,
cháp chúng sanh, phá thật tướng “Ly tướng tịch diệt” nơi tục đế phá tướng chúng

sanh, nơi chân đế phá tướng tịch diệt. Phẩm 26: Pháp thân chẳng phải là tướng “Này
Tu-bồ-đề, ý ơng nghĩ sao? Có thể do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai chăng? Tubồ-đề thưa rằng: Như thế, như thế, do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai. Phật
bảo: Tu-bồ-đề, nếu do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh
vương tức là Như Lai. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, như chỗ hiểu của con
qua nghĩa Phật nói, khơng nên do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai. Khi ấy Thế
Tơn nói bài kệ: Nếu do sắc thấy ta,Do âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà,
Không thể thấy Như Lai.”Đoạn này không nhằm vô 32 tướng mà người xem 32 tướng
phải luôn, cũng khong thật luôn. Người tu Bát-nhã không nên xem 32 tướng là Như
Lai. Phẩm 27: vô đoạn, vô diệt “Này Tu-bồ-đề, nếu ông khởi nghĩ thế này: Như Lai
chẳng do các tướng cụ túc được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tu-bồ-đề, chớ

10


khởi nghĩ thế ấy, Như Lai không do tướng cụ túc mà được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Tu -bồ-đề, nếu ông khởi nghĩ thế này: người phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác nói các pháp đoạn diệt, chớ khởi cái nghĩ này. Vì cớ sao? Vì người
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với pháp không có nói tướng đoạn
diệt.”Đây là đức Phật sợ khi nghe nói tất cả sắc tướng thanh âm khơng phải là Phật,
chúng ta lại tưởng Phật là ngoài thân năm uẩn mà có. Như thế thì thân năm uẩn này
khơng liên hệ gì với Phật cả. Ngay trong thân sanh diệt có Pháp thân bất sanh bất diệt.
Khi nghe nói ngay trong sắc thân này cầu Phật, chúng ta nghĩ khi sắc thân đoạn diệt
thì Phật cũng đoạn diệt ln… Đừng hiểu lầm như thế, vì người thành Phật khơng bao
giờ nói các pháp đoạn diệt. Chính điểm này là điểm mà tất cả người tu Phật phải để ý.
Bởi vì chúng ta thường có hai thứ bệnh, bệnh chấp thường và bệnh chấp đoạn. Chấp
thường là nghĩ rằng trong thân mình có linh hồn, linh hồn đời đời khơng bao giờ mất.
Chấp đoạn thì nói thân này chết rồi là hết, khơng cịn gì nữa. Chúng ta phải thấy rõ
thân này là tướng hư giả do tứ đại hợp. Đã là tướng hư giả thì khi tứ đại tan rã, thân
này khơng cịn. Tứ đại là vơ tri, nhưng trong ứt đại hợp này có cái tri giác. Tri giác lại
chia hai phần, tri giác hư vọng sanh diệt và tri giác không hư ọvng, không sanh diệt.

Khi người ta chấp tồn vật chất thì đức Phật phá tứ đại là không thật. Khi người ta
xem nhẹ phần vật chất, chấp nặng phần tinh thần thì đức Phật phá ngũ uẩn. Sắc uẩn là
tứ đại; thọ, tưởng, hành, thức, bốn uẩn này thuộc về tinh thần. Bốn uẩn thọ, tưởng,
hành, thức là tướng tâm sanh diệt, bốn tướng tâm sanh diệt này không phải là ngã.
Như thế là để phá chấp ngã về thân, chấp ngã về tâm. Khi thân giả và tâm giả này mất
rồi thì Như Lai tức Pháp thân hiện tiền. Thế nên Pháp thân không phải là tướng đoạn
diệt. Thân hư giả và tâm hư giả mất chớ không phải Pháp thân mất, như thế là thành
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chớ không phải tới đó là hết. Có người nói Niếtbàn là viên tịch, chỗ đó lặng lẽ, hồn tồn khơng có gì cả, đó là lầm lẫn, hiểu khơng
thấu đáo. Đúng ra khi khơng cịn những mầm sanh diệt, đó là chân thật giải thốt, đó
là Như Lai bất sanh bất diệt.Phẩm 28: không thọ, không tham trước “Này Tu-bồ-đề,
nếu Bồ-tát dùng thất bảo đầy cả thế giới bằng số cát sông Hằng để đem bố thí, nếu lại
có người biết tất cả pháp là vơ ngã được thành đức nhẫn nhục, thì Bồ-tát này được
cơng đức hơn vị Bồ-tát trước. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, do các vị Bồ-tát không thọ
phước đức. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ-tát không thọ
phước đức? Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát làm phước đức mà chẳng nên tham trước, thế nên
nói chẳng thọ phước đức.” Trong đoạn này đức Phật đề cao công đức hay phước đức
bất thọ, và phước đức bất thọ đó cũng do trí tuệ vơ ngã mà ra. Thế nên khi ngài Tu-bồđề hỏi Phật “thế nào là không thọ phước đức” thì đức Phật bảo: Bồ-tát làm phước đức
không tham trước nên gọi là không thọ phước đức. Sở dĩ chúng ta làm mà tham trước
là vì có ngã, nếu vơ ngã cịn tham trước cái gì? Thế nên nói rằng khơng tham trước là
phước đức lớn nhất.Nhấn mạnh chủ thể nhận thức, không quan trọng tới đối tượng
nhận thức. Phá luôn cả sự thọ phước đức, người chấp tâm đó cũng phải bỏ. Phẩm 29:
bốn oai nghi đều tịch tĩnh “Này Tu-bồ-đề, nếu có người nói Như Lai hoặc đến, hoặc
đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, người ấy khơng hiểu nghĩa của ta nói. Vì cớ sao? Như Lai đó
khơng từ đâu đến cũng khơng đi đâu nên gọi là Như Lai.”Nhấn mạnh đến chủ thể
nhận thức, chỉ có người tu hạnh Bồ Tát, người Như Lia cũng khơng có tự tánh. Đang
phá con người là Như Lai. Tất cả con người Như Lai đều tịch tĩnh, không có phiền
não, là hữu như y niết bàn. Người phàm phu cịn chấp vơ các hoạt động là có thật, còn
người Như Lai tất cả đều khong khởi niệm nên gọi là tịch tĩnh, tự do tự tại. Phẩm 30:

11



LÝ MỘT HỢP TƯỚNG “Này Tu-bồ-đề, nếu người thiện nam, thiện nữ đem thế giới
tam thiên đại thiên này nghiền nát thành bụi, ý ông nghĩ sao? Số bụi này thật là nhiều
chăng? Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Vì cớ sao? Nếu là bụi thật có
đó thì Phật ắt khơng nói là bụi nhiều. Vì cớ sao? Phật nói các bụi đó tức khơng phải là
bụi, ấy gọi là bụi. Bạch Thế Tơn, Như Lai nói thế giới tam thiên đại thiên tức không
phải thế giới, ấy gọi là thế giới. Vì cớ sao? Nếu thế giới thật có thì ắt là một hợp
tướng. Như Lai nói một hợp tướng tức không phải một hợp tướng ấy gọi là một hợp
tướng. Này Tu-bồ-đề, một hợp tướng đó ắt khơng thể nói, chỉ người phàm phu tham
trước việc ấy.”Giống như các đoạn trên, phá các pháp hữu vi, nhấn mạnh hợp tướng
đó, người quán chiếu hợp tướng đó cũng khơng có thật, nên khơng thể nói đó là hợp
tướng. Người phàm phu mới thấy có tướng hợp, tướng riêng, tướng chung, nhưng
người chứng Như Lai thì khơng thể nói đó gọi là lý nhất hợp tướng. Chủ yếu Phật dạy
ở đây là phải nhìn cho tường tận tất cả pháp, khơng một pháp nào có hình tướng mà
có Thật thể. Như thế mới hiểu, mới thấy được lý dun hợp. Từ thế giới đến hạt bụi
đều khơng có Thật thể, nó là một hợp tướng, nhưng hợp tướng cũng là giả danh, nên
nói: Hợp tướng khơng phải hợp tướng, ấy gọi là hợp tướng. Cuối cùng Ngài kết lại
một câu: Này Tu-bồ-đề, một hợp tướng đó ắt khơng thể nói, chỉ người phàm phu tham
trước việc ấy. Nói là một hợp tướng thì khơng thể nói.Phẩm 31: tri kiến chẳng sanh
“Này Tu-bồ-đề, nếu có người nói: Phật nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ
giả kiến, này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Người ấy hiểu nghĩa của ta nói chăng? Bạch
Thế Tơn, khơng hiểu vậy. Người ấy khơng hiểu nghĩa của Như Lai nói.Vì cớ sao? Thế
Tơn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức chẳng phải ngã kiến,
nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, ấy gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh
kiến, thọ giả kiến.
Này Tu-bồ-đề, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với tất cả pháp
nên như thế mà biết, như thế mà thấy, như thế mà tin hiểu, khơng sanh pháp tướng.
Này Tu-bồ-đề, nói là pháp tướng đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp tướng, ấy gọi là
pháp tướng.”Đức Phật đang đề cập đến chủ thể thấy cũng khơng thật. Thế Tơn nói về

cái thấy biết về ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức chẳng phải ngã
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, ấy gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng
sanh kiến, thọ giả kiến. Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đối với tất
cả pháp mình nhận thức nên phá ln cả cái thấy của mình lẫn cái pháp bên ngồi đều
khơng có tự tánh và không nên sanh tướng trạng nơi bất kỳ pháp nào cho dù đối tượng
chủ thể nhận thức lẫn đối tượng nhận thức. Ngay cả khái niệm pháp tướng, tức là
tướng trạng nơi đối tượng chủ thể nhận thức lẫn đối tượng nhận thức cũng phải thấy
nó vơ ngã. Vì cái gì có tướng gắn vơ là pháp hữu vi. Phẩm 32: ứng hóa khơng phải
thật “Này Tu-bồ-đề, nếu có người đem bảy báu bằng thế giới trải qua số kiếp vơ lượng
a-tăng-kỳ để bố thí. Nếu có người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Bồ-đề đem kinh
này cho đến bốn câu kệ v.v… thọ trì , đọc tụng, vì người diễn nói thì phước của người
này cịn hơn phước của người kia. Thế nào là vì người diễn nói? Chẳng thủ nơi tướng,
như như bất động. Vì cớ sao? Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, bóng, Như
sương cũng như điện, Nên khởi quán như thế. Phật nói kinh này rồi, trưởng lão Tu-bồđề và chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả thế gian trời, người, a-tula nghe Phật nói đều rất vui mừng, tin thọ và vâng làm.”Đức Phật nhấn mạnh người
diễn nói, người thọ trì, khơng nhấn mạnh phước đức, “chẳng thủ nơi tướng” , không

12


nên chấp mình có thật, nếu chấp thì thành tướng, thành người diễn nói, người thọ trì
mà cần phải “như như bất động” vì:
“Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như sương cũng như điện,
Nên khởi quán như thế.”
Đức Phật nhấn mạnh người tu và người khởi quán chứ khơng phải đề cập tới các
pháp hữu vi bên ngồi nữa. Pháp nào gắn tướng vô đề là pháp hữu vi kể cả người nhận
thức và người khởi quán như vị phàm phu, vị Bồ Tát, vị Như Lai là pháp hữu vị vì đã
có tướng trạng, có tên gọi. Chúng ta cần phải quán là mộng, huyễn, bọt, bóng, sương
và điện. Những thứ mộng, huyễn, bọt, bóng, sương và điện đều không quan trọng,

quan trọng là quán chúng là giả. Vì sao lại nhắc đến vì nó giả nhưng nó vẫn có để khỏi
rơi vào chấp khơng. Nên khởi quán các pháp hữu vi là chỉ có đối tượng nhận thức là
pháp hữu vi mà chủ thể nhận thức cũng là pháp hữu vi. Nu ta cho chúng là thường
cịn bất biến nằm riêng rẽ ngồi vạn pháp, ngay cả cái gọi là Phật tánh, chân tâm mà
cho là một pháp thì nó có thật, nó tồn tại độc lập các pháp khác. Chân tâm tồn tại độc
lập ngoài vọng tâm mà riêng có, thì chân tâm trở thành pháp hữu vi luôn. Chúng ta
phải quán chân tâm như mộng, là khơng có thiệt. Cần qn các pháp hữu vi kể cả các
pháp ta đặt tên tuổi trong người mình, người giác ngộ của mình, cái tâm của mình như
tâm quá khứ, hiện tại và vị lai đều không có tự tánh cả. Lúc đó chúng ta mới thực sự
vui mừng, tin thọ vâng làm.
Tóm lại, kinh Kim Cang gồm 32 phẩm được chia làm hai phần: 16 phẩm đầu là
nhấn mạnh đến đối tượng nhận thức từ phàm đến thánh, từ chân đến vọng, từ hạt bụi
cho đến thế giới đều khơng có tự tánh. Cịn16 phẩm sau là nhấn mạnh đến chủ thể
nhận thức. nhiều đoạn của 16 phẩm sau lặp lại các phầm trước nhằm mục đích nêu bật
các chủ thể nhận thức. Bởi vì khơng có chủ thể nhận thức nào nằm ngồi đối tượng
nhận thức mà có tồn tại cả. Chúng ta biết rằng thức của chúng ta khởi là bởi căn tiếp
xúc với cảnh, tức là trần cảnh, cộng thêm sự tác ý của tâm sở là “xúc ý thọ tưởng tư”
thì tâm sở biến hành là tác ý hay “mống tâm động niệm” tác động và trong trần cảnh
gọi là tâm hướng đến trần cảnh tức là “ngũ môn hướng tâm” tác ý vào đó chúng ta
mới sinh ra nhận thức, chủ thể nhận thức. Như vậy thể nhận thức là kết quả của căn
cảnh và tâm sở đó là tâm tác ý và không tách rời với đối tượng nhận thức. Vì vậy mà
mười 17 phẩm sau, trước khi phá chủ thể nhận thức, Đức Phật đều nhắc lại các đói
tượng nhận thức là khơng thật. Nên có sự lặp đi lặp lại trong Kinh Kim Cang là thế.
Người học Kinh Kim Cang cần phải nắm rõ tư tưởng xuyên suốt là phá chấp. Phá
chấp ngã, phá chấp đối tượng nhận thức, phá chấp chủ thể nhận thức thì khi chúng ta
đọc các phẩm trong Kinh Kim Cang sẽ có sự thơng suốt, có sự liền lạc, có nhân có
quả, có sự liên hệ với nhau. Hòa thượng Thanh Từ viết “Đọc toàn quyển kinh Kim
Cang, chúng ta thấy Phật phá sạch, khơng cịn sót một kiến chấp nào. Đây là quả bom,
là khối chất nổ mạnh làm nổ tung hai ngọn núi kiến chấp của chúng sanh”. Tơi hồn
tồn tin tưởng vào sự diệu dụng của kinh Kim Cang, nguyện siêng năng tinh tấn tu

hành theo lời Phật dạy cho thân tâm được an lạc.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Thái Hư Đại Sư, Kinh Kim Cang Giảng Lục, Thích Huệ Hưng dịch, Nxb Thành
Hội Phật Giáo Thành Phố Hồ Chí Minh, 1991.
2) Thích Thanh Từ, Kim Cang Giảng Giải, Nxb Thành Hội Phật Giáo Thành Phố Hồ
Chí Minh, 1994.
3) Thích Chơn Thiện, Tư tưởng Kinh Kim Cang, Nxb Tôn Giáo, 1999.
4) Thái Hư Đại Sư, Kinh Kim Cang Giảng Lục, Thích Huệ Hưng dịch, Nxb Thành Hội
Phật Giáo Thành Phố Hồ Chí Minh, 1991.
5) ĐĐ.TS. Thích Trí Minh,bài giảng trên lớp,tư tưởng kinh kim cang.

Hết

14



×