Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Nghiên cứu tư tưởng giải thoát theo luận câu xá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.97 KB, 6 trang )

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
VIỆT NAM TẠI TP. HCM

BÀI THU HOẠCH GIỮA KỲ HK 5
MÔN: LUẬN CÂU XÁ

Họ và tên: Lê Văn Can
Pháp danh: Trí Cường

Khoa: ĐTTX - K6

Điểm
Bằng số:
Bằng chữ:

Nhận xét của giáo thọ

SBD: TX 6031

LỜI CẢM ƠN
***
Để hoàn thành bài thu hoạch này con xin thành kính tri ân đãnh lễ Hội Đồng điều
hành học- Học viện phật giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ chí Minh và chư Giáo Thọ
sư đã hết lịng dạy dỗ, khích lệ, giúp đỡ cho con trong những tháng ngày theo học giáo
pháp tại Học viện. Đặc biệt con xin thành kính tri ân và đãnh lễ TT.TS. Thích Giác
Hiệp, người trực tiếp dạy dỗ, hướng dẫn cho con thực hiện đề tài này. Trong quá trình
thực hiện đề tài, do sở học cịn non cạn, chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu sót. Kính mong
được sự chỉ dạy thêm từ Giáo Thọ Sư cùng chư Tôn Đức và Chư thiện hữu.
TP.HCM, ngày 27/10/2021.
Cư sĩ: Trí Cường
Đề bài


Nghiên cứu tư tưởng giải thốt theo Luận Câu-xá.

Trả lời
Một bộ luận vĩ đại thì ắt hẳn phải có hệ thống tư tưởng vĩ đại làm nền tảng cho nó,
nói phải là một bộ luận vơ tiền khoáng hậu, lại làm chấn động trong giới học thuật,
bản thân nó có nguồn gốc và hệ thống tư tưởng.Vậy tư tưởng giải thốt theo Luận
Câu-Xá là gì? giải thốt này mang ý nghĩa như thế nào? Giải thoát cái gì, điều gì? Như
thế nào, làm thế nào thì được gọi là giải thoát?
Trước hết, khái niệm giải thoát cần được giải thích. Theo các từ điển Phật học, giải
thốt (Sanskrit: morsha, mukti) là cởi bỏ được sự trói buộc của phiền não mà vượt
thoát khỏi thế giới mê muội khổ đau; là ra khỏi sự trói buộc trong ba cõi dục, sắc, vô
1


sắc; là dứt tuyệt nguyên nhân sinh tử luân hồi nghiệp báo; là khơng bị những luyến ái
trói buộc cái tâm; là đạt được sự siêu thốt vượt sự trói buộc của thế giới trần tục, khỏi
sự chi phối của dục vọng, sống hồn tồn thanh thốt tự tại; là thoát khỏi ảo tưởng và
khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết-bàn [1]. Muốn giải thoát ra ngồi
bể khổ mênh mơng của cõi đời, Câu Xá tông chủ trương phải tu theo pháp “Tứ diệu
đế”. Tứ diệu đế tức là bốn lẽ chân thật đưa người tu hành từ cảnh mê đến cảnh ngộ, từ
cõi Ta bà đau khổ, đến cảnh giới Niết bàn tịch tịnh.Diệu đế thứ nhất chỉ rõ cho người
tu hành thấy cõi đời là đau khổ. Diệu đế thứ hai chỉ rõ cho người tu hành thấy được
nguyên nhân của sự đau khổ trong cõi Ta bà. Diệu đế thứ ba chỉ rõ cảnh giới an lạc
sau khi ra khỏi cõi đời đau khổ.Diệu đế thứ tư chỉ rõ con đường tu hành để đi đến
cảnh giới an lạc của Niết bàn.Bốn Diệu đế ấy tức là: khổ, tập, diệt, đạo vậy.Với những
căn cơ lanh lợi, thì có thể tu theo pháp Thập nhị nhân duyên. Thập nhị nhân duyên là
12 nhân duyên kế tiếp theo nhau, làm nhân, làm quả, khiến cho chúng sinh phải mãi
mãi xoay vần trong biển khổ sinh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh,
hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Mười hai nhân
duyên này như mười hai vịng xích nối liền với nhau làm thành một chuỗi xích, khơng

biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt đứt được một vịng xích thì chuỗi xích ấy tất phải
phải đứt đọan. Ðối với kẻ tu hành, muốn chấm dứt sinh tử luân hồi, thì cái mắt xích
cần phải bị cắt đứt là “ái”. Ái ở đây tức là luyến ái. Vì luyến ái nên mới có thủ cho
mình, rồi “thủ” sinh ra “hữu”. Và từ đó, cái vịng sinh tử lại tái diễn. Vậy khơng có
“ái”, thì khơng có “hữu”, khơng có “hữu” thì khơng có “sinh”, khơng có “sinh” thì
khơng có “lão tử”, nghĩa là khơng có khổ đau.. Câu-xá chia vạn hữu ra làm Vô vi pháp
và Hữu vi pháp. Vô vi pháp chỉ về cảnh giới thường trụ, không sanh diệt, tức là lý thể.
Hữu vi pháp chỉ về vạn hữu trong hiện tượng giới, sinh diệt vơ thường.Theo thuyết
của Hữu bộ thì pháp thể là hằng hữu trong ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Theo
thuyết của Câu-xá tơng thì chỉ có hiện tại là hữu thể, cịn q khứ, vị lai là vô thể.Pháp
thể gồm cả tâm và vật kết thành do sức của duyên và nghiệp, tức là nói pháp thể là kết
quả của mê hoặc. Sức của hoặc và nghiệp tuần hồn vơ thủy vơ chung, làm cho tâm
thân cứ biến chuyển luân hồi mãi. Nhân sinh là khổ não, là ô trược, là mê hoặc, cho
nên cần phải giải thốt. Phương thức giải thốt gồm có giới, định, tuệ. Giới là giới
luật, ngăn không cho làm những điều tà vạy, bất chánh. Định là thiền định, là định
tâm, để giữ tâm trí gom về một mối. Tuệ là trí tuệ, phân biệt thật tướng của sự vật,
hiểu rõ lý nhân quả, Tứ diệu đế. Dùng ba môn học ấy mà đi tới giải thoát, tức là vào
Niết-bàn. Phật.Niết-bàn, nirvāṇa, trong ngôn ngữ Ấn Độ bao gồm những ý nghĩa: lửa
tắt, hết, chết, hoàn toàn yên lặng, yên ổn, vắng lặng hoàn toàn, chết và đi qua chỗ
khác. Ngài Huyền Tráng dịch là viên tịch.Người Ấn Độ dùng từ này để chỉ cho ngọn
lửa bị tắt ngấm, hoặc bị gió thổi cho tắt; chẳng hạn, khi ngọn đèn bị tắt thì gọi là ‘đăng
diệm Niết-bàn.’ [Câu-xá luận, quyển 16]. Giác Ngộ là Gặp Biết được Thực Tính của
vạn hữu là Giải Thoát khỏi nhận thức sai lầm về Tự Tính Giả Lập hay Tùy Thuộc của
chúng .Giác Ngộ tức là Giải Thốt, chính là Tri Nhận Thực Tại một cách Toàn Diện
2


không thêm không bớt, là vượt khỏi Thời Không, là thể nhập Cõi Vơ cùng Hằng Hữu,
vì Hư Khơng ảo tưởng và Thời Gian huyễn hóa làm ngăn cách thế giới Hiện Tượng
với Cõi Vô Cùng.Sau khi nhận thức được rằng các đối tượng là những thực tại giả lập

hay tùy thuộc,bậc trí giả thể nhập vào chân tâm, cịn gọi là tri thức nguyên thủy, hay là
thực tại toàn diện. Lúc ấy người ta trực tiếp nhận thức rằng chân lý vốn vượt ngồi nhị
ngun tính,vượt khỏi thời khơng. Như đã trình bày, những sự vật trong thế giới hiện
tượng khơng những do dun khởi mà cịn được nhận thức bằng nhị nguyên tính và
được xem là giả lập huyễn hóa, phiền não hay là tạp nhiễm ngoại lai đã che mờ cái
tâm vốn thanh tịnh tự bản tính. Các thực tại tương đối được kiến lập theo nhị ngun
tính khơng thật theo quan điểm cứu cánh có thể tiêu trừ bằng tu tâm một cách chính
đáng.Sau khi những tạp nhiễm được tẩy sạch, bản tính thanh tịnh trong sáng của tâm
được phục hồi.Chân Tâm được thể hiện bắng Tánh Giác ( biết vơ thời gian) hay Trí
Vơ Phân Biệt, Vô Giới Hạn, Bất Biến trong Cõi Vô Cùng Hằng Hữu, Thanh Tịnh tự
Bản Tính tức là Thực Tại Toàn Diện Tuyệt Đối,Tri Thức Nguyên Thủy hay Chân Lý
Tối Hậu. Tâm Thức được kiến tạo bằng Nhị Nguyên Tính, Trí Phân Biệt, Giới Hạn
bởi các Căn là Tri Kiến của chúng sinh vốn mang nhiều hệ lụy Nhân Quả,Tạp Nhiễm.
Phiền Não Khổ Đau, Sanh Tử Luân Hồi mà Nguyên Ủy là Vơ Minh.Cõi vơ cùng của
thực tại tồn diện hay tri thức nguyên thủy nằm trong khoảnh khắc tĩnh giác vô thời
không (cái biết sat-na hiện tiền). Việc phân chia thiện và ác, khổ đau và hạnh phúc
(Nhị nguyên tính) chỉ là ảo tưởng, giả lập và huyễn hóa nhưng tri thức vụn vặt nầy
vẫn được ghi lại trong dòng tâm thức những chuỗi nghiệp duyên nhân quả mãi lăn trôi
theo thời không. Nắm bắt được thực tướng của vạn hữu là sự vượt khỏi thời không
làm cho tâm trở nên trong sáng thanh thản, tức là giải thoát khổ đau, nhân quả, luân
hồi.Các tôn giáo tại Ấn Độ đã sớm sử dụng từ ngữ này để chỉ cho cảnh giới lý tưởng
tối cao. Luận Đại Tỳ-bà-sa liệt kê dị giáo có tới năm loại ‘hiện pháp Niết-bàn’, tức họ
cho rằng sự hưởng thụ khoái lạc năm dục ở thế gian và đạt được bốn thiền định là
Niết-bàn. Bà-la-môn giáo lấy sự tu trì đạt đến cảnh giới Phạm - Ngã hợp nhất, hoặc
sau khi chết sanh lên Phạm thiên là chứng ‘Phạm Niết-bàn’.Từ đó, chúng ta biết rằng,
nguyên thủy từ ‘Niết-bàn’ không phải là danh từ riêng biệt của Phật giáo. Tuy nhiên,
khi danh từ ‘Niết-bàn’ xuất hiện trong kinh điển Phật giáo thì nó đã mang nội dung ý
nghĩa mới; và cho đến ngày nay thì từ ‘Niết-bàn’ đã trở thành một thuật ngữ đặc hữu
và trang nghiêm của Phật giáo.Trong kinh Đại bát-niết-bàn liệt kê Niết-bàn có 25
loại[ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0512c] luận Tứ đế nêu Niết-bàn có 66 tên gọi khác

nhau. Điều này cho thấy trạng thái an lạc, hạnh phúc có rất nhiều cấp độ khác nhau
trong lộ trình đoạn hoặc, tu chứng.Trong kinh luận Hán tạng, người ta phải dùng các
từ vô vi, chân đế, bỉ ngạn, vô hoại, vô động, vô ưu, vô cấu, bất sinh, giải thốt, vơ úy,
an ổn, vơ thượng, cát tường, vô hý luận, vô tránh… cho đến các từ chân như, thật
tướng, Như Lai tạng, pháp thân v.v… để chỉ trạng thái hoặc tính chất của Niết-bàn.Có
quan niệm cho rằng, chết là Niết-bàn, như khi nói ‘nhập Niết-bàn’, nghĩa là một vị
Thánh giả trở lên từ bỏ xác thân này. Đó là một quan niệm sai lầm! Nếu nói rằng chết
3


là Niết-bàn thì khi Đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội cây bồ-đề, ngay sau khi
thành đạo, chứng Niết-bàn Ngài đã chết rồi! Cho nên, dưới cây bồ-đề Đức Phật chứng
Niết-bàn và cái chết khơng liên quan gì nhau hết. Nên hiểu, như kinh Thắng Man đã
nói, “Người chứng đắc a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề tức là chứng đắc Niếtbàn.”[ ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0353, p.0220c.].Các nhà phiên dịch khi diễn tả cái chết
của một Thánh giả thì dịch là ‘bát-niết-bàn’ (parinirvāna). Chữ ‘bát’ (pari) có nghĩa là
‘hồn tồn khơng cịn sót lại’, vì vậy, bát-niết-bàn có nghĩa là thân và tâm cuối cùng
của một vị A-la-hán đã hoàn toàn diệt hết, tức vơ dư niết-bàn (Niết-bàn hồn tồn,
khơng cịn sót lại gì hết). Hiển nhiên, trạng thái Niết-bàn này so với Đức Phật khi ngồi
dưới cội cây bồ-đề hoặc một vị Thanh văn đang cịn sống chứng đắc ‘hiện pháp Niếtbàn’ có sự khác biệt.Niết-bàn có nghĩa là ‘diệt’. Chữ ‘diệt’ này có nghĩa là diệt hết mọi
phiền não, tai họa. Kinh Tạp A-hàm nói : “Tham dục đã được đoạn trừ vĩnh viễn, sân
khuể đã được đoạn trừ vĩnh viễn, ngu si đã được đoạn trừ vĩnh viễn, tất cả mọi phiền
não đã được đoạn trừ vĩnh viễn, đó là Niết-bàn.”12 Kinh Đại bát-niết-bàn cũng nói :
“Hết khổ đau nghĩa là Niết-bàn.”13 Đó là thuyết minh chữ ‘diệt’ có nghĩa là tiêu diệt
phiền não và khổ đau; phiền não và khổ đau tiêu diệt thì xuất hiện cảnh giới tịch tịnh,
an ổn, khoái lạc, gọi là Niết-bàn tịch tịnh.Nam truyền và Bắc truyền đều có kinh Niếtbàn, và cả hai truyền thống đều rất coi trọng bài kệ trong kinh Niết-bàn là ‘chư hành
vô thường, thị sinh diệt pháp, sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc’. Tịch diệt là đời sống
tràn đầy pháp hỷ, không chỉ Thanh văn mà ngay cả tinh thần của Bồ-tát cũng được
nuôi dưỡng đời sống bằng pháp hỷ tịch diệt.Câu-xá luận dùng hình ảnh ngọn lửa tắt
ngấm để dụ cho trạng thái Niết-bàn mà Đức Phật chứng được với tâm giải thoát cũng
như vậy. Luận nói: “Giống như ngọn lửa tắt ngấm (ngọn lửa Niết-bàn), sự giải thốt

tâm cũng như vậy. Có nghĩa là, giống như sự lụn tàn của ngọn lửa chỉ là sự đi qua của
ngọn lửa mà không phải sự đi qua của một thực thể nào khác, sự giải thoát của tâm
Thế Tôn cũng vậy, chỉ là sự diệt tận các uẩn chứ khơng có gì khác.”[ ĐTK/ĐCTT,
T29, n°.1558, p.35a].Kinh Niết-bàn của truyền thống Bắc truyền hình như đã phủ định
ý nghĩa trên của Câu-xá và cho rằng: “Nếu nói Như Lai nhập Niết-bàn giống như củi
hết lửa tắt thì nói như vậy là bất liễu nghĩa; cịn nói Như Lai nhập vào pháp tính thì là
liễu nghĩa.” Kinh này cịn nói: “Nếu dầu đã cạn hết thì ánh đèn cũng tắt theo, ánh đèn
đã tắt là dụ cho phiền não đã diệt hết, ánh đèn tuy đã tắt nhưng cây đèn thì vẫn cịn;
Như Lai cũng như vậy, phiền não tuy đã diệt hết nhưng pháp thân thì vẫn thường tại.”[
ĐTK/ĐCTT, T12, n°.0374, p.0402a].Kinh Niết-bàn của truyền thống Bắc truyền là
một tập hợp vô cùng phong phú về ý nghĩa của Niết-bàn, như cho rằng Niết-bàn có
đầy đủ ba đức tính là pháp thân, bát-nhã, giải thốt; hoặc có đầy đủ bốn đức tính
thường, lạc, ngã, tịnh; hoặc có đầy đủ tám công đức thường, hằng, an, thanh lương,
bất lão, bất tử, vơ cấu, khối lạc, giống như tám hương vị của đề hồ. Ý nghĩa của Niếtbàn như vậy cho thấy bản thể của Niết-bàn không hề rơi vào trạng thái hư vô, tịch
diệt, ngược lại, Niết-bàn lấy thật tướng hoặc pháp thân làm bản thể và có tác dụng làm
cho sinh mạng vô cùng tận. Trên phương diện lịch sử, chúng ta nhận thấy rằng, thời
4


kỳ Phật giáo bộ phái, Niết-bàn được phân thành hai loại, Hữu dư Niết-bàn và Vô dư
Niết-bàn. Hữu dư Niết-bàn nói rằng, tuy đã đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não để siêu
thốt sanh tử, nhưng vẫn cịn chịu quả báo của nghiệp quá khứ (tức chỉ cho nhục thể),
nên chưa thể nói là Niết-bàn hồn tồn. Ở một phương diện khác, Vô dư Niết-bàn là
đã đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não và cũng đã đoạn tuyệt nhục thể, khơng cịn dư y,
tức là Niết-bàn hồn tồn, như Phật nhập diệt. Bát-niết-bàn là chỉ cho Niết-bàn hoàn
toàn.Đến thời kỳ Phật giáo phát triển, Niết-bàn được nhận thức thêm là Tự tính thanh
tịnh Niết-bàn và Vơ trụ xứ Niết-bàn, thành ra có bốn loại Niết-bàn.Tâm tính tức là
Phật tính, xưa nay vốn thanh tịnh, có đủ các đức tính của Niết-bàn là thường, lạc, ngã,
tịnh. Phật tính này chính là Tự tính thanh tịnh Niết-bàn. Vơ trú xứ Niết-bàn là chỉ cho
‘nhờ vào đại trí mà khơng trụ ở trong sanh tử, nhờ đại bi mà không trụ nơi Niết-bàn’;

Vô trú xứ Niết-bàn cũng có nghĩa là Niết-bàn chân thật, không trú nơi sanh tử, không
trụ nơi Niết-bàn, không chấp trước, không trú trước. Trạng thái Niết-bàn của Đức Phật
nhất định cũng giống như vậy.
Tóm lại,vạn vật sinh ra, tất phải đợi đủ duyên mới khởi, cho nên gọi là “duyên khởi”.
Tất cả các pháp hữu vi, cho đến vũ trụ vạn hữu, đều không rời duyên khởi. Về ý nghĩa
của lí dun khởi này, kiến giải của các tơng phái khơng đồng nhất. Ở đây, tơng Câu
Xá nói đó là “nghiệp cảm duyên khởi”.“Nghiệp” có nghĩa là tạo tác. Đã có tạo tác thì
tự nhiên có nhân có quả, có cảm có ứng; cứ như thế trơi chảy trong khắp ba đời, vạn
pháp sinh sơi, như dịng nước mạnh đẩy khúc gỗ trơi nhanh, khơng có sức gì kềm hãm
được; trong đó, pháp này pháp nọ, cứ cái mới thay thế cái cũ, tùy lúc mà hiện bày bốn
tướng sinh, trụ, dị, diệt, hay bốn hữu sinh, bản, tử, trung;do vậy, ba cõi sáu đường
nhân đó mà kiến lập. Đó chính là cái vũ trụ quan về “chư hành vơ thường”. Người nào
hiểu rõ được cái lí lẽ “chư hành vô thường” này, tất sẽ sinh tâm nhàm chán sự lưu
chuyển trong ba cõi, sẽ tìm con đường giải thốt, hướng đến cảnh giới niết bàn tịch
tĩnh. Đó là giáo nghĩa của tơng Câu Xá này. Có người nói rằng, đương thời luận
Abhidharma-Kośa là một tác phẩm đại biểu cho thời đại chuyển tiếp, luận này có giá
trị rất cao trên phương diện lý luận, lại có quyền uy vơ hạn trên phương diện tư tưởng,
điều đó vơ cùng chính xác.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5


Chú thích
(1) Từ điển Phật học Đạo Uyển;Phật Quang Đại từ điển; Từ điển Phật học Thiện Phúc.
(2) Thích Thiện Siêu. Giải thoát trong Phật giáo.
< truy cập, 8-3-2017.
(3) Tâm Diệu. Quan niệm giải thốt trong Phật giáo và Bà-la-mơn giáo.
< truy cập ngày 6-3-2017.
(4) Thích Thanh Từ. Giải thốt là cốt lõi của đạo Phật.

< />truy cập ngày 6-3-2017.
(5) Đức Phật Thích Ca và các Thánh đệ tử A-la-hán đạt Niết-bàn, giải thốt sanh tử
(về tâm) nhưng vẫn cịn thân tứ đại nên thân ấy cũng phải theo quy luật sanh diệt. Khi
thân các vị Thánh hoại thì được gọi là Niết-bàn vơ dư.
Sách :
1. Hịa thượng Thích Thiện Siêu ,Đại cương về Luận Câu Xá., Học viện Phật giáo Việt
Nam tại Huế,,PL. 2543 - TL. 1999 đăng trong website Quảng Ðức.
2. Giảng Viên Thích Giác Hiệp ,Ðề Cương: Luận Câu Xá., trích trong website Phật
Giáo Việt Nam.
3.Tuệ Sỹ việt dịch, A Tì Đạt Ma Câu Xá – Tập 5,NXB Hồng Đức.

Hết

6



×