Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Trình bày thực trạng đạo đức nơi tự việncông sở tìm giải pháp cụ thể để cải thiện, ứng dụng ĐĐHPG để phân tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.08 KB, 19 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MƠN ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO

Đề tài: Trình bày thực trạng đạo đức nơi tự viện/cơng sở
& tìm giải pháp cụ thể để cải thiện, ứng dụng ĐĐHPG
để phân tích
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.Thích Giác Hồng
Sinh viên thực hiện:

Dương Thị Ngọc Ánh

Pháp danh: TN.Huệ Trạm
Mã sinh viên: TX 6009
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MƠN ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO

Đề tài: Trình bày thực trạng đạo đức nơi tự viện/cơng sở
& tìm giải pháp cụ thể để cải thiện, ứng dụng ĐĐHPG
để phân tích



Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.Thích Giác Hồng
Sinh viên thực hiện: Dương Thị Ngọc Ánh
Pháp danh: TN.Huệ Trạm
Mã sinh viên: TX 6009
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021.


MỤC LỤC

KẾT LUẬN.................................................................................................................15
DANH MỤC TLTK.....................................................................................................16


A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai cũng nhớ chùa chung,
Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”.
Mái chùa không biết tự bao giờ đã trở thành ngôi nhà chung che chở hồn dân tộc, đó
chính là ngơi nhà tâm linh hướng dẫn con người biết nhân quả đạo lý, biết sống đạo
đức, yêu thương gắn bó với quê hương đất nước. Nên, chùa là cái hồn dân tộc, thân
thương gần gũi, hòa quyện trong lòng người dân như máu với thịt, như hơi thở, như
bữa ăn hằng ngày. Ngôi chùa sở dĩ trở thành một nét văn hóa đặc thù, trở thành ngơi
nhà tâm linh thiêng liêng giữa cuộc đời bụi bặm khổ lụy này là do vị trụ trì. Nếu như
ngơi chùa là linh hồn của dân tộc thì vị trụ trì là linh hồn ngơi chùa. Ngơi chùa có

mang tính nhập thế và hưng thịnh hay không là do đạo hạnh và tài năng lãnh đạo của
vị trụ trì.Phải nói rằng, vị trụ trì đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc thịnh
suy của chánh pháp. Vị trụ trì là người thay mặt Giáo Hội lãnh đạo Tăng –Ni Phật tử
tại trú xứ tu học. Nếu vị trụ trì là người đạo cao đức trọng, biết cách quản lý lãnh đạo
ngơi chùa thì ngơi chùa đó sẽ hưng thịnh và có nhiều đóng góp thiết thực cho làng
nước, xã hội. Ngược lại nếu vị trụ trì khơng hội đủ các tiêu chuẩn trên thì ngơi chùa
chỉ khép kín và khơng đóng góp được gì nhiều cho cộng đồng xã hội và đạo pháp.
Chúng ta biết rằng lãnh đạo ngôi chùa là một sứ mạng thiêng liêng của người làm trụ
trì, phải gánh vác trên đôi vai trọng trách tiếp nối chư vị Tổ sư “truyền trì mạng mạch
Phật pháp”. Gánh vác một trọng trách to lớn như vậy, người trụ trì khơng thể nào
khơng trang bị cho mình một kiến thức đầy đủ về cách làm trụ trì.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên sử dụng các phương pháp: phân tích, đối chiếu, so sánh,tổng hợp từ đó đi
đến làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
3.Nội dung nghiên cứu:
Đạo đức người thầy trụ trì – niềm tin Phật tử
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung.Nội dung gồm 03 chương .
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo.

4


B.NỘI DUNG
Chương 1:Ý nghĩa trụ trì
1.1. Cơ sở Trụ trì (Trụ trì về mặt cơ sở)
Theo truyền thống giáo pháp, cơ sở là y báo của vị Trụ trì, có nghĩa là do đã gieo trồng
cơng đức Trụ trì đời trước, nên kiếp này đầy đủ nhân duyên Trụ trì một cơ sở của Giáo
hội. Theo điều 30 chương 7 Hiến chương; điều 16, 17, 18, 19 chương V Nội quy Tăng

sự Trung ương, cơ sở của Giáo hội là các Tự viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật
đường. Nói theo xã hội gồm có chùa Cơng, chùa Tư, chùa Hội, chùa Làng và chùa
Tộc. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo và quản lý chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
của ngành Tăng sự Trung ương, Ban Trị sự các Tỉnh, Thành hội và Ban Đại diện Phật
giáo Quận, Huyện, Thị xã, Thành phố thuộc Tỉnh thì đều thống nhất trong một cơ chế
chung. Dù có sự sinh hoạt theo hệ phái biệt truyền, nhưng vẫn tuân thủ điều 41, 42, 43
chương VIII Nội quy Tăng sự, do Ban Đại diện Phật giáo Quận, Huyện… đề xuất,
Thường trực Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh, Thành ra quyết định bổ nhiệm Trụ trì.Với y
báo như thế, là điều kiện tối thiểu để hành đạo, hóa đạo của người đệ tử Phật, do đó
phải giữ gìn, phát huy và trang nghiêm ngơi Tam bảo. Như Cổ đức nói: “Nguyện đem
thân tứ đại này. Tô bồi Đạo Pháp xây dựng Đạo tràn. Cúng dường Tam bảo trang
nghiêm. Làm cho Đời Đạo ngày càng đẹp tươi”. Do đó, tự thân Chánh báo đã trang
nghiêm thì y báo sẽ trang nghiêm . Mà y báo, chánh báo trang nghiêm thì Giáo hội
trang nghiêm và xã hội cũng trang nghiêm. Vì trang nghiêm ngơi Tam bảo tức trang
nghiêm thế gian và Tịnh độ Chư Phật tại thế gian.Về mặt biểu tượng và lý tánh, cơ sở
Tự, Viện cịn gọi là ngơi Tam bảo, trang nghiêm Tam bảo bên ngồi chính là trang
nghiêm Tam bảo trong Tâm. Như Hịa thượng Trường Đình nói: “Ta có nhà Tam bảo.
Trong vốn không sắc tướng. Ngời ngời tự tại chẳng làm chi. Phơi phới rồi thì sẽ thấy
kỷ”. Với hình ảnh ngơi Tịnh xá hình bát giác, tiêu biểu cho Bát Chánh đạo, như vậy,
hằng ngày trang nghiêm, tu tập và dạo đi trong Bát Chánh đạo, cũng là ba mơn Vơ lậu
học Giới, Định, Tuệ. Trong đó, Giới gồm: Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh;
Định gồm: Chánh niệm, Chánh định; Tuệ gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tinh
tấn; cũng chính là ba căn lành: Vơ tham (Giới), Vơ sân (Định), Vơ si (Tuệ). Kinh Pháp
cú nói: Bát Chánh đạo thù thắng. Tứ đế lý cao siêu. Trên hết trong bậc Thánh. Phật
nhẫn là tối thượng.Bằng tinh thần vơ ngã, vị tha khơng trụ trước, Trụ trì ln luôn
trang nghiêm cơ sở một cách không biết mệt mõi, với mục đích duy nhất là làm trịn
bổn phận Trụ trì do nhân dun đã định, Giáo hội giao phó, Phật tử tin tưởng cúng
dường, hộ trì Tam bảo trong tinh thần phụng sự Đạo pháp, phát huy văn hóa Tâm linh
qua hình ảnh một ngơi chùa hiện hữu ở thế gian huy hoàng tráng lệ. Như Thủy Am
Đại sư nói: “Bao năm bồi đắp chốn chùa chiền. Ngói sỏi biến thành Thích Phạm thiên.

Quả phúc đã trịn nay để lai. Tay rung gậy trúc dạo Tam thiên” (Thiền Lâm Bảo
Huấn).
1.2. Pháp Tạng Trụ trì (Trị trì về mặt Phật pháp)
Giáo pháp Đức Phật nói ra là đáp ứng yêu cầu của chúng sanh và từ tự tâm chúng
sanh mà thiết lập. Do đó, từ thiện căn Vơ tham có ra Giới luật (Luật tạng), Vơ sân
thuộc Định có ra Kinh Tạng. Vơ si có ra Luận tạng thuộc về Huệ. Dù chia ba nhưng
vẫn là một thể, thế nên đầy đủ Tam tạng tại Tâm và Tâm này cũng có đầy đủ ba Tạng:
Kinh, Luật, Luận là Giới, Định, Tuệ (Vơ tham, vơ sân, vơ si). Vì vậy, Đức Lục Tổ
5


dạy: “Ba Tạng giáo điển, 12 phần giáo đều có đủ ở tự tâm các ông mà không trực
nhận, lại đi tìm bên ngồi thì khơng hợp lý” (Kinh Pháp Bảo Đàn).Song vấn đề phải
làm sao? Như Đức Phật dạy: Các ông hãy là người thừa kế giáo pháp Như Lai, chớ
không nên là người thừa kế tài vật… (Trung A Hàm). Do đó, cần phải duy trì và phát
huy giáo pháp, sống theo giáo pháp, hành trì, truyền bá giáo pháp. Như Khế kinh nói:
“Tỳ kheo vui Chánh pháp. An trụ trong Chánh pháp. Tư duy về Chánh pháp. Thực
hành theo Chánh pháp. Làm lợi ích chúng sanh. Ấy là hạnh Sa Môn” (PC. 79 -86).Từ
ý nghĩa trên, chúng ta phải đọc kinh, tụng kinh, biên chép, phiên dịch, giảng dạy, cho
mượn đọc tụng, chuyền tay nhau tụng, in ấn, ấn tống kinh điển, sang băng cassette, đĩa
CD, mua báo cúng dường, gửi tặng vùng sâu vùng xa, hoặc cho những ai cần đọc
tụng, nghe băng, đĩa. Tùy hỷ công tác ấn tống, hỗ trợ, kêu gọi mọi người cùng thực
hiện cơng đức Pháp thí này. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong tất cả sự cúng dường
Pháp cúng dường là hơn hết” (Nhứt thiết cúng dường trung Pháp cúng dường tối
thắng).Tuy nhiên, ngồi cơng tác ấn tống kinh điển, giảng dạy, phát huy giáo lý Phật
đà, chúng ta cũng phải an trụ, hành trì, tu tập theo lời Phật dạy, có nỗ lực tu tập mới có
an lạc giải thoát, mới hết sanh tử luân hồi, chứng quả Niết bàn, thành Phật. Như Khế
kinh dạy: “Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu. Hay trừ nghiệp chướng diệt lo âu. Thân
tâm thanh tịnh trời xuân sắc. Phúc huệ trang nghiêm tỏ Đạo mầu” (Pháp trích lục).Nỗ
lực tu học Phật pháp, duy trì và phát huy Chánh pháp, mở lớp giáo lý, mở Trường Phật

học đào tạo Tăng Ni tài đức cho Giáo hội. Nhất là ba tháng An cư Kiết hạ, là điều
kiện, môi trường, thời điểm tốt nhất để chư Tăng Ni có dịp học hỏi giáo pháp, trao đổi
những kinh nghiệm và sự truyền bá Chánh pháp, sự thể nghiệm tu tập qua giáo pháp
để có được sự lợi ích thiết thực trong đời sống tu hành của người con Phật, và từ đó
làm lợi ích cho đời, cho chúng sinh, lợi lạc tự thân, lợi ích xã hội, tốt đạo đẹp đời, như
điều 37, 40 chương VII Nội quy Tăng sự đã quy định. Như Tổ Linh Nguyên dạy: “Sự
học cũng như bể cả. Trăm sông nước đổ dồn về. Nước biển bao giờ cũng thể. Nào đâu
có sự tràn trề”.
1.3. Quyến thuộc Trụ trì (Trụ trì về mặt Qun thuộc)
Như Cổ đức nói “Tình linh sơn cốt nhục, nghĩa Thích tử cơn bằng”, là một khái niệm
xuyên suốt từ đời trước đến đời nay. Đã là quyến thuộc với nhau trong các Pháp hội,
các đạo tràng và những Phật sự khác trong quá khứ. Thế nên, khi Ngài Huệ Tư gặp Trí
Khải Đại sư, Ngài nói: Ta và Ơng đã từng dự hội Pháp Hoa. Trí Khải đáp: Do đó, con
xin đến cầu Pháp với Ngài. Và được Đại sư Huệ Tư nhận làm đệ tử.Tình quyến thuộc
trong Phật pháp rất quan trọng, chúng ta phải cố gắng thắt chặt, nhân rộng ra, không
những đời này mà cho đến những đời sau, cho đến khi thành Phật. Thế gian có câu:
Ăn cơm có canh. Tu hành có bạn là một nguyên lý nhất quán và ý nghĩa tuyệt đẹp.Từ
khái niệm đó, chúng ta phải gieo duyên với chúng sanh. Mở lớp dạy học, đào tạo Tăng
tài cho Phật pháp, lập đàn truyền giới Quy y cho Phật tử. Mở lớp giáo lý, đạo tràng tu
bát quan trai, thuyết giảng Phật pháp… theo điều 28, 31, 32 chương VI Nội quy Tăng
sự để tạo điều kiện tu học cho Tăng Ni, Phật tử và kết duyên lành với nhau trong
Chánh pháp, như Tổ Qui Sơn đã nói: “Nguyện đời đời kiếp kiếp xin làm bạn với nhau
trong Chánh pháp” (Nguyện bách kiếp thiên sanh, đồng vi Pháp lữ) (Qui sơn Cảnh
sách). Nói cách khác, như Cổ đức dạy: “Linh sơn nghĩa cũ tình xưa. Ta bà Tịnh độ say
sưa Pháp mầu. Kiếp sau xin nhớ nguyện đầu. Xây tình Pháp lữ bắt cầu Tâm giao. Đời
nay đến những đời sau. Chung lo Phật sự biết bao nhiêu tình. Quyết lịng độ tận chúng
sinh. Từ bi trí tuệ thỏa tình ước mong. Khơng rời bản thể Chân khơng. Tùy duyên hóa
6



đạo thong dong mọi miền”.Đồng thời đứng về mặt thế gian, xã hội cộng đồng cũng là
quyến thuộc trong nghĩa cộng thơng. Tại sao? Vì tất cả chúng ta cùng chung một Pháp
giới, do duyên sanh nên hiện hữu trong một mơi trường, do Pháp tướng có khác, thân
hình có khác, lý tưởng có khác nhưng đang hiện hữu trong một xã hội, một đất nước,
mà nó là y báo chung của tất cả. Do đó, chúng ta phải tạo sự thân mật, cảm thơng,
sống chung với nhau trong tình huynh đệ, nghĩa đồng bào, đồng chủng với nhau. Như
ca dao Việt Nam có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy là khác giống nhưng chung
một giàn”. Thực hiện được như thế, nhất định chúng ta sẽ tồn tại và phát triển trong
tinh thần tương thần, tương ái và cơng thơng đầy ấp tình người mn thuở.
1.4. Bản thể Trụ trì (Trụ trì về mặt bản thể)
Như Cổ đức dạy: “Có Tâm khơng tướng, thì tướng sẽ phát sinh từ Tâm. Có tướng mà
khơng tâm, thì tướng sẽ bị diệt. Vì là khơng từ cơ bản sanh”. Do đó, tất cả chúng ta
phải xây dựng Đạo Tâm vững chắc, trang nghiêm thanh tịnh, đạo lực kiên cường làm
nền cho các Phật sự. Như Cổ đức nói “Xuân về Hoa nở trên đất tâm. Trăng sáng năm
xưa tỏ hơn Rằm. Vườn hoa Đạo lý hương ngào ngạt. Mãi mãi ngàn sau vẫn ngát
hương”.Nói khác đi, các Pháp đều từ Chơn như Pháp giới phát sinh, cuối cùng đều trở
về Chơn như Pháp giới. Do đó, ngồi ý nghĩa an trụ, xây dựng những ngôi Chùa, Tịnh
xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường bên ngồi. Chúng ta cịn phải xây dựng ngơi Chùa,
Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường trong Tâm chúng ta cho trang nghiêm, huy
hồng và nó sẽ miên viễn trường tồn bất diệt trong Chơn lý vô biên mầu nhiệm của
Tâm. Do đó, cần nỗ lực tu tập như điều 37, 38, 39, 40 chương VII Nội quy Tăng sự đã
đề cập.Từ ý nghĩa trên, có thể nói, chúng ta an trụ tự tánh Tam bảo, nhà Tam bảo trong
Tâm là: Tự tánh sáng suốt là Phật bảo, Tự tánh thường trú là Pháp bảo, Tự tánh thanh
tịnh là Tăng bảo. Như Đại Nam Đại sư nói: “Cần hỏi ai lương Tâm ấy sáng soi như
nhật nguyện. Cõi lòng nầy rộng lớn đức Từ bi”.Tóm lại, dù suốt đời chúng ta lo trang
nghiêm cơ sở vật chất, để lại biết bao cơng trình văn hóa, phạm vũ huy hồng, nhưng
nếu chúng ta không an trụ, y cứ phát huy tự Tâm thanh tịnh, Pháp thân thường trụ,
Niến bàn an lạc giải thốt, thì chúng ta xem như đánh mắt nguồn Tâm, Tự tánh và sẽ
chuốc lấy sự khổ khi báo thân đã mãn. Do đó, từng phút từng giây, khi chúng ta dạo
qua, an trú trên mặt đất này, cơ sở này, chúng ta luôn quán niệm, như Cổ đức dạy:

“Mỗi bước đi trong cõi Niết bàn. Lướt dòng sinh tử chớ hề nan. Chơn không dần bước
trong ly niệm. Tịnh độ là đây, cũng Niết bàn”.

7


Chương 2

Vai trị của thầy trụ trì trong thời hiện đại
2.1.Vai trị của trụ trì trong việc quản lý “Tự viện”
2.1.1. Đạo hạnh của vị trụ trì:
Trụ trì là linh hồn ngơi chùa, là người giữ vai trị cực kỳ quan trọng trong việc truyền
trì mạng mạch phật pháp, là người chịu trách nhiệm trước giáo hội về việc hướng dẫn
Tăng ni Phật tử tại trú xứ tu học đúng pháp, đúng luật. Cho nên, hơn ai hết vị trụ trì
phải là người có giới hạnh trang nghiêm, vì dù vị trụ trì có tài cao nhưng đức khơng
trọng thì sẽ khó mà nhiếp hóa lịng người. Nên, người trụ trì phải tốt lên được “oai
đáng kính, nghi đáng sợ”, là người “đức trọng quỷ thần kinh”. Có như vậy mới xứng
đáng làm bậc thầy của thiên hạ, mới có thể nhiếp hóa đồ chúng và quần chúng tu
tập.Nghiêm trì giới luật là một trong yếu tố quan trọng hàng đầu của vị trụ trì. Sự
nghiêm trì giới luật làm cho vị trụ trì sáng ngời uy đức, đủ làm chổ nương tựa cho
hàng ngũ xuất gia và quần chúng Phật tử. Chỉ cần nhìn vào oai nghi, cử chỉ của vị trụ
trì thơi người ta cũng đủ sanh tâm quy ngưỡng Phật pháp. Cho nên việc giữ giới luật
của vị trụ trì khơng chỉ vì lợi ích cá nhân thơi mà cịn làm lợi ích cho rất nhiều người.
Thứ hai, người trụ trì phải là người có tâm hồn bao dung, hiền hịa, sự bình an tỏa ra
một cách tự nhiên khiến cho mọi người cảm nhận được sự bình an khi tiếp xúc, gần
gũi, đó chính là tâm “từ bi”. “Từ” là lịng thương u hồn tồn vị tha, thương u
bình đẳng đối với chúng sanh mà khơng cần sự đáp trả nào. “Bi” là cứu khổ, với một
tình thương ấm áp như nắng mùa xuân, người trụ trì ln giang rộng đơi tay cứu giúp
những người khó khăn về măt vật chất, và khổ não về tinh thần. Cho nên rất nhiều
trường hợp có những người quy ngưỡng đạo Phật vì xúc động trước lịng từ của vị

Tăng và cũng khơng ít người bỏ đạo vì bất mãn trước lối cư xử và lối sống thiếu đạo
hạnh của vị Tăng. Vì vậy ở cương vị của trụ trì, người trụ trì phải tu tập tâm từ bi
thuần thục để có một tình thương và uy đức lan tỏa đến mọi người.
Thứ ba, người trụ trì phải có phong thái điềm tĩnh vững vàng để xử lý và giải quyết
mọi cơng việc từ trong ra ngồi. Có câu “tình sanh thì trí cách”, một tâm hồn náo động
lăng xăng sẽ khơng đủ sáng suốt để nhìn hết mọi khía cạnh cơng việc và hậu quả của
vấn đề đó. Cho nên chỉ có bình tĩnh ung dung thì người trụ trì mới có thể đầy đủ sáng
suốt để xử lý mọi vấn đề một cách gọn gàng chính xác nhất. Vị trụ trì là người chịu
trách nhiệm đối với trọng trách “truyền trì mạng mạch Phật pháp”, thực hiên vai trò
“Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”. Thế nhưng ít người chấn hưng chốn già lam
đúng theo ý nghĩa của nó mà có một số vị trụ trì quên mất đạo đức, bỏ cả ngôn hạnh,
không cần nhân nghĩa, phá hoại pháp độ, làm theo ý riêng của mình. Khi làm trụ trì,
họ xem già lam là của riêng mình để làm việc riêng tư, khơng nghĩ đến Giáo hội, làm
cho đạo pháp ngày một đi xuống. Người trụ trì phải hiểu việc thành lập chốn Già lam
là vì người học đạo, vì chánh pháp của đức Phật phải được hoằng truyền. Cho nên
người trụ trì khơng xem tự viện như ngơi nhà riêng của cá nhân mình, nên sống trong
tinh thần vô ngã và vô ngã sở “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ Tâm” (Kinh Kim Cang).
Ngôi tự viện chỉ là một phương tiện để chúng ta thực hành sứ mạng của Như Lai, là
nơi chốn thuận lợi cho chúng Tăng tu học, cũng là nơi chốn hoằng truyền chánh
8


pháp.Tự viện là của chung của Tăng chúng, là một đơn vị trực thuộc của Giáo Hội,
chịu sự quản lý của Giáo Hội. Vì vậy người trụ trì khơng được xem ngơi chùa là “của
tơi, tơi có quyền làm gì thì làm”. Người trụ trì khơng được lạm dụng Tự Viện để dung
chứa thân nhân quyến thuộc mà hãy vì Phật pháp mà quên đi cá nhân, hãy sử dụng
ngôi Tự Viện một cách đúng chánh pháp.Tóm lại, người trụ trì phải trang bị cho mình
đầy đủ “huệ” và “đức”, có huệ mà khơng có đức thì mọi người chẳng kính, có đức mà
khơng có huệ thì khó hướng dẫn đàn hậu lai. Vị trụ trì phải lấy đức làm cho huệ càng
ngày càng tỏa sáng. Có huệ và đức thì mới có khả năng kế thừa và tiếp nối sự nghiệp

các bậc tiền nhân.
2.1.2. Kiến thức của vị trụ trì:
Khơng phải ai sanh ra lớn lên là biết chỉ đạo, hoặc lãnh đạo mà bất cứ người nào cũng
phải trãi qua thời gian học tập, trau dồi kiến thức. Người trụ trì là người cần trang bị
cho mình rất nhiều kiến thức về mọi lãnh vực cần thiết của chức vị trụ trì như kiến
thức về giới luật, về phật pháp, phải có kinh nghiệm tiếp tăng độ chúng, phải biết cách
tổ chức tu học trong Thiền môn, phải biết kiến thức xây dựng chùa, biết cách trang trí
thờ tự trong một ngôi chùa như thế nào. Dù rằng đã có một vốn liếng kiến thức về trụ
trì chăng nữa thì người trụ trì vẫn ln ln bổ túc sự học hỏi của mình khơng ngừng
nghỉ. Vẫn biết rằng vị trụ trì bận rộn trăm cơng nghìn việc nhưng phải giành vài giờ
trong tuần nghiên cứu thêm kinh điển và tham dự các buổi giảng do Giáo hội tổ chức
về khóa trụ trì. Trước hết, người trụ trì phải dành thời gian nghiên cứ giáo lý khơng
ngừng. Vì sao vậy ? Vì kho tàng giáo lý của đức Phật thì mênh mơng nhưng thời gian
trơi q nhanh q nên cơ hội nghiên cứu của chúng ta quá ít. Hơn nữa, vai trị của vị
trụ trì khơng cho phép chúng ta dốt nát về giáo lý. Ngày nay tín đồ Phật tử đa số là
người trí thức và rất nhiều người có trình độ Phật pháp rất thâm sâu, nếu như Phật
pháp chúng ta thua họ, sẽ khiến họ sanh tâm xem thường. Chúng ta có thể kém hơn họ
về kiến thức thế gian nhưng không được kém họ về Phật pháp. Chính vì lý do này mà
người trụ trì luôn đặt nặng vấn đề trau dồi kiến thức Phật pháp khơng ngừng. Người
trụ trì phải am tường những pháp căn bản của giới luật để biện biệt trong hành trì và
hướng dẫn đồ chúng. Ví dụ như muốn dạy cho đệ tử biết cách làm “thị giả” thì người
trụ trì phải có kiến thức cũng như kinh nghiệm làm “thị giả” như thế nào. Người trụ trì
phải biết: cương giới, giới trường, ngũ thiên, thất trụ, cấc pháp yết ma, … am tường
cách thức truyền giới và thọ giới, phải biết làm “thầy” phải hội đủ các điều kiện gì,
phải biết cách thức thế phát xuất gia cho đệ tử v.v…Người trụ trì phải am tường nghi
lễ Phật giáo, vì phần đơng quần chúng biết đến đạo Phật qua hình ảnh ngơi chùa thân
thương, qua hình tượng Phật từ ái, qua vị trụ trì khả kính và nhất là qua nghi lễ Phật
giáo. Nghi lễ Phật giáo là một loại hình tín ngưỡng tơn giáo khơng thể thiếu đối với
đại đa số quần chúng. Từ Nghi lễ Phật giáo mà Tam bảo được tơn vinh, nên vị trụ trì
dễ gần gũi và dẫn dắt tín đồ hơn.Người trụ trì phải biết cách tổ chức các lễ hội phật

giáo sao cho lễ hội đó phải mang nét đặc thù của văn hóa Phật giáo, vừa tính trang
nghiêm trọng thể vừa tránh được lãng phí, vừa truyền tải được những ý nghĩa sâu sắc
của triết lý đạo Phật.Người trụ trì phải biết cách tổ chức, biết cách điều hành đạo tràng
tu Bát Quan Trai, tu Phật thất … để người Phật tử cảm thấy ngày một thăng tiến hơn
trên con đường tâm linh. Họ cảm thấy hạnh phúc, an lạc trong những ngày tu, họ cảm
nhận được sự ấm áp của tình thầy trị, tình huynh đệ, họ càng đồn kết với nhau hơn,
cùng nhau hết lịng hộ trì Tam bảo.Vị trụ trì phải thơng suốt mọi đường lối của Giáo
hội. Chúng ta biết Hiến chương và Nội quy của Giáo hội được xây dựng trên hiến
9


pháp và pháp luật nhà nước. Chính phủ Việt Nam cơng nhận chính thức rằng
GHPGVH là tổ chức duy nhất đại diện cho Tăng ni phật tử Việt Nam trong và ngồi
nước. Giáo hội có trách nhiệm quản lý Tăng ni phật tử và toàn thể Tự Viện tại Việt
Nam. [5] Ngôi chùa là một cơ sở của giáo hội, vị trụ trì thay mặt giáo hội điều hành
mọi cơng việc Phật sự tại bổn tự và hướng dẫn quần chúng tu học, tất nhiên vị trụ trì
phải hiểu rõ tất cả văn kiện, nghị quyết mà giáo hội đưa ra. Là một thành viên của
giáo hội PGVN, người trụ trì phải thể hiện tinh thần chung là thống nhất ý chí và hành
động, lấy hiến chương và nội quy của GH làm chuẩn để sinh hoạt, tránh chống đối,
gây bất lợi cho đạo pháp.
2. 2. Trách nhiệm của vị trụ trì:
Người trụ trì gánh vác trên đơi vai của mình nhiều trách nhiệm nặng nề. Trước hết,
người trụ trì phải biết cách tổ chức và điều hành một cách có hệ thống sự tu học của
Tăng chúng nội tự. Lo việc trong chùa cho ổn định nề nếp rồi, người trụ trì cịn lo việc
bên ngồi như làm các công tác từ thiện xã hội, hướng dẫn quần chúng và Phật tử tu
tập …Sau đây là một số nhiệm vụ điển hình mà người trụ trị phải thực hiện.
2.2..1. Sắp xếp ban điều hành và các ban trong Tự Viện:
Đối với những ngơi chùa ít Tăng chúng thì vấn đề tổ chức nội tự không quan
trọng lắm, nhưng đối với những ngơi Tự Viện mà Tăng chúng đơng thì vấn đề tổ chức
điều hành có hệ thống là một vấn đề khơng thể thiếu được. Đó là trách nhiệm cốt lõi

của vị trụ trì. Nếu một người trụ trì kém về mặt tổ chức sẽ đưa đến sự bất mãn, xáo
trộn, khơng có nề nếp, dẫn đến chất lượng tu học của Tăng chúng cũng không được
cao. Ngược lại nếu vị trụ trì biết cách tổ chức và điều hành nội tự một cách có hệ
thống và mang tính khoa học thì mọi việc được rút ngắn thời gian, mang tính gọn nhẹ,
trơi chảy, nhưng kết quả lại cao. Bên cạnh đó người trụ trì biết cách điều hành sẽ khiến
cho đời sống sinh hoạt Tăng chúng có nề nếp, hòa hợp trong tinh thần cùng học, cùng
tu, cùng giữ giới luật, đây là một môi trường lý tưởng cho sự tu học của Tăng chúng.
Như vậy, vị trụ trì phải biết tổ chức đại chúng nội tự tu học như thế nào ?
Người trụ trì khơng thể ơm trọn hết mọi công việc nội tự, nhất là nơi Tăng chúng
đơng đảo. Người trụ trì phải cử ra Ban chức sự (Ban điều hành) để chia bớt trách
nhiệm với mình. Tổng qt Ban chức sự có thể như sau:
- Một phó trụ trì có khả năng qn xuyến mọi việc để thay thế trụ trì khi trụ trì vắng
mặt.
- Một tri chúng để kiểm soát chúng, kiểm soát thời khóa tu học và oai nghi của chúng,
nhắc nhở chúng áp dụng đúng Thanh quy.
- Một thủ quỷ giữ tiền của Tự viện, chỉ xuất theo lệnh trụ trì và ban chức sự.
- Một tri sự để sắp xếp và kiểm soát việc lao tác của chúng, nhắc nhở chúng hồn
thành nhiệm vụ của mình.
Ban chức sự phải làm việc ăn khớp với nhau dưới sự chỉ đạo, giám sát của trụ trì,
khơng để xảy ra tình trạng chồng chéo trách nhiệm của nhau mà nhiệm vụ người nào
người đó phải hồn thành. Ban chức sự do trụ trì chỉ định hay do đại chúng đề cử và
cần có nhiệm kỳ thay đổi để mọi người được trãi qua thời gian trong ban chức sự hầu
rèn luyện khả năng dẫn chúng về sau. Ngoài ban chức sự căn bản trên, cần có thêm:
- Một Hương Đăng (hoặc một nhóm người làm Hương đăng) để coi sóc về Chánh điện
như coi sóc về hoa quả cúng Phật, lau chánh điện, thức chúng …
- Một Trưởng liêu (mỗi liêu có một trưởng liêu) để gần gủi và sách tấn chúng.
- Một Tri khố để sắp xếp việc ăn uống cho chúng.
10



- Một Tri khách để tiếp khách và sắp xếp việc ăn ở trong thời gian khách lưu trú, đồng
thời giải đáp những câu hỏi thông thường của khách. Tuy nhiên tri khách phải là
người tế nhị, am hiểu tình hình nội viện và xã hội, là người có khả năng giải đáp mọi
thắc mắc về Phật pháp cho khách.
- Một khán bịnh để chăm sóc sức khỏe cho chúng. Người khán bịnh phải được bồi
dưỡng trong y học. Các tự viện bên Trung Hoa ngay xưa, người quản lý nhà trù là một
thầy thuốc
- Một Thủ kho để giữ gìn vật tư, kỹ thuật máy móc, đồ dùng của nội viện.
- Một Tri viên để chăm sóc vườn tược cây cảnh của chùa.
Những cơng việc trên có thể ln phiên mỗi người (có thể là 2, 3 người như Hương
đăng) một tháng hoặc ba tháng, hay một năm, tùy theo cách bố trí khác nhau của mỗi
chùa. Ngồi ra để sự sinh hoạt của chúng có sự nhịp nhàng điều độ thì mỗi ngày phải
chia phiên hành đường (dọn ăn cho đại chúng), Trị nhật (nấu ăn cho đại chúng), làm
nhà vệ sinh … Người trụ trì phải tránh tình trạng thiên vị một ai đó mà giao cho họ
những công việc nhẹ không đồng với chúng, sẽ dẫn đến sự bất mãn của đại chúng. Vị
trụ trì điều hành mọi cơng việc trên tinh thần bình đẳng với một tấm lòng bao dung
rộng mở, hết lòng thương yêu chúng. Nói chung vị trụ trì có đầu óc tổ chức làm sao để
mọi người cùng tu học và chấp tác trong tinh thần lục hịa, bình đẳng và tự giác. Điều
hành làm sao để mọi công việc được trôi chảy, rút ngắn thời gian nhưng gặt hái thành
quả lại rất cao. Làm được như vậy thì khơng việc gì khơng thành tựu.
2.2.2. Lập Thanh Quy:
Ngồi những giới luật căn bản từ Đức Phật truyền lại như Sa Di, Sa Di ni, Thức
Xoa, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni … mỗi Tự viện cần lập thêm Thanh Quy cho thích hợp với
mơi trường tu học nội tự. Bởi vì có Tăng chúng là đệ tử thế độ của người trụ trì,
nhưng có người từ nơi khác đến y chỉ vị trụ trì, có người niên lạp đáng là đệ tử trụ trì,
nhưng cũng có người lớn hơn hoặc tương đương trụ trì. Trong vấn đề tình và lý phức
tạp như vậy, ngơi Tự viện cần có bản Thanh Quy làm quy ước để giữ gìn ổn định của
đời sống nội tự. Người đến Tự Viện phải là người tự nguyện chấp hành Thanh Quy
của Tự Viện, nếu khơng họ có thể tự do rời khỏi Tự Viện, nếu ở thì phải chấp hành
Thanh quy của Tự Viện. Trong Thanh quy, quy định thời khóa tu tập, chấp tác, quy

định tinh thần, thái độ của Tăng chúng, quy định những luật lệ giữ gìn sự thanh tịnh
của Tăng chúng. Ví dụ, quy định thời gian tiếp khách là bao nhiêu, không để họ tiếp
khách cả ngày, mất thời gian tu học và chấp tác, đồng thời cũng giúp cho họ tránh bớt
duyên bên ngoài. Sự đi lại của Tăng chúng cũng được kiểm sốt rõ ràng, khơng thể tự
do muốn đi đâu thì đi, vì vừa tốn tiền xe, vừa ơ nhiễm thế tục, vừa mất thời giờ tu học.
Chúng Tăng không được đi đến am cốc Ni, nhà cư sĩ nữ một mình, phải đi hai người
vì duyên sự chánh đáng và đối với bên Ni cũng như vậy. Đó là một vài quy luật điển
hình của Thanh Quy.
Rõ ràng Thanh Quy là sự trói buộc sự phóngtúng của một người còn nhiều lăng
xăng phiền động, để giúp họ ở yên tu học. Người trụ trì tuy hết lịng thương Tăng
chúng, luôn luôn lo lắng cho sự tu học của Tăng chúng nhưng phải nghiêm khắc áp
dụng Thanh Quy để giữ gìn sự ổn định và thanh tịnh của chốn Thiền môn.
2.2.3. Thường xuyên đi tuần liêu để theo dõi sự tu học của chúng:
Tâm chúng sanh rất dễ nhiễm các pháp bất thiện, các pháp bất thiện thì như cỏ dại
mọc trên đồng nội, dễ sanh sơi nảy nở, cịn các thiện pháp thì phải có sự chăm sóc
khơng ngừng mới đâm hoa kết trái, ví như cây lúa cần có bàn tay chăm bón của con
11


người mới đơm bông kết hạt. Cũng vậy, tuy là người xuất gia nhưng mới tập tu nên
các pháp bất thiện cịn mọc đầy trong tâm thức, nếu khơng có người nhắc nhở, sách
tấn, hướng dẫn thì cũng dễ nhiễm pháp thế gian và chảnh mảng tu hành. Cho nên vị
trụ trì sau khi đã đặt ra chương trình tu học rồi nhưng cần phải thường xuyên theo dõi
sự tu học của chúng, có như vậy mới có thể giải quyết kịp thời sự thiếu thốn của
chúng, và phát hiện những chảnh mảng trong sự tu học của chúng. Đồng thời để dễ
giám sát việc tu học của chúng hơn, người trụ trì phải thường xuyên đi xem xét nơi
ngủ nghỉ của đồ chúng có đàng hồng khơng (thuật ngữ gọi là “tuần liêu”). Theo luật
Tăng Kỳ, ngày xưa đức Phật cũng thường đi tuần liêu vì năm việc sau đây:
Sợ đệ tử làm những việc hữu vi
Sợ đệ tử làm những việc quá thế tục.

Sợ đệ tử ham mê ngủ nghỉ,
Đến thăm viếng các đồ chúng bị bệnh
Khiến cho các đồ chúng mới vào đạo xem thấy oai nghi của Phật mà học theo.
Để thành công trong việc nhiếp chúng, người trụ trì phải gần gũi với chúng, phải làm
sao cho chúng kính mình như người cha, thương mình như mẹ và có thể giải bày tâm
sự như bạn bè. Có như vậy họ mới thố lộ hết tâm tư, khúc mắc trong vấn đề tu học để
nhờ vị trụ trì chỉ dẫn cho họ. Người trụ trì phải nắm rõ tâm tính của từng người để đưa
ra những phương cách dạy dỗ phù hợp.
2.2..4. Thế độ xuất gia và giáo huấn đệ tử:
Trách nhiệm lớn lao của vị trụ trì là “truyền trì mạng mạch Phật pháp”, nhưng nếu
khơng có người tiếp nối thì lấy ai để giữ gìn Phật pháp ? Thế nên việc xây dựng tầng
lớp Tăng sĩ tài đức để sau này có thể tiếp nối những bậc Tôn túc hoằng dương chánh
pháp là trách nhiệm quan trọng của người trụ trì.
Theo đường lối của Giáo hội hiện nay, người muốn xuất gia phải được Giáo Hội
chấp thuận, Mặt trận, Chính quyền xác nhận, và lý lịch của họ cũng được minh bạch.
Việc làm này để đảm bảo rằng khơng có những thành phần xấu trà trộn trong hàng
ngũ Tăng chúng. Vào những thời kỳ Phật giáo hưng thịnh trong lịch sử, số người xin
xuất gia rất đông, nhưng lúc nào cũng vậy, lượng nhiều thì phẩm ít. “Cái tệ kiêu Tăng,
xa hoa, hưởng thụ, phóng túng … là cái tệ chung của mọi tơn giáo khi tơn giáo đó
được đãi ngộ q mức”. Tơn giáo nào xuất hiện những hiện tượng này thì tơn giáo đó
đang xuống dốc. Ngày nay số lượng Tăng ni cịn đơng hơn trước, tất nhiên khơng
tránh khỏi những điều phức tạp đã và đang xảy ra. Cho nên người trụ trì khi nhận
người xuất gia phải chọn lựa kỹ càng, phải biết gốc tích và nguyên nhân xuất gia của
họ, phải được cha mẹ gởi gắm và bảo lãnh trước khi họ vào chùa (ngoại trừ những
người có hồn cảnh đặc biệt nhưng tha thiết xuất gia với ý chí dũng mãnh). Khi đã
tiếp nhận họ, vị trụ trì phải dạy dỗ nghiêm minh về mọi mặt, đừng ham đệ tử đơng mà
sau này chính họ phá hoại Tam bảo mà mình là người chịu một phần trách nhiệm.
Nhận người vào hàng ngũ xuất gia, người trụ trì phải chọn lựa cẩn thận, sáu căn: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý phải đầy đủ (như lùn, lé không được xuất gia, nếu xuất gia
không được thọ đại giới). Khi mới nhận vào cho tập tu, khoan cạo tóc vội, để thử

thách có phải là hảo tâm xuất gia khơng. Trong thời gian tập tu này vị trụ trì bắt buộc
họ phải học thuộc và hành trì hai quyển luật Tỳ Ni Nhật Dụng, Oai nghi của Sa Di (Sa
Di Ni) và Công Phu Khuya. Học xong hai quyển luật và thời Công Phu Khuya, tiếp
tục thực tập tụng niệm và học thuộc thời công phu chiều (A Di Đà, Hồng Danh, Mơng
Sơn). Sau khi nhận thấy người đó có đạo hạnh và chí nguyện xuất gia chơn chánh, vị
12


trụ trụ thế phát xuất gia, thâu nhận làm đệ tử. Sau khi thế phát cho họ rồi, người trụ trì
với trọng trách của một người Thầy, cũng là người cha, người mẹ, phải thương yêu và
dạy dỗ, tạo mọi điều kiện cho đệ tử tu học, trở thành một người tài đức mà sau này có
thể gánh vác Phật pháp.
2.2.5. Tác pháp yết ma:
“Yết ma” là thỉnh ý chúng để lấy quyết định, đây là tính cách dân chủ trong đạo Phật.
Có những việc quan trọng mà vị trụ trì khơng thể đơn phương giải quyết, cần phải
thỉnh ý chúng. Ví dụ : việc thay đổi Chức sự, nhận thêm chúng, tẩn xuất chúng, truyền
giới, thế phát, an cư… pháp “Yết ma” lâu ngày trở thành hình thức hợp thức hóa một
quyết định đã được thơng qua trước. Ví dụ sau khi đã thông qua quyết định truyền
giới, chúng họp lại đầy đủ, y áo chỉnh tề, tác pháp yết ma để hợp thức hóa:
“Tác bạch như trên có thành khơng”
“Mơ Phật, thành”.
Việc như vậy chỉ là hình thức truyền thống, nhưng cũng cần phải duy trì. Tuy nhiên
tinh thần thực sự của pháp “Yết ma” là thỉnh ý chúng một cách dân chủ. Chúng có
trách nhiệm đối với những sự kiện quan trọng của Tự Viện và họ cần được biểu quyết
ý kiến một cách bình đẳng.
2.2.6. Kinh tế Tự Viện:
Kinh tế của Tự Viện phải được tổ chức thế nào để ít đầu tư thời gian nhưng đạt
hiệu quả cao. Có những Tự Viện có nhiều đất, ruộng, rẫy, nếu không khéo chúng ta sẽ
bắt Tăng chúng căng hàng phơi nắng cuốc đất ngày này qua ngày khác. Điều này lỗi
thời với thời đại khoa học ngày nay và nói lên sự sắp xếp vụng về của người lãnh đạo.

Có những Tự Viện tổ chức làm nhang, làm đồ chay đem ra chợ bán, có những Tự
Viện tổ chức làm tương chao … nhưng như vậy chỉ là chế biến sản phẩm vì chưa phải
sản xuất sản phẩm. Có những Tự Viện tổ chức làm nấm mèo, nấm rơm, nấm bào
ngư… cơng việc này nhẹ nhàng ít tốn thời gian chăm sóc và phù hợp với người tu
hơn. Chung quy lại, là người làm trụ trì khơng nên quá chú trọng vào công việc kinh
doanh buôn bán nhiều như người đời mà làm mất thời gian tu học của Tăng chúng, và
làm mất đi phần nào giá trị của người xuất gia. Chúng Tăng không cần phải làm quá
nhiều như người đời, họ chỉ cần làm vừa đủ để sống một cuộc sống tu hành đạm bạc.
Thế nên người trụ trì phải khéo léo tổ chức làm kinh tế sao cho ít tốn thời gian mà đạt
hiệu quả.
2.2.7. Hướng dẫn quần chúng và Phật tử tu học:
Hướng dẫn những người chưa hiểu đạo vào đạo là vấn đề quan trọng trong vấn
đề hoằng dương chánh pháp của vị trụ trì. Về khía cạnh này, chúng ta phải nhìn nhận
rằng đây là điểm yếu kém của các ngơi chùa về cách truyền đạo không bằng các tôn
giáo khác. Điển hình là Thiên chúa giáo, họ có những cách giữ tín đồ cũng như lơi kéo
tín đồ. Họ có thể dùng vật chất, hay làm công tác từ thiện, hoặc dạy học, đơi lúc cịn
hù dọa, cưỡng chế … để lơi kéo tín đồ. Đạo Phật chúng ta thì có xu hướng khơng
tranh, đề cao tinh thần tự giác, đây là lý do mà nhiều tín đồ đạo Phật dễ dàng bỏ đạo
mình sang đạo khác, và vì đạo Phật chúng ta không đặt nặng vấn đề lôi kéo tín đồ như
các đạo khác nên tín đồ Phật giáo khơng đơng là lẽ tất nhiên. Nói thế, khơng phải
chúng ta cũng phải làm giống như họ mà Đạo Phật chúng ta phải có những cách riêng
phù hợp với tinh thần đạo Phật, chúng ta phải coi trọng vấn đề vấn đề đem ánh sáng
đạo Phật vào đời. Để thực hiện vấn đề này, người trụ trì phải làm gì ?

13


Đối với những người đi chùa nhưng chưa hiểu đạo Phật, họ đến chùa cầu xin một
điều gì đó, hay đi chùa vì thói quen, hay đi chùa vì muốn tìm một chút bình an, thanh
thốt khi tâm hồn đang chất chứa bao lo toan, bao phiền muộn trong cuộc sống. Đối

với những người đi chùa nhưng chưa hiểu đạo như thế thì người trụ trì phải có phương
pháp hướng dẫn họ vào đạo. Chúng ta thấy vào những ngày 30, 1, 14,15 là những
ngày mà quần chúng đi lễ Phật đơng nhất. Sau mỗi thời lạy sám hối, đích thân vị trụ
trì, hay vị trụ trì có thể cử một vị Tăng trong chùa thuyết một thời pháp ngắn cho
những người đi chùa nghe. Không những thuyết pháp thôi, mà sau đó cịn phát cho họ
băng đĩa, kinh sách để họ tự nghiên cứu thêm. Làm được như vậy, dần dần chúng ta
giúp họ hiểu được cái hay cái đẹp của đạo Phật, từ đó họ sẽ đến với chùa bằng cái
nhìn chơn chánh và tiến bộ hơn nhiều. Một khi họ đã hiểu và có cái nhìn chơn chánh
về đạo Phật rồi thì lúc này người trụ trì có thể dễ dàng khuyên họ quy y và thọ trì năm
giới. Bên cạnh đó, chúng ta khơng chỉ thuyết giảng Phật pháp vào những ngày đông
người đi lễ Phật thôi, mà bất cứ lúc nào tiếp xúc với những người chưa hiểu đạo,
người trụ trì, hoặc tri khách hay bất cứ vị Tăng nào trong nội tự khi nói chuyện với họ
cũng khéo léo thuyết giảng cho họ hiểu Phật pháp rồi khuyên họ quy y và thọ trì năm
giới. Chúng ta thiết nghĩ, nếu bất cứ vị trụ trì nào biết đặt nặng vấn đề này và đưa ra
những phương cách thích hợp nhất để hướng dẫn quần chúng vào đạo, quy y Tam bảo
thì có lẽ đạo Phật chúng ta ngày một phát triển hơn nhiều.
2.2.8. Truyền Tam quy – Ngũ giới:
Truyền Tam quy – Ngũ giới là một nhiệm vụ không thể thiếu của người làm trụ
trì, vì Tam quy – Ngũ giới là những quy định và tiêu chuẩn đạo đức tuyệt vời giúp
người Phật tử thực hiện lối sống lành mạnh, trong sạch, hạnh phúc theo lời Phật dạy.
Việc truyền Tam quy – Ngũ giới sẽ tạo cho người trụ trì có nhiều bổn đạo hơn, ngơi
chùa sẽ hưng thạnh hơn, vì sau khi quy y họ trở thành những người Phật tử chơn
chánh, họ sẽ đi chùa thường xuyên hơn, gắn bó với chùa nhiều hơn. Thiết lập đạo
tràng tu tập cho quần chúng Phật tử là một trong những mục tiêu của Giáo Hội nói
chung và của mỗi vị trụ trì nói riêng
2.2.9. Thiết lập mối quan hệ với xóm làng, với xã hội:
Thơng thường những gia đình sống gần chùa lại không biết đạo, nên dễ xảy ra sự
va chạm qua lại. Cho nên vị trụ trì và Tăng chúng phải khéo léo thiết lập mối quan hệ
tốt đẹp giữa chùa với cộng đồng dân cư xung quanh. Khi gia đình nào có người qua
đời, thì vị trụ trì cùng Tăng chúng đến phúng điếu, chia buồn, tụng thời kinh, hướng

dẫn gia đình cách lo đám như thế nào…Khi gia đình nào nghèo khó, chúng ta cũng
đến giúp đỡ vật chất cho họ… Nói chung lại là làm những cơng việc lợi ích cho làng
xóm, để cho mọi người cảm nhận được hình ảnh tràn đầy tình thương yêu của vị trụ trì
và Tăng chúng. Một khi mọi người đã có tình cảm gắn bó với chùa rồi thì chúng ta rất
dễ truyền đạo. Vị trụ trì phải làm sao để cộng đồng dân chúng sống quanh chùa đều đi
chùa, đều quy ngưỡng Tam bảo, trở thành những Phật tử thuần thành hết lòng phụng
sự Tam bảo. Làm được như thế mới có thể đem ánh đạo đến với xóm làng, tạo được
những tình cảm thân thương gắn bó giữa chùa với người dân.
Vị trụ trì khơng chỉ quan tâm đến việc tạo mối quan hệ gắn bó giữa chùa với làng
xóm thơi mà vị trụ trì cịn quan tâm hơn nữa đối với việc thiết lập mối liên hệ giữa
ngôi chùa với xã hội. Để thực hiện điều này, vị trụ trì phải tham gia các cơng tác từ
thiện làm lợi ích cho cộng đồng như xây dựng cầu đường, mở lớp học tình thương,
cứu trợ đồng bào bị thiên tai … Song song với những việc làm cơng ích cho xã hội
14


Chương 3
Người trụ trì với cơng tác hoằng pháp trong thời đại 4.0
3.1. Vai trị của thầy trụ trì trong thời hiện đại
Vị trụ trì được Giáo hội bổ nhiệm, thay mặt Giáo hội để tạo mối quan hệ hài hịa, tốt
đẹp với quần chúng và chính quyền địa phương. Như vậy, về phương diện pháp lý, đối
với Giáo hội và chính quyền, các vị trụ trì là cán bộ cơ sở đặt dưới sự điều hành của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các vị trụ trì nói riêng và chư Tăng nói chung, đều sinh
hoạt theo nội quy Tăng sự quy định. Chúng ta sống đúng vị trí và tuân thủ luật đạo,
luật đời, thì chắc chắn được an lành.Nếu đạo cao đức trọng, xứng đáng làm trụ trì một
ngơi chùa lớn, nhưng ta ở chùa nhỏ, thì người cũng thỉnh về chùa lớn, hoặc ngôi chùa
nhỏ mà ta chăm sóc cũng dần dần phát triển thành chùa lớn, vì chùa là xác và thầy trụ
trì là hồn. Tâm hồn lớn thì ngơi chùa bên ngồi cũng lớn theo. Trái lại, nếu tài hèn,
đức mọn, chúng ta trụ trì chùa Tổ, nhưng Tăng chúng khơng kính nể, Phật tử khơng
q mến, hỗ trợ, thì vơ số vấn đề khó khăn bao vây, ta không thể nào chịu đựng

nổi.Như đã nói, trụ trì nghĩa là trụ Pháp Vương gia, tức ở nhà của đấng Pháp Vương.
Như vậy, tất cả chùa được coi là cơ sở Phật giáo, là nhà của Phật, thì điều quan trọng
của trụ trì là phải làm cho người thấy được chùa là nhà của Phật và trong nhà của Phật
đương nhiên có những điều mà bên ngồi khơng có được, nên người phải tìm đến
chùa. Đó là bước đầu mà vị trụ trì phải ý thức được mình đang sở hữu kho báu của
Như Lai, cần phải giữ gìn và ban phát cho quần chúng. Nhà Như Lai khác với nhà thế
gian ra sao. Ở thế gian luôn luôn phân cực thiện ác, phải trái, vui buồn, làm việc và
không làm việc… Và khi người đời đã lao đầu vào làm thì bao nhiêu việc xảy ra khiến
cho thân thể và tâm lý của họ phải chuyển biến theo sự tác động của hoàn cảnh. Người
đời gặp việc vui buồn, tốt xấu, tâm họ sẽ quay cuồng theo đó.Vị trụ trì ở trong nhà
Như Lai thì khác hẳn, dù hoàn cảnh vinh nhục thế nào, tâm vị trụ trì cũng khơng thay
đổi, khơng lo sợ, buồn vui.Thật vậy, bước chân vào nhà Phật, chúng ta phải có ý niệm
đó trước, khơng để việc thế gian làm bận tâm, thậm chí kể cả mạng sống của mình, vì
chúng ta đang cầu mạng sống vơ cùng, Pháp thân bất tử, nên sẵn sàng đánh đổi mạng
sống ngắn ngủi, giả tạm này để có được mạng sống vĩnh hằng, thì cũng khơng tiếc
gì.Từ đó, chúng ta như như bất động trước mọi thuận nghịch của cuộc đời. Tâm hồn
của vị trụ trì là như vậy. Người đời ở nhà họ khổ sở, sợ sệt, lo lắng đủ thứ, nên họ đến
chùa để được an trú trong sự thanh thản. Trong thời chiến tranh, chúng ta thấy rõ điều
này. Người dân sống trong cảnh bom rơi, đạn lạc, cái chết rình rập từng phút giây, họ
vào trú thân trong chùa, trên có Như Lai, dưới có nhà sư an nhiên, tự tại, tác động cho
họ cảm nhận được sự bình ổn. Nếu vị trụ trì dao động, buồn phiền theo thế gian, là
phạm tội phá pháp, vì đã làm cho người lầm tưởng pháp của Phật cũng như thế gian.
Phải rèn luyện tâm bất động, nói cách khác, người tu bình tĩnh trong mọi tình huống.
Thầy tu dù ở cương vị nào cũng khơng chứng tỏ rằng ta có quyền uy sai khiến, hay
bực tức, buồn phiền, nhăn nhó… Thầy tu dễ thương nhất là chấp nhận được tất cả gì
người đổ lên cho ta. Phật dạy nhẫn nhục đệ nhất đạo là ý này. Ta khơng rầy la, khơng
nói, nhịn chịu tu hành sẽ được nhiều người quý trọng.Chúng ta la, người sợ, nhưng la
nhiều có hai điều hại cho ta. Một là la nhiều thành tướng hay la, người khơng sợ nữa,
hoặc tránh ta, vì ta hay la hoảng, là tự cơ lập mình. Hai là la quen thành nghiệp, thành
tánh, không bỏ được. Ban đầu, chúng ta la đúng, nhưng dần dần thành la bậy, la

hoảng. Tôi thấy một số thầy khơng lãnh đạo được nữa, vì phạm sai lầm này. Đức nhẫn
15


nhục và lòng từ ái là điều quan trọng đối với thầy trụ trì nói riêng và người tu nói
chung. Thầy trụ trì hết lịng phụng sự Tam bảo, mới nhận được ân đức của Tam bảo,
Phật mới hộ niệm, Bồ-tát mới gia trì cho thành tựu được những việc lớn lao ngoài khả
năng của con người. Ngoài ra, thầy trụ trì thương đại chúng như đứa con một và đáp
lại, chúng thương thầy hơn cả cha mẹ. Làm trụ trì tiếp Tăng độ chúng dưới dạng này
thì giữ được đạo. Xưa kia cũng vậy, các Tỳ-kheo thương Phật hơn thương gia đình, họ
mới từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo được.Người cịn nặng nợ tình gia đình, khó tu
lâu. Lúc đó, con đường tâm linh khơng được khai mở, nên họ thường quay trở lại theo
đường học vấn thế gian. Ông đạo ở chùa chỉ dựa chùa để học văn hóa, tơi nghĩ khơng
tồn tại lâu. Học văn hóa chỉ là phương tiện giúp chúng ta hiểu con người để hướng
dẫn họ vào đạo, không phải học thế gian để theo thế gian.Mở được cánh cửa tâm linh
để đi vào đạo, tuy không biết việc thế gian, nhưng chúng ta có thể chỉ đạo cho người
thế gian khơng sai lầm. Đó là nội minh, hay Phật học. Tơi tồn tại và đóng góp được
cho Giáo hội cũng nhờ nội minh.Theo tôi, học giáo lý dưới dạng tâm linh, từng câu
từng chữ thấm sâu vào tim óc là lẽ sống của chúng ta; không phải học dưới dạng văn
tự, kinh khơng dính líu gì đến cuộc sống chúng ta. Lúc nào chúng ta cũng suy nghĩ lời
Phật dạy và áp dụng trong cuộc sống, từ đó chúng ta mới bắt gặp được các vị Tổ sư,
Bồ-tát, Như Lai. Quan hệ chính của chúng ta là Phật, Bồ-tát, Thánh Hiền, có vậy mới
giúp ích cho đời, là nếp sống căn bản của thầy tu.Các thầy có nội lực vững vàng mới
vào đời, làm trụ trì quản lý cơ sở Phật giáo tốt lành và cảm hóa được người cùng tu
hành. Mọi việc tốt đẹp đều phát triển tùy theo nội minh của chúng ta. Nội minh khơng
có, thì chúng ta làm sao hơn được người đời ở những lãnh vực tính tốn hơn thua.
Theo Phật, chúng ta khơng thể lấy khôn dại thế gian để đối chọi, chỉ nên xử trí bằng
đạo lực thể hiện qua tầm nhìn chính xác, suy nghĩ đẹp, lời nói dễ thương, cuộc sống
lợi ích cho đời.Ngoài cuộc sống tinh thần, hay đạo lực, cuộc sống vật chất của thầy trụ
trì do thập phương tín thí hiến cúng. Khơng sống như vậy, nhưng chọn đời sống tích

lũy là đã thế tục hóa đạo Phật, gây ra sự đụng chạm với chúng Tăng là sai đạo.Phải coi
tất cả tài sản tạo được là của thường trụ Tam bảo. Chùa khơng phải của trụ trì. Khi
một vị Thượng tọa đến ở chùa nào đó, khơng phải do thầy này tạo ra, cũng không phải
của ông cha cho, nhưng là của Phật để lại từ quá khứ dẫn đến hiện tại và mãi trong
tương lai, đều là của Phật. Nếu là thường trụ Tăng thì được hưởng những quyền lợi
phát sinh từ chùa; ngày nào ra đi thì người khác quản lý. Đừng nghĩ tài sản của ta.Xây
chùa hay cúng dường Tam bảo để Phật pháp cửu trụ, lợi ích cho số đơng là mục tiêu
của đàn na tín thí cúng. Cúng cho Phật, nhưng thầy trụ trì nghĩ của mình là phạm tội
gian tham, trộm cắp của thường trụ, của Tam bảo, của Phật. Đó là phạm giới căn bản
trong bốn trọng tội, phải đọa địa ngục. Nợ một người còn trả được, nợ của thập
phương thường trụ khơng thể trả nổi. Thầy trụ trì có ý niệm sai như vậy và phạm tội
thì chỉ cịn hình thức người tu, thực chất tâm của người tu biến mất, là điều nguy hại
nhất.Vì thực chất khơng phải là Tăng, nhưng mang hình thức tu sĩ, Hộ pháp và chư
Phật khơng thể hộ niệm, thầy trụ trì sẽ gặp tai ương không lường được. Trước nhất,
Phật tử cúng dường vì Tam bảo. Thầy trụ trì muốn chiếm hữu làm của riêng, thì họ
phải bất bình và kiếm chuyện.Một số chùa ở thành phố Hồ Chí Minh ln bị thưa
kiện, vì những chùa này là của tổ tiên họ cúng cho Tam bảo, biến nhà thành chùa. Nay
con cháu thưa kiện địi lại.Việc này nếu khơng giải thích theo đạo, chúng ta khơng
hiểu được. Tại sao trước cúng, nay địi lại. Theo tơi, họ cúng vì thấy Tỳ-kheo chân
chính tu hành. Vị này chưa có chùa, tâm hồn hồn tồn trong sáng. Họ mới cảm đức,
16


phát tâm hiến cúng đất và tiền xây chùa, để cầu nguyện cho tổ tiên của họ. Phần lớn
các chùa đều ở dạng này và các nhà truyền giáo cũng truyền đạo ở dạng này, nhưng
thường thì chỉ trải qua ba đời, khó giữ được lâu. Thầy trụ trì là chỗ dựa tinh thần của
quần chúng. Họ đến nhờ giúp đỡ, có gì ta cho đó, hoặc với hiểu biết chính xác, ta cho
lời khun để họ có hướng đi tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Giáo dưỡng người trở
thành người Phật tử thuần thành, sống theo lời Phật dạy là quý thầy phần nào đền đáp
được công ơn của thầy Tổ, của đàn na tín thí và tiến gần đến quả vị Vơ thượng

giác.Tóm lại, giữ gìn và phát triển bốn tâm vô lượng, từ bi hỷ xả với mọi người là
hành trang quý báu giúp thầy trụ trì thành cơng lớn trong nhiều việc. Có thể nói, trang
bị bốn tâm này để cảm hóa người, thì vị trụ trì chỉ ngồi yên mà mọi việc tốt đẹp đều tự
thành tựu.Ngồi ra, vị trụ trì nói riêng và Tăng Ni, Phật tử nói chung có nghĩa vụ đóng
góp cho đất nước phát triển. Làm như vậy, chúng ta mới phát triển được sinh hoạt đạo
pháp.Thử nghĩ Tăng Ni, Phật tử chúng ta có theo kịp sự tiến hóa của xã hội hay
không. Phần lớn chúng ta đi theo lối mòn cũ, trong khi xã hội đi lên mà chúng ta lại đi
lùi. Phải làm sao đi cùng nhịp với xã hội, thậm chí đi trước xã hội một bước như Phật
giáo Nhật Bản hay Đài Loan, thì mới tồn tại và giữ được thế mạnh.Nhìn tấm gương
hành đạo của người, chúng ta tự suy nghĩ những cơng việc có thể làm được, chẳng hạn
như mỗi chùa có bao nhiêu Phật tử có khả năng lao động tay chân hay trí óc, chúng ta
nghĩ cách giải quyết việc làm cho họ; được như vậy, mới có sự gắn bó mật thiết giữa
chùa và tín đồ.
3.2. Trụ trì trong thời đại 4.0 thật khơng đơn giản
ản thân cũng đã từng có nhiều va chạm, từng trải nghiệm thành bại nên luôn nhìn
nhận, đánh giá mọi sự việc, mọi vấn đề trên nhiều khía cạnh, thấy rõ cái được cũng
như hệ luỵ của nó cho nên hay lo xa, cịn người chưa từng trải thì họ rất vơ tư. Bản
thân từng giải quyết dùm người khác chuyện này chuyện nọ, giúp họ tháo gỡ nhiều
vấn đề nan giải, éo le, tế nhị nhưng đơi khi chính bản thân mình có chuyện thì khơng
biết chia sẻ cùng ai. Khi nhìn các cụ đã trên 80 tuổi mỗi tối tụng kinh phải đi hàng
mấy cây số, mình tự nhủ phải quyết tâm xây dựng một ngơi Tam Bảo tạm để Phật tử
có nơi chiêm bái. Khi bắt tay xây dựng thì biết bao khó khăn, thiếu thốn, bao chướng
duyên phải vượt qua thì chẳng có ai chia sẻ. Từ đó bản thân tơi rất cảm thông cho
những thầy khác. Cũng đâu phải tự nhiên một ngơi chùa mọc lên, đó là bao mơ hơi
nước mắt, bao cay đắng nhọc nhằn của vị Trụ trì. Đến khi chùa khang trang tí, là bao
nhiêu cạm bẫy, bao nhiêu thị phi oan trái bắt đầu xảy ra. Có nhiều thầy sống dở, chết
dở nhưng vẫn mở nụ cười để động viên các Phật tử tu tập. Làm Trụ trì khơng sướng
đâu. Thức khuya dậy sớm, xây dựng chùa, đối nội đối ngoại sai một câu ngày mai
sống gió nổi lên. Mọi việc ở chùa một tay phải làm. Quán xuyến từ trong ra ngoài,
đám ma, cúng kiến ai mời cũng phải đi. Nếu hôm nào từ chối khơng đi, họ lại nói xỉa

sói “chắc gia đình tơi nghèo nên thầy không nhận lời”. Phật tử tới chùa chào, chưa kịp
chào lại cũng đã bao lời qua tiếng lại khơng đơn giản.Nói cho cùng nếu các thầy lỡ có
tham, lỡ có sai thì tất cả chỉ là mong n ổn ngơi chùa. Gom góp để có nơi các cụ đến
tu tập, có chỗ tổ chức khố tu... chứ một mình tất bật tối ngày ăn qua loa để sống.Khổ
nỗi trong xã hội chúng ta hiện nay đang tồn tại một loại hiệu ứng được gọi là “hiệu
ứng đám đông”. Khi nghe người ta bàn tán, khen chê về một sự việc, một người nào
đó thì họ cũng hùa vào bình phẩm, chửi bới thật khí thế, nhưng khi hỏi rõ ra thì họ trả
lời tỉnh bơ: chẳng biết gì, vì thấy người ta nói thì mình nói theo thơi. Họ có biết đâu
những lời chửi bới đó đã làm cho người bị ném đá khốn khổ, lao đao, uất ức đến chết
17


đi sống lại, có khi muốn tự tử, vậy mà họ chẳng hề áy náy, họ vô cảm như chẳng hề có
chuyện gì xảy ra cả. Xét cho cùng mọi thứ đau khổ mà con người hay mang đến cho
nhau cũng đều xuất phát từ lịng đố kỵ. Nói ra điều này không phải để trốn tránh trách
nhiệm càng không phải để thở than, kêu khổ mà chỉ là muốn nói lên tiếng nói của
nhiều người, và chỉ đơn giản là cần lắm sự đồng cảm, sẻ chia để cuộc đời này bớt
nhọc nhằn căng thẳng, bớt vô cảm hơn thơi.Vừa rồi có vài vụ xảy ra. Báo chí vừa đưa
lên mọi người thi nhau chửi bới, rồi mỗi người nói một kiểu, thêm thắt vấn đề. Đến
khi sự thật được phơi bày, khơng có chút ray rứt, chỉ cười trừ thế là xong. Họ đâu biết
rằng sự hời hợt đó đã cướp đi một cuộc cuộc đời một con người và cộng trụ biết bao
nhiêu người thân yêu bị ảnh hưởng theo.Có đơi khi q thầy chia sẻ tâm nguyện có
người hiểu thì chung tay hỗ trợ, có người khơng hiểu thì đánh giá theo suy nghĩ thiển
cận của mình.

KẾT LUẬN
Bằng phương thức truyền bá tư tưởng của Đức Phật qua kiến thức Phật học mà mình
đã thực nghiệm, không phải ngôn ngữ của văn tự mà bằng thực nghiệm tự thân. Đây
mới chính là đưa đạo Phật đi vào cuộc đời , nhằm chuyển hố cuộc đời .Có được như
vậy Đạo Phật mới thực sự có lợi ích, nếu khơng thể hiện được điều nầy thì giáo lý

Phật giáo có hay có đẹp cũng chỉ là cái xác khơ khơng hơn khơng kém vì đệ tử của
Ngài khơng làm được những gì Ngài dạy thì làm sao dạy cho ai!. Một câu chuyện ngụ
ngôn dân gian Việt Nam kể: "có một anh chàng bán kem đánh răng dạo, anh quảng
cáo huyên thuyên; nào kem giúp răng không sâu, giử được răng bền trắng đẹp , khi
mọi người đến mua anh nở nụ cười hàm răng anh bị sâu ăn hết nửa...".Tuy câu chuyện
có vẽ buồn cười của người quảng cáo nhưng cũng làm cho chúng ta cảm thấy thấm
thía khi người học Phật nói Pháp rất hay, thơng làu kinh,luận nhưng lại khổ đau, hận
thù .Đễ thực hiện nhiệm vụ trong công tác hoằng pháp Tổ Pháp Diễn đưa ra một số
nhận định mà người làm trụ trì cần phải co khi quản lý cơ sở:Phải có tinh thần thủ xả
Ln ln giử gìn những điều tốt góp phần xây dựng đạo đức của cộng đồng xã hội,
nắm giử giềng mối an nguy của cơ sở,khơng gì trở ngại mà nản lịng,khơng gì thành
tựu mà tự mãn. Phải có Nhân:Có đạo phong của người xuất gia học đạo, phải phát
triển giáo dục tín đồ hướng dẫn mọi người chánh tín, xây dựng tinh thần nếp sống
đạo.Phải có Minh: Giữ được giềng mối lễ nghĩa, đặt sự an nguy của đạo lên trên sự an
nguy của bản thân, biết quyết đoán, xử dụng cận sự (người giúp việc) để lo cho đạo,
phát triển tinh thần hoà hợp tạo được quyến thuộc càng ngày càng đông để làm công
tác Phật sự lớn hơn. Phải có Dũng: Phải là người nhiệt tình đầy quả cảm với cơng tác
Phật sự, khơng nệ khó khăn, trở ngại, có ý chí kiên định, lập trường dứt khốt. Bốn
yếu tố trên có đủ thì chùa chiền hưng thịnh Phật pháp nhờ thế mà được rộng mở mọi
nơi, thiếu một trong 4 yếu trên thời nguy, thiếu hết thời người làm trụ trì tất hỏng, cơ
sở Phật giáo khó mà phát triển.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thích Viên Trí, “Phật Giáo Qua Lăng Kính Xã Hội”, Nxb: Phương Đơng, 2013
2.Thích Minh Châu, “Đạo Đức Phật Giáo Và Hạnh Phúc Của Con Người”, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội, 2002

3.Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự (2006), “Chuẩn Mực Đạo Đức Con Người
Việt Nam Hiện Nay, Quân Đội Nhân Dân”, Hà Nội, tr. 9
4.Giác Dũng, “Phật GiáoViệt Nam-Dân Tộc Việt Nam”, Hn: Nxb Tơn Giáo, 2003
5.Thích Chơn Thiện, “Phật Học Khái Luận”, Nxb: Văn hóa Sài Gịn, 2006
6.Thích Trí Quảng, “Phật Giáo Nhập Thế Và Phát Triển”, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2008,
7.Minh Chi, “Các Vấn Đề Phật Học”, Nxb: Tphcm, Vncphvn, 1995.
8. TT.TS.Thích Giác Hồng,giáo trình mơn đạo đức học phật giáo,HVPGVN Tại
TP.HCM.

19



×