Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tổ chức tăng đoàn phật giáo có tác động như thế nào đến triết lý tôn giáo xã hội ấn độ thời đức phật và xã hội ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.19 KB, 6 trang )

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
VIỆT NAM TẠI TP. HCM

BÀI THU HOẠCH GIỮA KỲ HK 1
MÔN: KHÁI LUẬN PHẬT HỌC

Họ và tên:
Pháp danh:

Khoa: ĐTTX - K6
SBD: TX

Điểm
Bằng số:
Bằng chữ:

Nhận xét của giáo thọ

Đề bài
Tổ chức Tăng đồn Phật giáo có tác động như thế nào đến triết lý tôn giáo-xã hội Ấn
Độ thời đức Phật và xã hội ngày nay?
Trả lời
Đạo Phật được ra đời từ Ấn Độ, người khai sáng ra Phật giáo là Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Mục đích của Phật giáo nhằm đem lại hạnh phúc an lạc cho tất cả chúng sinh.
Với tôn chỉ đầy nhân văn đó, Phật giáo đã lan tỏa khắp thế giới và được Hội Đồng
Liên Hiệp Quốc ghi nhận như một tôn giáo của Hịa bình, văn hóa và nhân bản có giá
trị đưa lại bình ổn cho nhân loại trong đó, vai trị của Tăng đồn. Mục đích tối thượng
của đạo Phật là tự mình thốt khổ và thuyết giảng con đường thoát khổ cho đời . “Này
các tỳ kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ”. Lời dạy này được
ghi lại nhiều lần trong các kinh điển. Do vậy, mọi việc làm của đức Phật, kể cả việc
thành lập Tăng đồn, cũng khơng ngồi mục đích ấy.Tăng đồn được thành lập nhằm


tập hợp những người có ước muốn sống đời phạm hạnh theo lời Phật dạy để thực hiện
hai mục tiêu: Thứ nhất, hổ trợ nhau để tất cả các thành viên đều chứng đắc đạo quả
thanh tịnh và thứ hai, mở rộng chánh pháp, thuyết giảng con đường thoát khổ khiến
mọi người ra khỏi khổ đau. Để yên tâm thực hiện hai mục tiêu vừa có tính cách cá
nhân vừa mang tính xã hội ấy, Tăng đồn chính là mơi trường lý tưởng nhất có thể
giúp cho các tỳ kheo thực hiện lý tưởng đó.
Sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề, Đức Phật có ý định nhập Niết-bàn vì giáo lý
của ngài chứng được thậm thâm vi diệu mà căn cơ của chúng sanh cịn thấp kém, khó
có thể giác ngộ nhanh chóng như ngài được. Lúc bấy giờ Brahma đã thỉnh cầu Đức
1


Phật trụ thế để thuyết pháp độ sanh. Vì lịng tưởng đến chúng sanh cịn chìm đắm
trong bể khổ nên ngài đã ở lại thế gian để thuyết pháp. Ngài liền nghĩ ngay đến hai vị
thầy của mình là ơng Àvàla Kàlàma và ông Uddka Ramaputta nhưng Brahma đã báo
với Đức Phật là cả hai ông đã qua đời cách nay không lâu. Ngài liền nghĩ ngay đến
năm người bạn của mình lúc cịn tu khổ hạnh là nhóm ơng Annata Kondanna (Kiều
Trần Như), Bhaddiya (Bạt-đề-ly), Vappa (Thập-lực-ca-diếp), Assaji (A-thấp-bà-trí) và
Mahanama (Ma-nam-câu-lợi), họ có thể khai ngộ được giáo pháp của ngài nên ngài đã
đến Lộc Uyển là nơi họ tu hành để thuyết pháp; nội dung của bài thuyết pháp là Tứ
Thánh đế.“Trong khoảnh khắc này, mười nghìn thế giới chuyển động, rung động,
chuyển động mạnh. Và một hào quang vô lượng , quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt
q uy lực chư Thiên” Hồ thượng Thích Minh Châu dịch, Tương Ưng Bộ kinh V,
chương 12, phẩm II, kinh Chuyển Pháp Luân, tr. 611.. Sau khi nghe Đức Phật thuyết
pháp Tứ Thánh đế, thành kiến mê lầm tan vỡ, trí tuệ siêu thốt xuất hiện, năm vị này
được ngộ đạo, chứng nhập quả vị A-la-hán. Đó là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật
Thích Ca. Như vậy, Tam bảo được hình thành từ đây: Phật bảo là Đức Phật Thích Ca,
Pháp bảo là bài pháp Tứ đế và tăng bảo là nhóm Kiều Trần Như. Từ vườn Nai, Đức
Phật đi đến Benares (Ba-la-nại), nơi đây Ngài đã giáo hóa cho một người thanh niên là
Yasa (Da-xá), nam tử của một thương nhân hào phú, chủ tịch một nghiệp đồn ở

Benares, chủ thương nhân bn bán tơ lụa. Yasa là một thanh niên được nng chìu
mọi mặt quá thỏa mãn với cuộc sống truy hoan nên tâm chàng trở nên trống rỗng .
Trần Phương Lan dịch, Đức Phật lịch sử, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, (2000), tr.
174.. Chàng chán ngán đời sống gia đình đầy xa hoa, nhìn thấy vẻ chán chường cuộc
sống thế tục ở thanh niên này, Đức Phật bèn thuyết cho chàng một bài pháp “thuận
thứ” Sđd, tr. 175, là các vấn đề dể hiểu như bố thí, trì giới, cõi Thiên và sự bất lợi của
dục lạc. Chàng đắc “Pháp nhãn vô trần ly cấu” tức là thấy “bất cứ vật gì chịu quy luật
sanh khởi đều phải chịu quy luật hoại diệt”. Chẳng bao lâu khi trở thành đệ tử xuất gia
Yasa đã chứng quả A-la-hán.Bốn người bạn nữa của Tôn giả Yasa cũng trong hàng
trưởng giả là Vimàla (Tỳ-ma-la), Subahu (Tu-bà-hầu), Purnajit (Phú-lan-ca-na) và
Gavampati (Già-bà-bạt-đề) cũng xin đến quy y, nghe pháp của Phật đều chứng quả Ala-hán. Bấy giờ, giáo đồn ngồi Đức Phật cịn có mười vị A-la-hán. Cũng tại Benares,
Đức Phật đã đọ thêm vài chục vị nữa, những vị này ở các nước lân cận, đều là bạn bè
thân thích của Tơn giả Yasa, hoặc các vị A-la-hán mới đắc quả. Khi giáo đồn có được
sáu mươi vị A-la-hán, Ngài đã dạy các vị đệ tử hãy đi giáo hóa mỗi người một nơi,
chớ đi hai người chung một đường với nhau, vì lịng thương tưởng cho đời, vì lợi ích
cho chư thiên và lồi người mà đem chánh pháp rao giảng khắp nơi. Như vậy, là khi
đệ tử của ngài có sáu mươi vị A-la-hán đi giáo hóa chúng sanh đã hình thành nên Tăng
đồn.Với sứ mênh hoằng pháp mà chủ trương là thành lập Tăng đoàn đã được thực
hiện, hẳn nhiên các đệ tử tại gia của Phật cũng rất quan trọng. Phải kể đến là hai
thương gia mà Phật đã gặp tại Uruvela là đệ tử đầu tiên nhưng người xin quy y và thọ
giới tu tại gia chính là cha mẹ của Yasa. Những cư sĩ tại gia là một lực lượng không
2


thể thiếu. Trong sự tiếp độ của Phật cũng phương tiện cho trẻ em được gia nhập Tăng
đồn. Đó là trường hợp của Rahula (La-hầu-la) làm cho vua Tịnh Phạn vơ cùng ngạc
nhiên vì Ruhula q nhỏ tuổi so với các vị đệ tử trong Tăng đoàn. Trên tinh thần để
tránh những phiền phức về sau nên Phật đã đưa ra một số quy định không cho phép
một số trường hợp gia nhập Tăng đoàn (áp dụng cho cả Tăng và Ni). Khi Đức Phật
thành đạo, đi giáo hóa chúng sanh trong hình ảnh một vị Sa-mơn, người ta gọi Ngài là

Đại Sa-môn (Maha Samana) và gọi các đệ tử của Ngài là các Sa-mơn Thích tử
(Sakyaputtaya Samana). Cịn các đệ tử tu sĩ của Đức Phật thì tự gọi là Bhikkhu (Tỳkheo), là Khất sĩ, với đời sống không nhà, khơng gia đình. Chúng ta đều biết rằng lúc
bấy giờ xã hội Ấn Độ được thiết lập theo cấu trúc kim tự tháp, gồm 5 tầng chồng chất
lên nhau nhưng nương dựa hữu cơ vào nhau. Đó là một tập hợp những thành phần
phức tạp về bản chất và đa dạng về khả năng tiếp nhận giáo pháp của Ngài:Trên hết là
giai cấp tăng lữ mà chủ yếu là giáo sĩ Bà la môn (Brahmin) giữ độc quyền thống trị tư
tưởng và tế tự, với một trình độ học thuật cao, dễ thẩm thấu các phạm trù trừu tượng
(như Vô ngã, Vô thường, lý Nhân duyên), nhưng lại cao ngạo trong vai trò lãnh đạo
tinh thần quốc gia, nhiều sở tri chướng và muốn duy trì đặc quyền đặc lợi của hệ
thống giai cấp hiện hành.Tiếp theo là giai cấp hoàng tộc và tướng lãnh (Sát đế ly,
Khattiyas). Họ là thành phần lãnh đạo chính trị, quốc phịng và kinh tế của xã hội,
nắm vững quyền sở hữu các nguồn lợi vật chất quốc gia, đề cao giá trị vật dục và triển
khai khuynh hướng hưởng thụ trong đời sống thế tục (thân phụ Đức Phật, vua Tịnh
Phạn, là một mẫu hình tiêu biểu).Rồi đến giai cấp kinh doanh và ngân hàng (Phệ xá,
Vessas), chủ nhân các phương tiện tích tụ và phân phối các sinh hoạt trồng trọt ngũ
cốc, nơng nghiệp, vải vóc và thương mãi, tạo vốn tư bản để trao đổi nơ lệ và hàng hóa.
Họ vừa là cái miệng háu ăn rất lớn vừa là cái bụng phì nộn rất to của xã hội, nhưng
trái tim thì khơ héo và bộ óc thì cằn cỗi. Sau đó là giai cấp nơ lệ (Thủ đà la, Suddas),
tin chắc rằng mình sinh ra từ gót chân của Phạm Thiên, nên thủ phận làm tơi địi cho
các giai cấp trên. Là bắp thịt, là nguồn năng lượng cơ bắp của xã hội, họ thiếu học,
nghèo khổ và an phận nhưng đơn hậu, hiền lành và nhiều tình cảm, họ là mảnh đất
màu mỡ cho các hình thức mê tín thần quyền phát triển.Và cuối cùng là một tập hợp
đông đảo nhất của một lớp người bần tiện không được có giai cấp sống bần cùng
ngồi lề xã hội, bị các giai cấp ở trên xem như thú vật, không ai muốn liên hệ với 5
loại "đối tượng" như thế, và với một nội dung giáo pháp độc đáo, tân kỳ, phức tạp,
cách mạng triệt để, vừa trừu tượng vừa thực tiễn, vừa thần bí vừa khoa học… nhưng
tất cả lại đan bện với nhau thành một tổng thể chặt chẽ và nhất quán như các cặp phạm
trù Tứ diệu đế/Bát Chánh đạo, Luân hồi/Tái sanh, Duyên sinh/Vô ngã, Niết bàn/Vô
thường… làm sao Đức Phật tiếp cận, giảng dạy, thậm chí cịn phải tranh luận để
thuyết phục những đối tượng có tư duy tri thức và tập quán tâm lý hồn tồn khác

nhau này?Có lẽ, với thực tế xã hội lúc bấy giờ tại Ấn Độ, bình đẳng trong một xã hội
bất bình đẳng là mệnh lệnh của thời đại, và gia nhập Tăng đoàn để thủ tiêu mọi cách
biệt giai cấp là tiếng gọi quyến rũ nhất, là một trong những động cơ (cá nhân) nóng
3


bỏng nhất. Giáo pháp của Đức Phật, vốn định vị con người không phải trên giai cấp
nhưng trên luật Nhân quả và Nghiệp báo do mình quyết định và tự mình tạo ra, đã san
bằng mọi hố sâu thần quyền và chính trị, mọi cách biệt kinh tế và xã hội, mở cơ hội
cho mọi người đều bằng nhau: Những vị Phật sẽ thành! Như các con sông mất hết tên
gọi riêng biệt khi cùng đổ ra biển lớn (Trung A Hàm, 8.19). Lịch sử hình thành và phát
triển của Tăng đoàn, từ gốc đầu tiên ở Ấn Độ cách đây hơn 2.600 năm, hay của Việt
Nam cách đây khoảng hai thế kỷ, chắc còn để lại nhiều bài học q giá có thể áp dụng
vào cơng cuộc hoằng dương Chánh pháp. Trong lúc say mê với tốc độ phát triển của
thời đại hôm nay, nhiều lúc chúng ta bị lơi cuốn vào những cuộc phiêu lưu khơng
tưởng, thậm chí cịn tác hại vào ngơi nhà Phật giáo Việt Nam. Ngược lại, cũng nhiều
lúc chúng ta tự mãn với thành quả nặng tính hình thức, rồi ngủ n trên thành quả đó
mà khơng nỗ lực nhịp bước song hành với thời đại.Cả hai thái độ đều nhiều cạm bẫy
bất trắc. Tối ưu vẫn là vận dụng bài học quá khứ và đãi lọc thành tựu của thời đại để
phối hợp tìm cho mình một hướng đi đúng chánh đạo, một cung cách hoằng truyền
đúng Chánh pháp. Như lời dặn trầm thống và ước mơ thiết tha của một vị Thầy của
chúng ta, Hịa thượng Thích Thiện Hoa (trong Lịch sử Phật giáo Ấn Độ) cách đây
chưa lâu: Khao khát cái tuyệt đối, khinh thường cái tương đối; mong cầu cái vĩnh viễn
trường tồn, ruồng bỏ cái biến chuyển vô thường, người Việt Nam nói riêng và người Á
châu nói chung đã được huân tập mấy ngàn năm trong một thái độ tư tưởng như trên,
nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biến chuyển vô thường của sự
thế, mà mục đích là mong ghi chép một cách trung thành những gì đã mất hút trong
bóng tối của thời gian. Với ý nghĩa và mục đích chân chính như thế, Tăng đồn Phật
giáo nhanh chóng thốt khỏi cái nhìn hệ lụy của xã hội và khốc lên cho mình một
tinh thần sinh hoạt mới mẻ đầy nhân bản .

Tóm lại,Tăng đồn Phật giáo là một cộng đồng vượt ra ngồi quyền lực và kiểm sốt
của xã hội. Đây là một tổ chức bao gồm những thành viên dứt bỏ mọi sự ràng buộc
của gia đình, xã hội để sống một cuộc sống tu hành. Các hình thức tổ chức tôn giáo
như thế ở Ấn Độ không cịn bị luật pháp và hệ thống chính trị của xã hội kềm chế và
quản lý như các tổ chức xã hội thơng thường khác Chính vì thế, Đức Thế Tôn đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng nếp sống Tăng đồn. Có thể nói sự hình thành Tăng đồn
thời bây giờ đã để lai một tiếng vang cho xã hội Ấn Độ. Với lòng từ bi thương tưởng
đến chúng sanh Đức Phật đã không vội vàng nhập Niết-bàn ở lại thế gian hoằng
dương chánh pháp. Đức Thế Tôn đã tiếp đô nhiều hạng người từ nhiều giai cấp trong
xã hội như giai cấp Sát-đế-lợi, giai cấp Bà-la-môn, cho đến những người cùng đinh
trong xã hội. Khơng ít người thuộc giai cấp thấp kém, hèn hạ, sau khi quy y Phật pháp
không chỉ trở thành những nhân cách tiêu biểu được tơn trọng và kính ngưỡng. Những
nhân vật đặc biệt như Angulimala, trước kia đã là tên giết người khét tiếng nhưng sau
khi trở thành Tỳ-kheo cũng được vua Ba-tư-nặc tơn kính cúng dường. Như Sunita là
người qt dọn vệ sinh, Svàti là người thợ chài lưới, Nanda là kẻ chăn bị, Upàli là thợ
hớt tóc, Ambapàlì là kỷ nữ, Vimalà là cô gái điếm, Pùrna là con của người đàn bà nô
4


lệ, Chàpa là con người thợ săn, đó là những tấm gương tiêu biểu để nói lên tinh thần
bình đẳng giai cấp trong xã hội của đạo Phật. Một ảnh hưởng lớn của Tăng đoàn Phật
giáo là cuộc cách mạng về giới tính, trong thời điểm đó khơng biết bao nhiêu quốc gia
trên thế giới đã có vơ vàn bất cơng, áp bức, kì thị về giới tính mà nhất là tư tưởng
“trọng nam kinh nữ”. Vậy mà Đức Phật đã chấp nhận cho người nữ xuất gia dù biết
rằng với thể trạng và tính cách của người nữ rất khó khăn khi phải thực hành đời sống
Phạm hạnh. Ngài đã đưa ra Bát Kỉnh Pháp để cho người nữ, vì trong hồn cảnh ấy
người nữ đầu tiên xin xuất gia chính là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề, bà chính là hồng hậu
của vua Tịnh-phạn và là Di mẫu của Phật. Đức Phật khơng phải vì trọng nam kinh nữ
mà đưa ra Bát Kỉnh Pháp mà Ngài đã phương tiện để tránh những rắc rối trong việc
truyền bá chánh pháp sau này. Vả lại khi người nữ xuất gia, tu tập thì cũng có thể

chứng quả như người nam. Nếu khơng nhận nữ giới vào Tăng đồn thì sẽ bỏ qua
những vị nữ giới rất giỏi và có khả năng chứng quả A-la-hán. Xây dựng nếp sống
Tăng đồn chính là bồi dưỡng phẩm chất cho từng tỳ kheo. Vì phẩm chất của mỗi tỳ
kheo quyết định sự hưng suy của Tăng đoàn, quyết định sự tồn tại của Phật pháp. Cho
nên, những lời giáo huấn về hành vi thái độ của từng tỳ kheo luôn được Thế Tôn nhắc
nhở. Những lời ấy xuyên suốt Luật tạng và Kinh tạng Pàli. Ngay những ngày tháng
cuối cùng, Đức Thế Tôn cũng không ngừng quan tâm, huấn luyện chư Tỳ kheo và Tỳ
kheo Ni nỗ lực đoạn trừ tham ái. Đồng thời, Ngài đúc kết lại những điều cốt lõi nhất
trong giáo pháp và tha thiết dặn dò các đệ tử phải ghi nhớ thực hành nhằm xây dựng
và củng cố nếp sống thanh tịnh của Tăng đồn, chư vị tỳ kheo phải hành trì để làm
cho Tăng đoàn trở nên hưng thịnh. Một xã hội đầy dãy sự bất công, chúng sanh vô
minh và nghiệp chướng mê mờ, nên việc hoằng hóa bao gồm cả việc tạo dựng một xã
hội tốt đẹp, những con người đạo đức, với nếp sống lành mạnh, hướng đến chủ trương
xây dựng một xã hội lý tưởng theo tinh thần hịa bình, an vui, bất bạo động, khơng hận
thù, đó là sống theo tinh thần tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả đúng theo lời Phật dạy.
Lối sống ấy không chỉ áp dụng cho người dân trong xã hội thời Đức Phật mà cho đến
tận bây giờ nó vẫn là khuôn vàng thước ngọc lý tưởng cho nhân loại cho mỗi thời kỳ
xã hội, nhất là thời đại hôm nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
5


1. Thích Trí Tịnh dịch, Tăng già thời Đức Phật, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
2. Hịa thượng Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, NXB Tôn Giáo, 2002
3 . Hịa thượng Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1999.
4. Thích Viên Giác, Phật học cơ bản, NXB Tôn Giáo 2003.
5. Trần Phương Lan dịch, Đức Phật lich sử, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.
6. Thích Phước Chí, Tài liệu chuyên đề Thành lập Tăng đoàn.


Hết

6



×