GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
MƠN TRIẾT HỌC TƠN GIÁO
Đề tài:
QUAN NIỆM VÀ ĂN CHAY THEO CÁC TÔN GIÁO
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Giác Duyên
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Nga
Pháp danh: TN.Chánh Y
Mã sinh viên: TX 6258
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chun ngành: Triết Học Phật Giáo
TP. Hồ Chí Minh, năm 2022
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
MƠN TRIẾT HỌC TÔN GIÁO
Đề tài:
QUAN NIỆM VÀ ĂN CHAY THEO CÁC TƠN GIÁO
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Giác Dun
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Nga
Pháp danh: TN.Chánh Y
Mã sinh viên: TX 6258
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo
TP. Hồ Chí Minh, năm 2022
MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU. ....................................................................................................................................1
B.NỘI DUNG...................................................................................................................................2
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1.1.Khái niệm, nguồn gốc, bản chất và vai trị của tơn giáo. .....................................2
1.1.1.Các quan điểm về tơn giáo.................................................................................3
1.1.2.Nguồn gốc và bản chất của tơn giáo. .................................................................4
1.1.3.Vai trị của tơn giáo............................................................................................5
CHƯƠNG 2:QUAN NIỆM ĂN CHAY CỦA MỘT SỐ TƠN GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
2.1.Quan niệm ăn chay của Kito giáo........................................................................5
2.2.Quan niệm ăn chay của Hồi giáo.........................................................................5
2.3.Ăn chay theo Ấn Độ giáo....................................................................................5
2.4.Ăn chay theo Đạo giáo.........................................................................................6
2.5.Ăn chay theo Khổng giáo (Nho giáo) ..................................................................6
2.6 .Ăn chay theo Thần Đạo .....................................................................................6
2.7 .Ăn chay theo Đạo Sikh ......................................................................................7
2.8.Ăn chay theo Do Thái giáo...................................................................................7
2.9. Ăn chay theo Phật giáo........................................................................................7
CHƯƠNG 3:LỢI ÍCH CỦA ĂN CHAY
3.1. Lợi ích của việc ăn chay và không sát sinh.........................................................8
3.2. Ăn chay bảo vệ môi trường sinh thái..................................................................10
C.KẾT LUẬN...................................................................................................................................13
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................16
A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Ăn chay là một vấn đề khơng cịn xa lạ đối với rất nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Nó được bắt nguồn từ thời cổ đại, đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh rằng thời cổ
đại con người đã biết về lợi ích của việc ăn chay. Thời Cổ đại việc thực hành và truyền
bá ăn chay phần nhiều là do các tu sĩ, giáo sĩ của các tôn giáo thực hiện. Các nước Bắc
Phi như Ai Cập, hay cận Trung Á như Hy Lạp thì việc ăn chay cũng được cho là giữ
cơ thể thanh sạch trước lễ Thần linh… Mỗi tôn giáo đều có những quan điểm, chủ
thuyết của việc ăn chay khác nhau. Khơng riêng gì Phật giáo mà các tôn giáo lớn trên
thế giới như Kito giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo… cũng có thuyết ăn chay nhưng ăn như
thế nào, vào thời điểm nào, rồi phương cách ăn ra sao thì mỗi tơn giáo đều có mỗi
phương thức khác nhau.Các tôn giáo lớn trên thế giới hầu như lúc khởi thủy đều răn
dạy tín đồ khơng được sát sanh hại vật và phải ln ln thọ trì trai giới. Nhưng trải
qua nhiều thế kỷ, những kinh điển nguyên bản được chép tay truyền lại từ đời này
sang đời khác, được chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau hoặc được hiệu đính
bởi nhiều giáo chủ và Hội Đồng Giáo Phẩm thời đại, nên có lẽ đã có phần sai lệch với
kinh điển nguyên sơ. Do đó sự cấm sát sinh và thọ trì trai giới khơng cịn được một số
tơn giáo chấp hành nghiêm chỉnh. Để giữ tính cách vơ tư, tác giả xin trích dẫn một
cách trung thực những tài liệu tham khảo mà không hề din giải, bình phẩm hoặc có
quan điểm cá nhân.Đó là lý do Học viên chọn đề tài: Quan niệm về ăn chay theo các
tôn giáo làm đề tài nghiên cứu.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên dùng phương pháp: nghiên cứu của Tôn giáo học, triết học như: phân tích,
tổng hợp, lơgic, lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa.
3.Nội dung nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu :phân tích niết bàn theo quan
điểm của Phật giáo Theravàda
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung.Nội dung gồm 03 chương
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo
1
A. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƠN GIÁO
1.1.Khái niệm, nguồn gốc, bản chất và vai trị của tôn giáo.
1.1.1.Các quan điểm về tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử, có tài liệu
thống kê đến nay có hàng trăm khía niệm về tơn giáo tùy cách tiếp cận và mục tiêu
nghiên cứu khác nhau người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về tôn giáo.
Quan điểm trước Mác về tôn giáo:Trước khi xuất hiện đạo Kito, bên cạnh những hình
thức tơn giáo sơ khai, việc các nhà nước độc lập rất sung bái các vị thần rất phổ biến,
với những nghi thức và niềm tin có quan hệ đến cái thiêng liêng.Con người vừa kính
trọng , vừa sợ hãi những lực lượng siêu nhiên nên họ đã thực hiện những nghi lễ hiến
tế nhằm tỏ lịng tơn kính cầu xin sự giúp đỡ, sự che chở của đấng siêu nhiên tối cao,
để làm tăng sức mạnh của bản thân và cộng đồng, vượt qua một cách thắng lợi những
thách thức khó khăn , hi vọng các thần linh giúp đỡ để tránh những tai họa đang hoặc
sẽ dẫn đến.Khi tư tưởng nhà thờ thống trị những đêm trường trung cổ, ở Châu âu đã
bắt con người tìm kiếm chỗ dựa tinh thần ở niềm tin tơn giáo đó là sự phụ thuộc vào
các bậc tiên tri và các đấng siêu phàm.Trong tôn giáo con người thốt khỏi trần gian,
vì tơn giáo là lĩnh vực tri thức giải đáp mọi điều bí ẩn của thế giới quan, gạt bỏ mọi
mâu thuẫn thầm kín trong tư tưởng con người do vậy tôn giáo là lĩnh vực của chân lí
vĩnh cửu.Nhà triết học Đức Wil Helm Hegel cho rằng tôn giáo là tri thức thần thánh,
là tri thức của con người về thần thánh, vì vậy ơng đã kết luận: trong tôn giáo con
người tự do trước thần thánh , vì ý chí của con người hịa đồng với ý chí của Thượng
Đế. L.Feuer Bach, một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật trước Mác đưa ra luận
điểm: Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ khơng phải là tơn giáo sang tạo ra con
người. Ơng cho rằng cái mà ý thức tôn giáo quan niệm là Thượng đế khơng phải là cái
gì khác hơn sự sang tạo của con người , con người suy nghĩ ra sao, tâm tư thế nào thì
thượng đế của họ đúng như vậy, con người có bao nhiêu giá trị thì Thượng đế cũng có
bấy nhiêu.Từ thượng đế có thể suy ra con người và ngược lại.Thượng đế là cái tự thân
được biểu hiện ở con người, tôn giáo là sự vén mở trang trọng những kho tang ẩn giấu
của con người, là sự thừa nhận ý nghĩ thầm kín nhất, là sự thú nhận cơng khai những
bí mật tình yêu của con người.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- lê nin về tôn giáo:Các Mác, ăng ghen, lênin là những
vị lãnh tự lỗi lạc của phong trào công sản và cơng nhân quốc tế.Trong suốt q trình
hoạt động cách mạng, các ơng đã để lại những tư tưởng q báu về chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản, trong đó có những nhận định về vấn đề tơn giáo. Các mác đã chỉ
ra rằng: Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa tìm thấy bản thân
mình hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa. Con người chính là thế giới những
con người , là nhà nước, là xã hội.Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, khơng
phải tơn giáo sáng tạo ra con người mà chính là con người sáng tạo ra tôn giáo.Tôn
giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực, ảo tưởng, vì bản chất con người
khơng có tính hiện thực thực sự.Tơn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những điều
2
kiện xã hội khơng có tinh thần, tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân.Qua sự phản ánh
của tôn giáo, những lực lượng tự phát của tự nhiên và xã hội trở thành sức mạnh siêu
nhiên có quyền uy đối tối thượng và tác động đến một cộng đồng , một nhóm xã hội
có tổ chức.Tơn giáo chỉ ra đời khi xuất hiện giai cấp và có đấu tranh giai cấp.V.I.
Lênin đã định nghĩa: Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức vè tinh thần, ln
ln và bất cứ nơi đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao
động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cơ độc. Những
quan điểm của chủ nghĩa Mác lê nin về tơn giáo đã được Hồ chí Minh,Đảng và Nhà
nước ta vận dụng sáng tạo trong điều kiện lịch sử của Việt nam.Mặc dù hiện nay chưa
có tài liệu nào giải thích cụ thể về tơn giáo , song nói đến một tơn giáo hồn chỉnh thì
có mấy dấu hiệu cơ bản sau:
+ Nói đến tơn giáo là nói đến cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu
nhiên, huyền bí.
+ Có hệ thống giáo lí, luật lệ, lễ nghi.
+ Có tổ chức hoạt động từ giáo hội xuống cơ sở khá chặt chẽ.
1.1.2.Nguồn gốc và bản chất của tôn giáo
a) nguồn gốc kinh tế xã hội của tôn giáo.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém,con
người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã
gán cho tự nhiên những sức mạnh quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh
đó . Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.Khi xã hội bắt đầu xuất hiện những
giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con
người lại cảm thấy bất lực trưos những sức mạnh tự phát hoặc của thế lực nào đó
trong xã hội.Khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức bóc
lột, tội ác, .. và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, họ hướng niềm tin ảo tưởng vào
thế giới bên kia dưới hình thức tơn các giáo.Như vậy sự yếu kém của trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế, áp bức chính trị , thất vọng bất
lực trước những bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
b) nguồn gốc nhận thức của tôn giáo.
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên xã hội có
giới hạn .Do trình độ nhận thức yếu kém, con người khơng giải thích được bản chất
của các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội, từ đó họ thần bí hóa và gán cho tự
nhiên xã hội những lực lượng thần bí hình thành nên các biểu tượng tôn giáo.
c) nguồn gốc tâm lý.
Tâm lý sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, những tình cảm về lịng kính
trọng , sự biết ơn.. đã làm hình thành những ý thức tình cảm của tơn giáo đưa đến sự
ra đời của tín ngưỡng tôn giáo.
Bản chất của tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội tiêu cực ra đời và tồn tại trong một điều kiện lịch sử
nhất định. Hệ tư tưởng và thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập với hệ
tư tưởng và thế giới qua Mác-lênin khoa học và cách mạng.Tôn giáo không giải thích
được đúng bản chất các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội, cũng như nguyên nhân
nỗi thống khổ của người lao động .Tôn giáo hướng con người hạnh phúc hư ảo, hi
vọng hão huyền, làm tiêu tan nghị lực, nhụt chí đấu tranh, hạn chế q trình vươn lên
của con người mà chỉ biết cam chịu.Tuy nhiên ở một mức nhất định tơn giáo có vai trị
3
tích cực trong văn hóa đạo đức xã hội như đồn kết, hướng thiện , quan tâm đến con
người.Tơn giáo là niềm an ủi , chỗ dựa tinh thần của quần chúng lao động.
1.1.3.Vai trị của tơn giáo.
Mặt dù về hình thức, tơn giáo tách khỏi thế tục nhưng thực tế nó vẫn can thiệp vào thế
tục ở các mức độ khác nhau. “Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã
hội, tôn giáo tác động trở lại đối với tồn tại xã hội”. Các tác động này bao gồm cả tác
động mang tính tích cực lẫn tiêu cực. Mặt tích cực, tơn giáo có vai trò quan trọng
trong việc liên kết tập hợp cộng đồng. “Trong một chừng mực nhất định, tôn giáo là
một trong những nhân tố ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại dựa trên các hệ
thống giá trị và chuẩn mực chung mà nó hình thành”.Tơn giáo cũng tạo nên những
thăng hoa cho các sáng tạo nghệ thuật dân gian, có đóng góp lớn đối với các di sản
văn hóa của nhân loại.Tơn giáo có tác động hai mặt đối với xã hội. Một mặt nó phản
ánh khát vọng của con người về một xã hội mới tốt đẹp hơn, làm tăng sự liên kết trong
xã hội, hướng con người đến những giá trị cao cả, đạo đức, hướng thiện. Thế nhưng đi
kèm với nó ln có mặt tiêu cực.
Mặt tiêu cực của tôn giáo là nguy cơ gây rạn nứt trong xã hội do sự sùng tín hay tính
cục bộ cố hữu của nó. Sự xung đột giữa các tôn giáo cũng là một ngu cơ đối với hịa
bình và an ninh thế giới. Tơn giáo cũng đồng thời kìm hãm khoa học, kìm hãm sự
sáng tạo của con người. Tóm lại bên cạnh các mặt tích cực, thế giới quan tôn giáo ẩn
chứa nhiều mặt tiêu cực. Chính những mặt tiêu cực của tơn giáo ln bị các lực lượng
thù địch với chủ nghĩa xã hội lợi dụng nhằm thực hiện các âm mưu chống phá các nhà
nước chủ nghĩa xã hội. Mặc dù “chủ nghĩa Mác – Lênin coi tơn giáo là một hình thái ý
thức xã hội duy tâm, thần bí, phản khoa học, nhưng Chủ nghĩa Mác Lênin cũng thừa
nhận tính chất, vai trị của tơn giáo, thừa nhận tơn giáo cịn tồn tại lâu dài”.Chính vì
vậy trong giải quyết các vấn đề về tơn giáo cần phải có một thời gian dài,“gắn liền với
quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức
4
CHƯƠNG 2
QUAN NIỆM ĂN CHAY CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
2.1.Quan niệm ăn chay của Kito[1] giáo
Kinh Tân Ước Kito cấm ăn máu được ghi trong sách Công vụ Tơng Đồ, ngồi ra
khơng cấm các loại thực phẩm nhất định nào.Vào thời Trung cổ tại các nhà thờ và Tu
viện Kito các giáo sĩ, tu sĩ, ma sơ… đã ăn chay như là một sự tu luyện chống lại ham
muốn về thể xác, đồng thời ăn chay để sám hối tội lỗi trước chúa Jesus, Cha và Con
và các Thánh Thần. Ý nghĩa chay tịnh của Kito giáo được tiên tri Isaia chỉ rõ nhau
sau:“Là hủy bỏ xiềng xích bất cơng, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho người bị áp bức,
dẹp bỏ mọi gánh nặng, hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạc
không nhà. Nếu ngươi gặp một người trần truồng hãy cho họ áo mặc, người đừng khi
bỉ người cùng xác thịt như mình”[2].Các Kito giáo hiện đại như Ellen G. White, một
trong những sáng lập của Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, có giáo lý ăn chay vì cho rằng
ăn chay là thể hiện sự thanh sạch của Thiên Đường.Tuy nhiên tín đồ Ki tơ giáo hiện
nayăn chay có phân theo độ tuổi, và trong những ngày chay họ chỉ cấm thịt, cịn có thể
dùng nước thịt và các lồi vật máu lạnh như tơm, cua, cá, ốc… và chỉ ăn no một ngày
một bữa, chọn bữa ăn nào để ăn no cũng được.
2.2.Quan niệm ăn chay của Hồi giáo[3]
Người Hồi giáo ăn chay vào tháng 9 gọi là tháng Ramadan. Những ngày trong tháng
này tín đồ Hồi giáo đều thực hiện cầu nguyện từ bình minh tới hồng hơn. Họ chỉ ăn
vào lúc bình minh chưa lên và sau khi hồng hơn phủ xuống. Cịn cả ngày thì họ giữ
gìn giới luật và khơng ăn gì cả.Tháng chay Ramadan là một trong năm quy định của
tín đồ Hồi giáo. Mục đích thực hiện là nhằm thể hiện sự đồng cảm đến những người
nghèo đói, và quan trọng hơn là để tự thân rèn luyện tiết chế, bỏ bớt những tham cầu
và dục vọng. Ngoài ra tháng chay Ramadan của người Hồi giáo không chỉ nhịn ăn và
ăn chay vào sáng khi mặt trời chưa lên và bữa tối khi mặt trời đã khuất, họ cịn có
nhiều nghi lế và hoạt động khác của tôn giáo này.
2.3.Ăn chay theo Ấn Độ giáo[4]
Nền văn minh cổ đại của Ấn Độ từ khi Đức Phật Thích Ca chưa ra đời thì người ta đã
ăn chay rồi. Và đến bây giờ, sau hơn hai ngàn năm thì người dân Ấn Độ vẫn chuộng
việc ăn chay, ăn ngũ cốc nhiều hơn thịt cá. Một trong những tôn giáo lớn ẩn hưởng
chủ thuyết ăn chay rộng khắp dân Ấn Độ là Ấn Độ giáo. Ăn chay theo Ấn Độ giáo
còn gọi là Trai giới, ăn lạt, là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn
gốc từ thực vật (trái cây, rau quả,…) có hoặc khơng ăn những sản phẩm từ sữa, trứng,
mật ong, bơ, phomai, kem, đạm váng sữa và hồn tồn khơng sử dụng các loại thịt
(thịt đỏ, thịt gia cầm, hải sản, côn trùng), kiêng ăn những thực phẩm có được từ nguồn
gốc giết mổ như chả, giị, mắm, ruốc, thịt hun khói…). Ở Ấn Độ khoảng 40% dân số
theo Ấn giáo là những người ăn chay.
2.4.Ăn chay theo Đạo giáo[5]
Nghĩa của từ “ăn chay” ở Trung Quốc cổ đại khơng có nghĩa là “khơng có thịt”, ý
nghĩa ban đầu của từ "- chay" có nghĩa là trong trắng, sạch sẽ, đơn giản. Theo đây
những đạo sĩ tu và tín đồ theo Đạo giáo lúc ban đầu khơng nhất thiết là phải ăn chay
trường. Họ có quyền ăn thịt được mua từ chợ nhưng không được sát sanh và nhất định
khơng được ăn huyết (máu).Các tín đồ Đạo gia không nhất thiết phải ăn chay trường
nhưng họ ăn chay kỳ, thường ăn vào những ngày sóc vọng (trăng tròn) như ngày
5
mùng 1 và 15… vì Đạo gia cho rằng những ngày này mặt trời, mặt trăng và trái đất
thẳng hàng, là thời điểm lục hút của mặt trăng với trái đất mạnh nhất, biểu hiện qua
việc thủy triều lên cao. Cơ thể của con người hơn 70% là nước nên các tế bào cũng sẽ
chịu sự tác động bởi lục hút của mặt trăng. Máu trong cơ thể người sẽ đạt mức tối đa.
Hoạt động hệ tuần hoàn thay đổi, cơ thể rối loạn, nhất là hệ thần kinh chịu tác động
nhiều nhất. Vào những ngày này dưới tác động thủy triều cực đại của mặt trăng nên
con người rất dễ vi phạm giới luật vì vậy ăn chay để thích ứng với tự nhiên, giúp con
người làm chủ được cảm xúc nhất định. “Hồng đế nội kinh” nói: “Trời ăn thịt người
ngũ khí, đất ăn thịt người ngũ khí”. Đạo giáo cho rằng con người có quan hệ mật thiết
với giới tự nhiên, những thay đổi về địa lý, khí hậu ngoại cảnh nhất định ảnh hưởng
đến sự thay đổi âm dương trong cơ thể con người. Để duy trì sự cân bằng âm dương
trong cơ thể con người, người ta phải thích ứng với những thay đổi của tự
nhiên[6].Càng về sau, Đạo giáo cho rằng ăn chay cũng là một trong những sự phát
triển không ngừng của nền văn minh nhân loại và xã hội tự nhiên. Con người bắt đầu
suy ngẫm về thói quen ăn uống của mình và đưa việc ăn chay vào những dịp thiêng
liêng và trang trọng. Vào đêm trước các hoạt động tế lễ lớn, cần phải ăn chay trong vài
ngày, thanh lọc cơ thể và thanh lọc tâm hồn, “làm sạch lòng” chủ yếu là nói đến việc
khơng ham muốn dục vọng và hài lòng với tâm trạng tỉnh lặng, dần dần nhận ra rằng
ham mê không chỉ gây hại cho cơ thể mà cịn dẫn đến chống mặt, thậm chí là cội rễ
của mọi tai họa. Quan niệm ăn chay để tu tâm.[7]Mong muốn cuối cùng của Lão giáo
khi đề cao việc ăn chay là để tu đạo và để thực hiện tầm nhìn cao xa của quy luật nhân
quả và vòng vận hành của tự nhiên.
2.5.Ăn chay theo Khổng giáo (Nho giáo)
Tư tưởng trung tâm của Nho giáo là Nhân, Nghĩa, tình thương, lịng trắc ẩn và bất bạo
động. Mạnh Tử cho rằng người hiền cũng đối với cả loài vật, nhìn thấy sự sống của
lồi vật, khơng thể chịu được khi thấy chúng bị chết vì giết hại, nghe tiếng chúng kêu
la và không thể chịu nỗi khi ăn thịt của lồi vật. Vì những tư tưởng về lịng nhân từ và
bất bạo động nên Nho giáo cũng chủ trương ăn chay. Quan niệm ăn chay của Nho
giáo cũng là ăn thuần thực vật, không chọn những thực phẩm có liên quan đến động
vật kể cả các lồi ở dưới nước. Văn hóa phong kiến Trung Quốc được thấm nhuần bởi
tư tưởng Nho Gia, vì vậy mà truyền thống tang lễ Trung Quốc thường không được sát
sanh. Khi trong nhà có ơng bà, cha mẹ mất thì con cháu phải ăn chay để tưởng
nhớ.Nho giáo không bắt buộc phải ăn chay trường, nhưng trai giới vẫn luôn được chú
trọng đối với người tu theo Nho giáo.
2.6 .Ăn chay theo Thần Đạo
Tu theo Thần đạo rất nhẹ nhàng, luật lệ khơng nghiêm khắc bằng cỏi Trời (Chư
Thiên). Ngồi một số giới điều tu thân thì vẫn phải tu tâm hướng thiện, lập công đức.
Thần Đạo không quá khắt khe về chay lạt nhưng có một số loại thịt như mèo, chó, rùa,
rắn, trâu và máu (tuyết canh)… là thịt của những lồi linh tính khơng được ăn. Thần
Đạo cho rằng thịt chó, mèo trược khí rất nhiều nên khơng được phép ăn vì nó ảnh
hưởng tới điển lực và sự vận hành của khí mạch.
2.7 .Ăn chay theo Đạo Sikh [8]
Có thể nói đạo Sikh là một tơn giáo cải cách, ra đời trên cơ sở tiếp nhận tư tưởng, giáo
luật, lễ nghi của các tơn giáo đã có ở Ấn Độ như Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Phật giáo…
Đạo sikh quy định các tín đồ tuyệt đối khơng ăn thịt giết theo nghi thức. Người theo
đạo sikh không bị ràng buộc phải ăn chay, nhưng một số người Sikh ăn chay vì họ tơn
6
trọng động vật.Trong lễ Gurdwara của Sikh giáo thì chỉ phục vụ bằng đồ chay. Một
người theo đạo Sikh ăn chay hay khơng cũng có thể phụ thuộc vào truyền thống hoặc
vùng miền của người đó.Ngơi đền đạo Sikh nơi có bếp cơm chay miễn phí lớn nhất
thế giới
2.8.Ăn chay theo Do Thái giáo[9]
Kinh điển nền tảng của Do Thái giáo là cựu ước cũng có vài chổ đề cập tới ăn mặn,
nhưng giáo lý căn bản vẫn dạy tín đồ phải trường chay và không sát sinh hại vật.
Trong “sáng thế ký” quyển đầu của kinh Cựu Ước có đoạn viết: “Ta ban cho các con
đầy đủ các loại rau quả và ngũ cốc khắp nơi trên thế giới này. Đó là thức ăn của các
con vậy… cùng những lồi thú khắp nơi trên địa cầu, những nơi có sự sống, ta đã ban
cho các ngươi các loại rau quả và ngũ cốc để ăn… thịt vốn có máu và sự sống, nên các
con không được ăn.Như vậy cho thấy thời sơ khai của Do Thái giáo khuyến khích tín
đồ ăn chay, tức là chọn những thực phẩm có nguồn gốc thực vật. Tuy nhiên tín đồ Do
Thái giáo khơng bắt buộc phải ăn chay hồn tồn.Trên đây là quan điểm ăn chay của
một số tôn giáo lớn trên thế giới. Đến thời hiện đại thì ăn chay khơng cịn giới hạn
trong tơn giáo mà đã ảnh hưởng rộng lớn đến mọi tầng lớp con người trên khắp các
châu lục. Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu về những tổ chức ăn chay thế giới, những nhà
nghiên cứu khoa học đã nói những gì về việc ăn chay và những lợi ích của nó đối với
con người và mơi trường sống.
2.9. Ăn chay theo Phật giáo
Khi đạo Phật mới ra đời, các Tăng Ni sống bằng việc khất thực. Đi từ nơi này sang nơi
khác nhận thức ăn của người khác bố thí cho. Đấy là một hành động nhằm hướng đến
việc tu tâm hướng Phật và nuôi thân.Lúc ấy, chúng Tăng Ni khơng có phân biệt đồ
chay với đồ mặn. Bởi lẽ chúng cũng chỉ là thức ăn để nuôi thân. Và cũng chẳng muốn
vứt bỏ mọi thứ mọi người chia sẻ. Một hơm, có tướng Siha đến thăm Đức Phật, cảm
kính với những lời dạy của Phật nên đã xin quy y Tam bảo.Sau lần ấy, tướng mời chư
Tăng đến dự yến tiệc. Sai người mua thịt lợn ngoài chợ về thiết đãi.Chư Tăng nghe
vậy, giận dữ vơ cùng mà nói. “Tướng chỉ nghĩ đến bản thân mình, giết sinh vật để làm
tiệc”.Đức Phật nghe vậy liền nói “Chư Tăng được phép dùng thịt cá. Miễn trong ba
trường hợp sau: không trực tiếp giết mổ, không nghe lấy tiếng vật than khóc khi bị
giết mổ. Và vật ấy không chỉ bị giết mổ để thiết đãi chư Tăng”.Thực tế, tướng Siha
phân biệt rất rõ giữa việc (trực tiếp) giết mổ và mua thịt đã giết mổ. Cũng vì lẽ đó
tướng khơng làm gì sai trái.Tuy Đức Phật khơng ngăn cản việc ăn mặn. Nhưng có một
số thịt lồi mà Phật giáo cấm chư Tăng khơng được đúng đến.Ngồi thịt người bởi đấy
là thịt đồng loại. Cịn có thịt voi với thịt ngựa bởi nó là của vua chúa. Thịt chó vì quan
niệm bần tiện. Thịt hoang dã vì ám mùi gây trả thù Sau này, khi Đức Bà Lạt Đa muốn
nghiêm khắc hơn trong việc khẩu thực. Đề ra nguyên tắc tu sĩ chỉ dùng đồ chay, tuyệt
đối khơng đụng đến đồ mặn.Cũng kể từ đó nền Phật giáo bắt đầu có sự phân chia quan
điểm.Một bên chủ trương chay mặn đều dùng được (Phật giáo Nam Tông) theo luật
“Tam Tịnh nhục”. Và trường chay (Phật giáo Bắc tơng).Theo dịng chảy của lịch sử,
hình ảnh tu sĩ trường chay trở nên rõ nét trong đại chúng. Khiến nhiều người cứ lầm
tưởng rằng đã là Phật tử ắt tuyệt đối không đụng đến đồ mặn.Nhưng kỳ thực điều ấy
không đúng đắn trong thực tế, và phủ nhận những quan điểm của nền Phật giáo Nam
Tông trong thời điểm hiện tại.
7
CHƯƠNG 3
LỢI ÍCH CỦA ĂN CHAY
3.1. Lợi ích của việc ăn chay và khơng sát sinh
Ăn chay chắc chắn có lợi ích. Tại sao vậy? Vì thật sự “vĩnh ly sát sinh”. Những người
đồ tể tại sao giết hại chúng sinh để bán thịt vậy? Bởi vì có người ăn. Nếu như thế gian
này khơng có người ăn thịt chúng sinh, thì nghề này sẽ khơng cịn nữa. Từ đó cho
thấy, dù cho chúng ta ăn tam tịnh nhục, nhưng tâm của chúng ta không thanh tịnh,
nghiệp không thanh tịnh. Chúng ta thử nghĩ xem, những người đồ tể kia hằng ngày sát
sinh và chúng ta là người ăn thịt, là khách hàng của họ, thì chúng ta cũng có một phần
trách nhiệm, không thể trốn tránh được. Cho nên, chúng ta phải hiểu rõ ăn chay chắc
chắn có lợi ích.Đối với tất cả chúng sinh, bạn khơng cịn ý nghĩ sát sinh hại chúng
nữa, chúng sinh sẽ nhìn thấy bạn giống như bạn bè vậy, vì biết bạn sẽ khơng hại
chúng. Bạn có thể u thương và có thể giúp đỡ chúng, chúng sẽ gần gũi bạn. Tình
cảnh này, chúng ta thường đi du lịch ở bên ngoài thấy được rất rõ ràng. Ở Trung Quốc,
những chim thú khi nhìn thấy người chúng đều hoảng sợ, bỏ chạy, tại sao vậy? Hầu
hết là tâm chúng ta là bất thiện, thường hay có tâm sát sinh. Tâm sát hại chúng sinh
tức là thơng thường gọi là sát khí. Người Trung Quốc có sát khí rất nặng, những súc
sinh này khi vừa nhìn thấy liền lập tức bỏ chạy, chạy thốt thân. Người nước ngoài,
bạn thử xem, trong vùng sơn dã, trong cơng viên có rất nhiều động vật hoang dã, bạn
cho nó thức ăn, vừa vẫy tay nó liền đến ngay, nó khơng sợ người. Tại sao vậy? Khơng
có ai làm tổn hại nó, chỉ có người giúp đỡ nó, khơng có người làm tổn thương nó. Có
một năm, chúng tôi ở San Francisco, tại Kopotino, mỗi ngày chúng tôi đều đi bộ trong
cơng viên, ở trong đây có rất nhiều vịt trời, bồ câu, thảy đều là hoang dã, chúng tôi
thường hay đi cho chúng ăn. Một lần nọ, có một con bồ câu bước đi vơ cùng khó
khăn, chúng tơi quan sát tỉ mỉ thì thấy chân của nó bị người dùng sợi dây cột lại rất
nhiều vịng.Chúng tơi tỉ mỉ quan sát nó, đến ngày thứ hai lại đi cho nó ăn nữa, nó liền
đến ngay. Chúng tơi gọi nó lại gần, tháo sợi dây đang cột trong chân nó ra, gỡ thật
sạch sẽ, nó hiểu được! Đến hơm sau, nó lại dẫn đến hai, ba con khác cũng đều bị cột
dây như vậy đến tìm chúng tơi để giúp đỡ chúng. Chúng có tánh linh nên chúng hiểu
được, chúng biết chúng ta sẽ giúp đỡ chúng, bản thân chúng khơng có cách. Khơng
biết là người nào đã cột sợi dây rất nhỏ vào chân chúng, cột rất chặt, phần da đều bị
thương. Đây là bố thí vô úy. Chỉ cần chúng ta vĩnh viễn dứt trừ ăn thịt, quyết khơng có
ý niệm tổn hại chúng sinh, thì sát khí trên người chúng ta sẽ hồn tồn khơng cịn nữa.
Sát khí khơng cịn nữa liền chuyển biến thành từ quang, ánh sáng của từ bi, động vật
nhỏ nhìn thấy sẽ thích gần gũi bạn. Cơng đức này ở trong Phật pháp là bất khả tư nghì.
Quả báo của bố thí vơ úy là được sức khỏe, trường thọ.
1. Bạn sẽ sống thọ hơn:
Theo một nghiên cứu gần đây của Đại học Loma Linda cho biết rằng, ăn chay giúp
tuổi thọ chúng ta kéo dài hơn 7 năm, và những người ăn chay sống thọ hơn người ăn
mặn đến 15 năm. Cùng với kết quả này, một tổ chức sức khoẻ ở Trung quốc kết luận
rằng cứ một người Trung quốc ít ăn thịt và mỡ động vật thì giảm nguy cơ bệnh ung
thư, bệnh tim mạch và những biến chứng mãn tính.
2. Ăn chay giúp bạn cứu lấy trái tim mình:
Bệnh tim mạch (cardiovascular disease) vẫn là căn bệnh hiểm nghèo đang hoành hành
và giết chết bệnh nhân hàng loạt ở Mỹ. Tổ chức Tiêu chuẩn ăn uống ở Mỹ cảnh báo
8
nghiêm trọng về bữa ăn chứa nhiều mỡ bão hoà và cholesterol từ thịt và sữa. Thay vào
đó hằng ngày chúng ta phải tăng cường thực phẩm rau quả tươi. Thực tế trong cơ thể
của người ăn chay thì hàm lượng cholesterol ít hơn người ăn mặn 14%.
3. Ăn chay giúp chúng ta tiết kiệm nhiều tiền bạc:
Trong thực đơn của người ăn chay thì khoản chi trả cho thực phẩm chay ít hơn nhiều
so với thịt cá.
4. Ăn chay giảm nguy cơ bệnh ung thư:
Một kết quả của Trung tâm nghiên cứu bệnh ung thư của Đức tại Heidelberg (German
Cancer Research Center in Heidelberg) cho biết rằng khả năng chống đỡ tế bào ung
thư trong cơ thể người ăn chay mạnh hơn người ăn thịt cá rất nhiều. Nghiên cứu của
trung tâm này còn cho hay thức ăn thực vật giúp cơ thể chống lại ung thư tuyến tiền
liệt, ruột già và da.
5. Rau cải chế biến thành những món ăn đặc sắc:
Thịt và cá có khuynh hướng làm cho món ăn thiếu thẩm mỹ, tái sạm, và dễ ương thối;
trong lúc rau đậu thì có nhiều màu sắc, trang trí đẹp và ngon thơm. Hương vị và màu
sắc của rau cải mang lại cho món ăn nhiều kích thích, nhiều sinh tố kháng bệnh và lọc
độc tố. Vì vậy món ăn càng nhiều màu sắc và nhiều loại rau củ thì càng giúp cơ thể
của bạn gia tăng nhiều sinh tố tự nhiên, tăng khả năng miễn dịch và chống lại các loại
bệnh tật.
6. Ăn chay giúp bạn cân bằng trọng lượng cơ thể:
Người ăn chay luôn gọn gàng hơn người ăn mặn, khi ăn chay chúng ta giữ được trọng
lượng của cơ thể một cách lâu dài. Cũng nhờ rau quả ít chất béo và calogy nên người
ăn chay tránh được nạn béo phì, bệnh tim mạch, huyết áp và tiểu đường.
3.2. Ăn chay bảo vệ môi trường sinh thái
Thành phố San Francisco ở California đã trở thành thành phố thứ nhì trên thế giới và
đầu tiên của Mỹ có một ngày chính thức trong tuần khơng ăn thịt. Thành phố Ghent
của Bỉ là thành phố đầu tiên trên thế giới đã làm việc này. Phong trào khơng ăn thịt, ít
nhất là một ngày trong tuần hiện đang có khuynh hướng gia tăng tại Hoa Kỳ và các
nơi trên thế giới nhằm ủng hộ lối sống lành mạnh, ý thức về môi trường sinh thái,
đồng thời kêu gọi sự thức tỉnh của con người về mối liên hệ giữa thói quen ăn uống,
sức khỏe và sự biến đổi khí hậu tồn cầu.Nhiệt độ ấm dần lên của địa cầu, thời tiết
biến động nhiều khiến mưa lũ cùng bão lớn, lốc xoáy nhiều hơn và ngày càng khủng
khiếp như bão Kathina 2005 ở Hoa Kỳ, bão Nargis 2008 ở Miến Điện, mới đây những
trận bão liên tiếp ở vịnh Mexico: Gustav, Hanna, Ike. Nhiều người lo ngại và tìm biện
pháp đối phó. Các khoa học gia tìm hiểu nguyên nhân, xác nhận ăn thịt có tác động
lớn đến môi trường sinh thái và ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người. Vào
năm 2006, báo cáo của LHQ kết luận việc sản xuất và tiêu thụ thịt góp phần làm biến
đổi khí hậu qua q trình tạo chất khí gây hiệu ứng nhà kính của nền cơng nghệ chăn
nuôi súc vật. Cơ quan Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) xác nhận
việc chăn nuôi và giết thịt bò cùng các loại động vật khác chiếm 18% tổng lượng khí
thải gây hiệu ứng nhà kính qua việc thải phân, xì hơi (trung tiện) và ợ hơi của chúng.
Các chất khí gây hiệu ứng nhà kính như methane, cacbon đai ốc xai và nitrous oxide,
có liên quan đến tình trạng trái đất nóng dần lên làm biến đổi khí hậu. Biến đổi khí
hậu gây bão tố thường xuyên, ảnh hưởng đến môi trường sống con người. Theo Ngân
hàng Thế giới (WB) công bố ngày 26-2-2007, mực nước biển dâng cao do hiện tượng
trái đất nóng dần lên gây ảnh hưởng mạnh nhất ở các nước đang phát triển trong đó có
9
Việt Nam, nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Nước
biển tăng lên 5m, Việt Nam có thể mất đi 16% diện tích đất với hơn 35% dân số và
khoảng 35% tổng giá trị GDP bị ảnh hưởng. Mực nước tăng 1m có khoảng 10,8%
tổng dân số Việt Nam phải chịu ảnh hưởng tổn thất nặng nề. Vì thế ăn chay có thể góp
phần vào việc giảm bão tố, lụt lội. Theo báo cáo của FAO, ngành chăn nuôi súc vật đã
chiếm hơn 30% diện tích đất trên địa cầu để sản xuất thịt và ngày càng có khuynh
hướng gia tăng. Số nơng trại nuôi súc vật để làm thức ăn cho con người ngày nay đã
gia tăng hơn bốn lần so với năm 1945. Để yểm trợ, con người phải phá hủy cây rừng
thiên nhiên, lá phổi thở quý báu của nhân loại. Người ta tính cứ mỗi mẫu rừng phá
hủy để làm nhà, làm chợ, làm bãi đậu xe và làm đường thì có đến bảy mẫu rừng bị phá
hủy để ni súc vật và trồng ngũ cốc cho chúng ăn. Hiện nay ở Hoa Kỳ, phân nửa
diện tích đất nơng nghiệp được dùng để sản xuất thực phẩm cho ngành chăn ni súc
vật, 90% tổng sản lượng lúa mì thu hoạch được dùng cho ngành này. Thống kê cho
biết, cứ 16 pounds lúa mì cho súc vật ăn mang lại 1 pound thịt và theo Aaron Altshul
viết trong tác phẩm Protein: Their Chemistry and Politics (Protein: Hóa học và Chính
trị): "Chúng ta sử dụng một mẫu đất (4.046m2) để trồng ngũ cốc cung cấp thực phẩm
cho những người không ăn thịt, được sản lượng nhiều hơn gấp 20 lần so với sử dụng
đất ấy để sản xuất thịt". Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho biết có khoảng từ một tỷ đến
hơn ba tỷ người sẽ thiếu nước và hàng triệu người sẽ đối mặt với nạn đói cũng như
nhiều thảm họa thiên nhiên. Băng trên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn đang tan nhanh khiến
diện tích vùng băng tuyết có thể thu hẹp từ 500 ngàn cây số vuông xuống cịn 100
ngàn cây số vng trước năm 2030. Trong khi đó ngành cơng nghệ sản xuất thịt lại sử
dụng nước nhiều hơn tất cả các ngành công nghệ khác cộng lại, đồng thời thải ra sông
rạch, ao hồ chất cặn bã nhiều nhất làm ô nhiễm, ảnh hưởng các nguồn nước thiên
nhiên tinh khiết ngày càng cạn dần. Chỉ lò sát sanh lớn tại Nebreska Hoa Kỳ, chuyên
sản xuất thịt gà, sử dụng 100 triệu gallon nước mỗi ngày tương đương lượng nước
cung cấp cho thành phố có 25.000 dân cư.Trong quyển Population, Resources and
Environment (Dân số, Tài nguyên và Môi sinh), tác giả Paul và Anne Ehrlich đã so
sánh: Nếu chúng ta muốn thu hoạch 1 pound lúa mì, chỉ cần 60 pound nước nhưng
nếu chúng ta muốn sản xuất 1 pound thịt bò, phải tiêu thụ từ 2.500 đến 6.000 pound
nước. Ngồi ra, khơng khí chúng ta thở bị ơ nhiễm do khí methane thốt ra từ cơng
nghệ sản xuất thịt. Robins Baskin, tác giả Diet for a New America đã viết rằng mỗi 1,3
triệu súc vật sản xuất khoảng 100 triệu tấn khí methane hàng năm, khí này là một
trong ba loại khí do tác dụng nhà kính gây ra ảnh hưởng đến độ ấm nóng trái đất. Do
vậy, chúng ta ăn chay sẽ tránh được lượng nước lớn ô nhiễm môi sinh và giảm thiểu
khối lượng khí methane thải vào khơng khí. Tóm lại, ngun nhân đưa đến tình trạng
biến đổi khí hậu khiến bão tố, lụt lội nhiều hơn, nguồn nước sạch cùng khơng khí bị ơ
nhiễm do chính con người gây ra, là mối đe dọa chung liên quan đến môi trường sống
hiện nay. Chúng ta có thể thay đổi tình thế và chiến thắng cuộc chiến chống hiện
tượng biến đổi khí hậu tồn cầu, chống khơng khí và nước uống bị ơ nhiễm, chiến
thắng đó đạt được khi tồn thể chúng ta cùng hiệp lực, trong đó có việc tiết giảm nhu
cầu ăn thịt, ít nhất là một ngày trong tuần như nhân dân hai thành phố San Francisco ở
Hoa Kỳ và Ghent ở Bỉ Quốc đã làm. Dù là Phật tử hay khơng, dù giàu sang hay nghèo
khó, chúng ta cũng có thể góp phần vào việc này bằng tình thương u của mình đối
với mơi trường xung quanh qua những hành động mang tính khơng sát hại chúng sinh,
tơn trọng sự sống của mn lồi từ người, vật cho đến cỏ cây, hoa lá.
10
C.KẾT LUẬN
Theo sử sách, chúng ta thấy rằng ở Ai Cập thuở xưa, các tu sĩ cũng chủ trương ăn
chay. Họ kiêng thịt cá và kể cả không ăn trứng nữa, vì họ định nghĩatrứng là một thứ
thịt ở trạng thái lỏng (a). Các tu sĩ này cũng chủ trương sống độc thân và giữ vững lời
nguyện xả thân để phục vụ đạo pháp. Mặc dầu trong kinh Cựu Ước, kinh điển nền
tảng của Do Thái Giáo, có vài chỗ đề cập tới việc ăn mặn, nhưng tựu trung giáo lý căn
bản vẫn dạy tín đồ phải trường chay và không sát sinh hại vật. Trong Sáng Thế Ký
(Genesis1:29), quyển đầu của kinh Cựu Ước có đoạn viết: "Chúa phán rằng:Ta đã ban
cho các con đầy đủ các loại rau quả và ngũ cốc khắp nơi trên thế giới này. Đó là thức
ăn của các con vậy"(b). Thánh Kinh cũng nói lúc mới tạo thiên lập địa, Thượng Đế
cũng khơng có sáng tạo ra các lồi vật này biết ăn thịt các con vật khác. Sáng Thế Ký
(1:30) viết tiếp:"Chúa phán:Cùng những loài thú khắp nơi trên địa cầu, những nơi có
sự sống, ta đã ban cho các ngươi các loại rau quả và ngũ cốc để ăn. Các ngươi không
được ăn thịt"(b). Trong đoạn này ở Sáng Thế Ký (9:4) nhấn mạnh hơn:"Thịt vốn có
máu và có sự sống, nên các con không được ăn".(b)Trong các quyển Thánh Thư, phần
lớn những lời rao giảng đều lên án việc ăn thịt. Isaiah (1:15) viết:"Chúa phán rằng: Ta
ghét các ngươi cúng dường ta nào là thịt trừu nướng, thịt của những lồi thú béo bổ
khác. Ta khơng có thích máu của những con bò mộng, của những con trừu hoặc các
con dê đực. Vì thế khi các ngươi ngửa tay xin tội, ta đã ngoảnh mặt đi. Khi các ngươi
cầu nguyện, ta sẽ khơng nghe. Tại vì bàn tay của các ngươi đã vấy đầy máu"(b). Theo
Isaiah (66:3): "Hành động giết chết một con bị chẳng khác gì hành động vặn cổ một
con người vậy"(b).Trong Thánh Kinh cũng có chuyện về Thánh Daniel. Khi cịn sanh
tiền, có lần ngài đã bị giam trong ngục thất tại thành Babylon, ngài đã từ chối các thức
ăn mặn do bọn cai ngục mang tới mà quyết địi cho được đồ ăn chay mới thơi.(a)Ngày
nay đại đa số trong chúng ta nghĩ rằng Chúa Jesus đã ăn thịt vì đã có một số khoản
liên quan đến việc ăn mặn trong kinh Tân Ước. Nhưng nếu chúng ta tra cứu và so
sánh với Thánh Kinh nguyên bản bằng tiếng Hy Lạp thì đó chẳng qua chỉ là một sự
sai sót trong khi dịch thuật mà thơi (a). Và đây là lời tiên tri nổi tiếng của Isaiah về sự
giáng trần của Đức Chúa Giê-Su:"Hỡi các con! Ta báo tin cho các con biết rằng một vị
nữ đồng trinh sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một người con trai. Người con trai đó có tên là
Immanuel (tên của Đức Chúa Giê-Su). Bơ và mật ong sẽ là thức ăn chính của ngài. Đó
là ý nghĩa Ngài sẽ xua đuổi bọn tà ma quỉ quái và sẽ ban phát những điều lành mà
thôi"(b). Thánh Clément cũng thọ trường chay. Ngài đã tán dương vị tông đồ của ngài
là Mathew vì ơng chỉ dùng những thực phẩm chay như ngài vậy. Thánh Jérome, người
đã dịch Thánh Kinh ra tiếng La Tinh và đã lưu truyền đến ngày nay, đã từng viết: "C?
thức ăn chay rất giản dị, d nấu nướng mà lại rất rẻ tiền". Ngài cũng bảo ăn chay là
phương cách tốt nhất để chúng ta tu niệm hầu theo đuổi con đường thánh thiện. Thánh
Chrysotom quan niệm ăn thịt sẽ tạo cho con người có bản tính hung dữ và khơng phải
là một tập qn bình thường của người tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ngài nói:"Chúng ta
11
đã có thói quen bắt chước theo hành vi của những con chó sói, những con beo. Hoặc
giả cịn tệ hơn hành vi của chúng nữa. Bản tính bẩm sinh của lồi thú đã được an bài
như vậy. Cịn đối với chúng ta, Thượng Đế đã ban cho cái vinh hạnh được biết nói,
biết cảm giác và biết suy nghĩ được sự công bằng và lẽ phải. Nhưng ngược lại chúng
ta lại cịn xấu xa hơn các lồi thú đó nữa" (a).Thánh Benedict, người đã sáng lập ra
giáo phái Benedictine Order vào công nguyên 529, đã quy định các giáo sĩ ở trong
giáo hội phải ăn chay trường. Giáo phái Trappist sáng lập từ thế kỷ thứ XVII cũng quy
định khắt khe rằng các tín đồ khơng được ăn thịt động vật và kể cả không ăn trứng
nữa. Quy luật này đã được giải tỏa bởi Hội Đồng Giáo Phẩm Vatican hồi thập niên
1960. Nhưng phần lớn tín đồ của mơn phái này vẫn tiếp tục thọ trì trai giới theo giáo
lý nguyên thủy. Tuy nhiên hiện thời cũng có một số chủng viện Trappist đã cải cách.
Cho phép chăn ni gia súc và xẻ thịt bán ngồi thị trường để gây quỹ cho nhà
chung .Giáo hội Seventh Day Adventist Church nghiêm cấm các tín đồ sát sinh và ăn
mặn. Tiến sĩ John H. Kellogg, tín đồ trung kiên của giáo phái này ở Hoa Kỳ đã cổ xúy
mọi người ăn chay. Ông đã cai quản một bệnh viện bằng cách cho các bệnh nhân điều
dưỡng chỉ toàn bằng những thức ăn chay mà thơi .Ngồi ra ơng Kellogg cũng đã chế
biến ra một loại thực phẩm chay rất tiện dụng. Đó là loại cốm giẹp bắp (corn flakes).
Ban đầu loại thực phẩm tiện dụng này chỉ lưu hành trong giới giáo hữu, nhưng sau đó
nổi danh và hiện thời đã có lắm cơng ty trên thế giới hoạt động với tính cách tư lập để
sản xuất corn flakes hoặc những thức ăn tương tợ cũng lấy nhãn hiệu Kellogg's.Quốc
gia có số dân ăn chay nhiều nhất trên thế giới phải kể là Ấn Độ, quê hương của đạo
Hindus và Phật Giáo. Vốn ảnh hưởng bởi giáo lý tốt lành không sát sanh và không bạo
lực, đa số dân Ấn là những người có tín ngưỡng và chấp hành nghiêm chỉnh những
giới luật của tôn giáo họ. Kinh Vệ Đà, tiền thân của các kinh điển Phật giáo, xác quyết
rằng ăn chay là nền tảng của đạo đức khả dĩ tránh được các việc bạo động có thể xảy
ra. Luật cổ xưa của Ấn Độ Manu-Samhita đã din giải:"Ăn thịt dĩ nhiên phải sát hại
sinh mạng của những động vật khác. Sự sát sinh đó sẽ làm ngăn trở con đường tìm
đến hạnh phúc của Thiên Đường. Vì thế chúng ta đừng có ăn thịt".Trong một chương
khác, Manu-Sahimta cũng cảnh cáo:"Sự cùm chân và giết chết sinh mạng của nhũng
động vật khác để lấy thịt là nguồn gốc của sự hung dữ. Nên chúng ta phải tránh xa ra
và đừng có ăn thịt" (a).Trong những năm gần đây, giáo hội Hare Krishna đã phát động
phong trào khuyến khích mọi người ăn chay trên toàn thế giới. Srila Prabhupada, vị
lãnh đạo tinh thần của phong trào có lần đã nói:"Luật Manu-Sahimta cũng cấm việc
trả thù bằng cách lấy mạng đền mạng. Ngay cả giết một sinh vật nhỏ như con kiến
cũng chịu trách nhiệm về hậu quả của nghiệp chướng. Bởi vì chúng ta khơng sáng tạo
ra được những sinh vật đó nên chúng ta khơng có quyền cướp đi sinh mạng của
chúng. Vì thế pháp luật do lồi người đặt ra có sự phân biệt giữa sát sinh và sát nhân
là một thứ luật lệ khơng hồn mỹ. Theo luật cơng bình của Tạo Hóa, giết chết một
sinh vật có tội như giết chết một con người vậy. Chính 10 điều răn trong Thánh Kinh
cũng đã dạy không được sát sinh (Thou shalt not kill) là một thứ luật lệ vơ cùng hồn
12
hảo. Nhưng người ta đã cố ý din giải là không sát nhân"(a).Srila Prabhupada đề cập
đến khái niệm trong kinh Vệ Đà nhấn mạnh đến tính cách vạn vật đồng nhất thể như
sau:"Tất cả các sinh vật đều là con cái của Thượng Đế, nhưng được khoác dưới những
lớp áo có hình thái khác nhau. Thượng Đế là đấng cha lành tối cao của mn lồi. Một
người cha thì ln luôn thương yêu con cái một cách công bằng. Giá có một người
con nào đó tâu với cha rằng: Em con nó xấu xí và ngu dốt q. Xin phép cha cho con
giết nó đi. Liệu người cha có bằng lịng hay khơng? Do đó chúng ta có thể suy nghiệm
rằng chắc chắn Thượng Đế cũng sẽ không cho phép chúng ta giết hại sinh mạng của
những động vật khác vì chính chúng cũng đều là con cái của Thượng Đế và là anh em
của chúng ta"(a).Trong Phật Giáo, ăn chay để giữ giới sát sanh là một điều rất phổ cập
trong dân chúng. Cho nên đối với người Việt Nam mình, hể nói đến ăn chay thì mọi
người đều nghĩ ngay tới Phật Giáo. Trong kinh Pháp Cú, một quyển kinh chứa đựng
tồn những lời giáo hóa vàng ngọc của Đức Phật, nơi chương Hình Phạt, Ngài đã
dạy:"Khơng nên giết hại vì ai cũng muốn sống. Đồng thời cũng khơng nên gây tổn hại
cho mọi chúng sinh"(c). Dù chính mình khơng có trực tiếp cầm dao để sát hại súc vật.
Nhưng ăn thịt tức là gián tiếp cổ động người khác sát sinh.Trong Kinh Lăng Nghiêm,
Đức Phật đã dạy :"Ông A Nan, nếu các chúng sinh trong các thế giới ở sáu trần mà
tâm chẳng sát thì khơng bị sinh tử nối tiếp. Ông tu tam muội, gốc để vượt khỏi trần
lao, nếu sát tâm chẳng trừ thì khơng thể ra khỏi được. Dù có đa trí, thiền định hiện
tiền, nhưng chẳng đoạn nghiệp sát thì quyết sẽ lạc vào thần đạo. Thượng phẩm làm đại
lực, quỉ. Trung phẩm làm phi hành dạ xoa, các quỉ xoái. Hạ phẩm làm địa hành la sát.
Các quỉ thần ấy cũng có đệ tử, và tự tơn mình là vơ thượng đạo. Sau khi tôi diệt độ rồi,
nhiều quỉ thần hưng thịnh lên giả dạng làm Phật và nói : Ăn thịt cũng chứng được Bồ
Đề"(d)."Ơng A Nan, tơi khiến các tỳ kheo ăn ngũ tịnh nhục. Thịt đó đều do tơi dùng
thần lực hóa sanh, nên khơng có mạng căn. Vì rằng về đất Bà La Môn, phần nhiều ẩm
thấp, lại thêm nhiều đá, nên cây cỏ và rau không mọc được. Tôi dùng thần lực đại bi
giúp, nhân đức từ bi lớn, giả nói là thịt. Ơng được ăn các thứ đó". "Thế sau khi Như
Lai diệt rồi, các Thích Tử lại ăn thịt chúng sanh ?""Các ông nên biết : Người ăn thịt
đó, dù được tâm khai ngộ giống như tam ma địa, cũng đều bị quả báo đại la sát. Sau
khi chết, quyết bị chìm dắm biển khổ sinh tử, chẳng phải là đệ tử của Phật. Những
người như vậy giết nhau, ăn nhau. Cái nợ ăn nhau vướng chưa xong, làm sao người ấy
thoát ra khỏi Tam giới. Ông dạy người đời tu tam ma địa, phải đoạn nghiệp sát sinh.
Ấy gọi là lời dạy rõ ràng....Tôi nói như vậy là Phật nói. Nói khơng như vậy là ma nói".
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, bản dịch của đức Minh Trực Thiền Sư, có lời dạy như sau:
"Người tu theo chánh đạo
"Mn vật chớ tổn thương
"Lỗi mình hay xét thấy
13
"Mới hiệp đạo chơn thường
"Mn lồi tự có đạo
"Chớ giết hại lồi nào
"Lìa đạo mà tìm đạo
"Chung thân đạo khó vào"
Cũng theo kinh Pháp Bảo Đàn (Bản dịch của Luật sư Đinh Sĩ Trang), khi ngài Lục Tổ
Huệ Năng đến huyện Tào Khê thì bị bọn ác tâm tìm kiếm để hãm hại. Ngài phải lánh
sang vùng Tứ Hội để ty?nạn và ở chung với một nhóm thợ săn trong vòng 15 năm.
Trong thời gian này, ngài cũng lợi dụng lúc thuận tiện để thuyết pháp cho bọn chúng
nghe. Tuy nhiên nhóm thợ săn đơi khi bắt ngài phải giữ miệng lưới. Mỗi khi có thú lọt
vào bẫy thì ngài thả ra hết. Mỗi lần nấu thức ăn thì ngài bất đắc dĩ phải để chung rau
vào thịt và sau đó chỉ vớt rau ra ăn mà thơi (f).Theo đạo Hòa Hảo, trong 10 Điều Tâm
Huyết, Đức Phật Thày Tây An đã khuyên người đời ăn chay để giữ hạnh lành như sau
".....Điều thứ tư Pháp môn quy luật
"Hạnh trường chay cố sức trau giồi
"Thịt là xương máu tanh hôi
"Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn
"Đức Từ Bi thường hằng thể hiện
"Khơng sát sanh lịng thiện ta cịn
"Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon
"Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng....."
Trong đạo Cao Đài, cơ bút của Đức Diêu Trì Kim Mẫu đã viết trong bài Khuyến Nữ
Hồi Tâm như sau:".....Lắm phen rồi mẹ khuyên chay lạt"Gốc gì đâu sanh sát cấm ngăn
"Cũng tình liên lạc đồng bằng"Thú cầm vẫn thể linh căn Thượng Hồng...."Tuy chẳng
nói thân hình giống tạc
"Cũng biết ăn, biết khát, biết đau
"Phơi da lóc thịt làm sao
"Con ơi sao uống huyết đào đàn em....."
14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ CHÚ :
a. Theo quyển The Higher Tastes do Giáo hội Hare Krishna Úc Châu ấn tống
b. The New English Bible (Old Testament) do Oxford University Press và Cambridge
University Press xuất bản năm 1970
c. Lời Phật Dạy (Kinh Pháp Cú) do Luật sư Đinh Sĩ Trang dịch và ấn tống năm 1998
d. Kinh Lăng Nghiêm do Giáo sư Tuệ Quang và Thượng Tọa Trí Độ dịch, Nhóm Phật
tử New South Wales ấn tống năm 2535 Phật Lịch.
e. Tài liệu do Cư sĩ Kỳ Vân cung cấp
Kinh Pháp Bảo Đàn do Luật sư Đinh Sĩ Trang dịch và ấn tống năm 1999.
CHÚ THÍCH:
[1] Kitơ giáo được biết đến từ thế kỷ thứ nhất khi các môn đồ của Giêsu được gọi là
Kitô hữu tại thành Antioch (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Kitô giáo được đánh giá là
tôn giáo lớn nhất thế giới hiện nay.Kitô giáo là tơn giáo có đơng tín hữu nhất. Nhiều
phân tích nghiên cứu thống kê ước tính từ 1,5 tỉ đến 2,1 tỉ người xưng nhận niềm tin
Kitô giáo trong thập niên 1990. Theo Pew Research Center, vào năm 2010, Kitô giáo
có khoảng 2,2 tỷ tín hữu (chiếm 32% tổng dân số thế giới). Nguồn số liệu theo
Adherents.com, Kitơ giáo có trên 2,4 tỉ tín đồ.
[2] />[3] Cịn gọi là đạo Islam, là một tơn giáo độc thần thuộc nhóm các tơn giáo Abraham.
Đây là tơn giáo được đánh giá có tốc độ phát triển đang khá mạnh và lớn thứ hai trên
thế giới. Số tín đồ hiện nay là khoảng 1,5 tỷ (Nguồn số liệu theo Adherents.com).
Nguyên nghĩa của Hồi giáo trong tiếng Ả Rập là Islam và có nghĩa là “vâng mệnh,
quy phục Thượng đế”.
[4] Ấn Độ giáo có số lượng tín đồ 900 triệu (số liệu từ nguồn Adherents.com). Và Ấn
Độ giáo thuộc top những tôn giáo lớn nhất thế giới. Ấn Độ giáo bao gồm các vùng:
Nam Á, Đông Nam Á, Fiji, Guyana, Mauritus. Điểm chung của tất cả các nhánh Ấn
Độ giáo là việc tôn thờ Thánh tượng.
[5] Đạo giáo có xuất xứ nguồn gốc từ thế kỉ 4 TCN. Khi mà xuất hiện tác phẩm Đạo
Đức Kinh của Lão Tử và Đạo giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ.Theo số liệu thống
kê, Đạo giáo có số lượng tín đồ khoảng 400 triệu. Gồm các vùng lãnh thổ: Trung
Quốc là chủ yếu, Singapore, Malaysia, và cộng đồng người Hoa hải ngoại.
Đạo giáo có những quan niệm về vũ trụ và vạn vật, về nhân sinh và Đạo giáo cũng có
mối quan hệ với Phật giáo.
[6] “”
[7]
“”“”
15
[8] Sikh giáo hay cịn gọi là Tích-khắc giáo và được sáng lập vào thế kỉ thứ 15. Đạo
Sikh không có các giáo chức, nhưng trong các đền thờ của đạo Sikh. Thường có
những người có khả năng đọc được Sách kinh, gọi là Granthi, đứng ra trông coi việc
đạo. Sikh giáo có số lượng tín đồ vào khoảng 23 triệu và thuộc top những tôn giáo lớn
nhất thế giới hiện nay.
[9] Ước tính 14 triệu tín đồ. Vùng lãnh thổ chủ yếu: Israel, Mỹ, châu Âu. Do Thái giáo
là một tôn giáo đặt nền tảng trên Kinh Torah (là một phần của Kinh Tanakh hay Kinh
Thánh Hebrew), gắn liền với lịch sử dân tộc Do Thái. Vì đại đa số người theo Do Thái
giáo là người Do Thái nên tín đồ tơn giáo này cũng cịn được gọi là người Do Thái.
TẠP CHÍ
1.http />2. />
16