Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Triết học chính trị và quan điểm nhập thế của đạo phật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.87 KB, 7 trang )

Triết học Chính trị và Quan điểm Nhập thế của Đạo Phật
Tuy đức Phật khơng đề cập nhiều về chính trị, Ngài chỉ thuần chỉ dạy cho hàng đệ tử tu tập con
đường giải thoát nhưng tất cả lời dạy của ngài đều vì lợi ích cho chư thiên và lồi người.
Chương I. Dẫn Nhập.
Khi Đức Phật cịn tại thế, Ngài đã tìm thấy chân lý ngay trong cõi đời này, ngay cuộc sống hiện
tại này. Và chính Ngài đã dùng chân lý ấy phục vụ cho con người trong suốt 45 năm thuyết pháp
độ sanh. Do vậy vào thời Lý Trần, Phật giáo đã thể hiện một tinh thần nhập thế thật đậm nét và
đặt sắc không chỉ ở khía cạnh tậm linh giải thốt mà cịn chăm lo đời sống xã hội. Quốc Sư Viện
Chứng đã nói rõ về những nguyên tắt hướng dẫn đời sống của một nhà chính trị Phật tử “đã là
người phụng sự dân thì phải lấy cái muốn của dân làm cái muốn của mình, phải lấy ý muốn của
dân làm ý muốn của mình, trong khi đó khơng sao lãng việc tu học của bản thân”. Trần Thái Tơng
nói rằng “nhà chính trị phải thực hiện đạo Phật trong xã hội”. Tuệ Trung Thượng Sĩ nói “trong
lịng thế tục hịa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”.
Với một tinh thần vơ ngã, cịn tạo cho người giàu lịng vị tha, một yếu tố rất cần thiết với những
người lãnh đạo nếu muốn đem hạnh phúc thật dự đến cho dân và hợp lòng dân. Đức Phật dạy nếu
Ta tu hành được thanh tịnh, giải thốt rồi thì phải thường nghĩ đến những người xung quanh cịn
mê lầm, và cịn chìm đắm trong cảnh khổ đau, trói buột và lao mình vào những cảnh đó để cứu độ
tất cả chúng sanh, như vậy là người hết lịng vì Phật pháp. Nếu cứ nghĩ rằng là thanh tịnh giải
thốt, cịn thiên hạ là dơ bẩn, khổ đau rồi xa lánh họ, thì chính mình đã cơ lập vậy. Vì thế mục
đích cứu độ của các thiền sư đời Trần không chỉ chuyên tu tập để đạt được giải thốt, mà cịn đem
tinh thần giải thốt “hịa quang đồng trần” làm lợi ích cho nhân dân, xã tắc, nhất là trong giai
đoạn đất nước bị ngoại xâm đe dọa.
Chính vì vậy người viết đã chọn đề tài “Triết Học Chính trị Và Quan Điểm Nhập Thế của Đạo
Phật”, ở bài này người viết sẽ dựa vào các sử liệu Phật giáo thời Lý Trần về tư tưởng chính trị xã
hội thời bấy giờ để sáng tỏ tính nhập thế Phật giáo, hay nói cách khác Phật pháp khơng lìa thế
gian mà giác ngộ.
Chương II. Nội Dung
1. Khái niệm triết học chính trị.
Triết học chính trị nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước chính quyền, chính trị tự do, cơng
bằng, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ quan thẩm quyền.
Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị là trả lời các câu hỏi:


Những yếu tố kể trên là gì?
Tại sao lại phải có chúng?
Cái gì khiến cho chính quyền là hợp pháp?
Những quyền và tự do nào cần được bảo vệ và tại sao?
Luật pháp là gì và khi nào có thể hủy bỏ luật một cách hợp lẽ?
Trong ngôn ngữ thông thường, “Triết học chính trị” chỉ có nghĩa chỉ quan điểm chung, hoặc niềm
tin hay thái độ đạo đức cụ thể về chính trị mà khơng nhất thiết thuộc về chun nghành nào của
triết học.
Chính trị có hai nghĩa: 1. Những vấn đề điều hành bộ máy nhà nước hoặc những hoạt động của
giai cấp, chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành nhà nước: chế độ chính trị, tình
hình chính trị, hoạt động chính trị. 2. Những hiểu biết về mục đích, đường lối và nhiệm vụ đấu
tranh của các chính đảng cũng như đơng đảo quần chúng: cơng tác chính trị, giáo dục ý thức
chính trị [1].
2. Triết Học Xã Hội
Triết học xã hội là bộ môn triết học nghiên cứu về những vấn đề quan tâm trong hành vi xã hội
mà thường là hành vi của con người. Triết học xã hội đề cập đến nhiều vấn đề từ cá nhân con
người có ý nghĩa gì cho đến tính hợp pháp của luật lệ, từ khế ước xã hội cho đến các tiêu chí của
một cuộc cách mạng, từ chức năng của những hành động thường ngày cho đến tính hiệu quả của


mơn khoa học về văn hóa, từ những thay đổi trong phân bố nhân khẩu của con người cho đến trật
tự xã hội như trong cách tổ chức tập thể của một tổ ong.
Triết học xã hội còn hiểu theo nghĩa khác là một phân môn hẹp chuyên nghiên cứu việc áp dụng
các nguyên lý chung về đạo đức vào việc giải quyết các vấn đề như tự do, bình đẳng, cơng bằng
và nhà nước.
Thơng thường các nhà chính trị đấu tranh giành quyền lợi cho chính giai cấp hay tổ chức đảng
của mình. Họ có thể tuyệt tiêu đối phương vì quyền lợi của họ. Cịn đối với Phật giáo thì làm bất
cứ việc gì cũng phải vì lợi ích của quần chúng vì lợi ích và an lạc cho số đơng. Quan điểm chính
trị cũng dựa trên tinh thần này. Chính trị phật giáo cũng phải vì lợi ích chung cho dân tộc, cho đất
nước, cho cả nhân loại trên thế giới. Điều này thấy rõ qua quan điểm chính trị của các thiền sư

Việt Nam, đặc biệt là quốc sư Viên Chứng: “Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của
thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm thiên hạ làm tâm của mình. nay thiên hạ muốn đón bệ hạ
về, bệ hạ khơng về sao được? Tuy nhiên việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút nào quên”
[2].
Nói chung, triết học chính trị xã hội Phật giáo là những vấn đề những hoạt động trong xã hội liên
quan tới sự thịnh suy và ổn định của đất nước. Tất cả các hoạt động này phải vì lợi ích cho dân
tộc, vì lợi ích cho số đơng.
3. Quan điểm chính trị xã hội phật giáo thời Phật còn tại thế.
Như ta đã biết, sau khi đức Thế Tôn thành đạo dưới cội Bồ Đề, Đức Phật vì an laic, vì hạnh phúc
cho chư thiên và lồi người nên Ngài đi du hóa khắp nơi. Trong tâm Ngài khơng hề có sự phận
biệt giữa các giai cấp của xã hội Ấn Độ đương thời. Ai đủ dun thì Ngài hóa độ cho dù người đó
thuộc giai cấp bần cùng hay giai cấp cao quý. Theo quan điểm của Ngài con người vốn không có
giai cấp “Con người khơng có giai cấp khi nước mắt cùng mặn và dịng máu cùng đỏ”. Trong
Tăng đồn thì mọi người có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Chúng ta thấy Tăng đoàn là một tiểu
xã hội, mang tính dân chủ tuyệt đối. Mọi người trong Tăng đều có quyền biểu quyết đồng ý hay
khơng đồng ý khi Tăng đưa ra một vấn đề nào đó cần giải quyết. Vấn đề này được quyết định khi
tất cả thành viên trong Tăng đều tán thành. Điều này chúng ta thấy rõ qua pháp yết ma. Về mặt xã
hội đức Phật dạy xã hội muốn ổn định khơng có trộm cướp, nói dối, bạo động, thù hằn .v.v. thì
cần phải giúp dân thốt cảnh nghèo đói. Bởi vì nghèo đói là ngun nhân căn bản xảy ra trình
trạng đó. Vì thế, muốn cải thiện xã hội thì cần phải cải thiện kinh tế. Để cải thiện kinh tế Phật dạy
người cầm quyền cần phải làm “Cung cấp hạt giống và phương tiện canh tác cho các nhà nông.
Cung cấp vốn cho những người kinh doanh đầu tư; trả lương thích đáng cho cơng nhân. Đại bố
thí cho nhân dân thay thế các lễ tế đàn” [3].
Còn đối với hàng người dân bình thường thì phải biết quân bình cân đối trong việc thu chi. Phật
dạy: số tiền thu nhập được cần chia ra làm bốn phần
Phần thứ nhất: phát triển thêm nghề nghiệp
Phần thứ hai: tiêu dùng hàng ngày
Phần thứ ba: phịng khi bệnh tật
Phấn thứ tư: bố thí, cúng dường
Chúng ta thấy lời dạy của đức Phật cách nay hơn 2500 năm nhưng đem áp dụng vào đời sống

hiện tại vẫn cịn có giá trị rất cao. Hiện tại hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng biện
pháp này để cải tạo xã hội, giúp người dân thốt cảnh nghèo đói.
Mặt khác, muốn cho đất nước hùng mạnh đức Phật còn dạy cho các bậc đế vương lúc bấy giờ về
thập vương pháp. Đây là mười điều mà nhà vua và quần thần cần phải thực hiện để đem lại hạnh
phúc cho nhân dân
1. Vua độ lượng, bác ái, bố thí, khơng khát ái, khơng tham lam tiền của, tài sản
2. Giữ giới: không sát sinh, khơng bóc lột, khơng trộm cướp, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng
say sưa.
3. Hy sinh tất cả cho lợi ích dân chúng. Vị ấy (vua) sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân, danh
tiếng và ngay cả sự sống.
4. Thành thật và liêm khiết
5. Hiền từ và hòa ái


6. Khắc khổ trong nếp sống
7. Không được sân hận, khơng được tư thù
8. Nhẫn nhục trước mọi khó khăn, chỉ trích mà khơng để mất bình tĩnh.
9. Bất hại: khơng hại người, đề cao hịa bình, ngăn chặn chiến tranh và những bạo động phá hoại
sự sống.
10. Không chống lại ý muốn của nhân dân, thuận ý dân.
Chúng ta thấy ở điều thứ 3 thể hiện tinh thần hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích cho dân chúng. Có
như vậy mới thật sự là một vị vua, quan tốt, mới có thể xây dựng dất nước vững mạnh. Thực tế xã
hội ngày nay cho chúng ta thấy, những người cầm quyền mà chỉ lo phục vụ quyền lợi cá nhân mà
khơng nghĩ tới lợi ích chung của đất nước, của nhân dân thì chính họ đã làm cản trở đình trệ sự
phát triển của đất nước. Các cơng trình xây dựng của quốc gia bị rút ruột làm cho cơng trình kém
chất lượng khơng thể sử dụng được như bệnh viện Vĩnh Long xây dựng vừa xong chưa khánh
thành mà lại xuống cấp phải sửa chữa. Đã làm tốn biết bao tiền của và thời gian của nhân dân.
Bên cạnh đó, để đất nước vững mạnh đức Phật còn dạy thêm bảy pháp bất thối. Bảy điều làm cho
xã hội cường thịnh.
1. Tụ họp và tụ họp đơng đảo với nhau.

2. Tụ họp trong niệm đồn kết và giải tán làm việc trong niệm đoàn kết.
3. Sống đúng pháp luật, sống đúng với truyền thống của dân Vajji như đã ban hành thuở xưa.
4. Tơn sùng kính trọng đảnh lễ cúng dường các bậc trưởng lão và nghe theo lời dạy của những vị
này.
5. Khơng có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ phải sống với mình.
6. Tơn sùng kính trọng đảnh lể cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngồi tỉnh thành,
khơng bỏ phế các cúng lễ và làm đúng với quy pháp.
7. Bảo hộ che chở, ủng hộ đúng pháp các vị AlaHán ở tại Vajji và những vị ALaHán đã dược sống
an lạc
Bảy điều này được nhà Trần áp dụng một cách triệt để. Khi quân nguyên sang xâm lược nước ta
thì nhà Trần đã mở một cuộc tập họp các bơ lão thăm dị ý kiến của họ. Cuộc họp mà khi xưa gọi
là “Hội Nghị Duyên Hồng” đã làm nện kỳ tích cho dân tộc. Do thấm nhuần tư tưởng trị nước của
Phật giáo đã tạo nên sức mạnh giúp nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên, đội quân mà bách
chiến bách thắng từ Âu sang Á phải cuối đầu thất bại bởi một nước nhỏ bé.
Đức Phật dạy về phép trị nước cho các vua chúa khơng ngồi vì lợi ích và an lạc của quần chúng
nhân dân. Ngài khơng vì lợi ích riêng cho một cá nhân hay giai cấp nào. Tuy có dạy về chính trị
nhưng đức Phật chỉ là người đứng bên ngồi hướng dẫn chứ khơng trực tiếp tham gia vào chính
trị như Khổng Tử, Tuân Tử .v.v. quan điểm Phật rất rõ ràng khơng tham gia chính trị mà chỉ thuần
hướng dẫn đệ tử tu tập giải thốt “Giáo pháp ta chỉ thuần có một vị, vị đó chính là vị giải thốt”.
4. Quan điểm chính trị xã hội thời Lý Trần.
Vào thời điểm này, chúng ta thấy hầu như những vị Thiền sư có tiếng tăm đều tham gia vào chính
trị. Mục đích của các Ngài là bảo vệ hịa bình cho đất nước hầu đem lại hanh phúc an lạc cho
chúng sanh. Các Ngài cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho đất nước nhưng các Ngài khơng
có ý làm quan, khi xong việc thì về chùa tiếp tục tu hành, vinh hoa phú quý bỏ ngoài tai. Các
Ngài làm việc trong tinh thần vô trụ, vô chấp.
“Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vơ di tích chi ý
Thủy vơ lưu ảnh chi tâm”
Tiếp nối và phát huy lời Phật dạy “Vì lợi ích cho quần sanh, vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên

và loài người” các vị Thiền sư thời Lý Trần định hướng cho mình một triết lý sống. Sống cống
hiến cho dân tộc, cho đất nước, cho đạo pháp, khơng vì một cá nhân hay một dịng tộc nào. Triết
lý sống này “Nó đặt nghĩa lớn của dân tộc và đạo pháp lên trên những quyền lợi nhỏ nhen của cá
nhân và dịng họ, từ đó trở thành một triết lý hành động mẫu mực có những ảnh hưởng to lớn đến
cách ứng xử của nhiều người Phật tử Việt Nam về sau. Nó giúp cho họ có một thái độ đúng đắn,


lúc đất nước đang trải qua những giai đoạn khó khăn, rối ren cần có những quyết sách thích
hợp”[4]
Các Ngài sống theo tinh thần kinh Kim Cang “Tất cả các pháp đều là Phật pháp” cho nên các
Ngài lăn xả vào cuộc đời phục vụ cho đất nước đóng góp cho dân tộc. Đặc biệt là triết lý hành
động của Ngài Khuông Việt: “Triết lý hành động của Khuông Việt như thế dựa trên một nhận
thức luận coi cuộc đời là nơi mình có thể giải thốt được bằng chính nhận thức của mình. Thế
giới giác ngộ cũng như hành động của Phật giáo khơng nằm bên ngồi cuộc đời, và con người
khơng cần đi tìm bất cứ một thế giới nào khác. Điều này giải thích cho ta tại sao Khng Việt đã
ung dung tích cực tham gia vào việc nước, việc dân và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp
bảo vệ độc lập của tổ quốc, để lại một tấm gương sáng ngời cho nhiều thế hệ về sau noi theo” [5].
Khuông Việt và Pháp Thuận đã mạnh dạng tham gia vào mặt trận ngoại giao và giúp Lê Hồn
đón phái đồn ngoại giao của Trung Quốc do Lý Giác đứng đầu đi xứ qua nước ta. “Năm Đinh
Hợi thiên phúc thứ 8 (987) mùa xuân (…) nhà Tống lại sai Lý Giác đến chùa Sông Sách, vua sai
pháp sư tên Thuận giả làm giang lệnh đi đón. Giác rất giỏi làm văn chương (…) khi về đến sứ
quán, bèn đem bài thơ tặng (…) Thuận đem bài thơ dâng. Vua cho gọi Ngô Khuông Việt đến
xem. Khng Việt nói: bài thơ này tơn trọng bệ hạ cùng với chúa nó khơng khác, vua khen ý đó,
sai tặng thưởng càng nhiều. Khi Giác giả từ ra về, vua xuống chiếu cho Khuông Việt viết một
khúc nhạc để tiễn đưa” [6].
Như vậy, khơng chỉ có Khng Việt tham gia vào chính sự mà cịn có những vị khác như Đỗ
Pháp Thuận. Giai thoại về cuộc tiếp rước sứ của Pháp Thuận đã để lại cho đời một bài thơ tuyệt
tác. Pháp Thuận giả làm người lái đò đi rước sư sứ Tàu người trên đò dọc khi tới Ninh Thuận
thấy đơi ngỗng trắng bơi trên dịng nước trong xanh, Lý Giác thấy cảnh sinh tình liền đọc:
“Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha”
Tạm dịch:
“ Song song ngỗng một đơi
Ngưỡng mặt ngó ven trời”.
Khi ấy, Lý Giác đương tìm cách để tiếp hai câu thơ trên thì chú lái đị ở sau, tay vẫn cầm chèo bơi
mà miệng đọc:
“Bạch mau phơi lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba”
Tạm dịch:
“Lơng trắng phơi dịng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi”
Nhờ thế mà sứ giả nước Tàu xem vua ta ngang bằng với vua của họ nên họ khơng dám dịm ngó
xâm lược nước ta. Chúng ta biết chuyến đi sứ này là họ qua thăm dị tình hình nước ta. Nước ta
có ổn định và có nhân tài hay khơng để thực hiện ý đồ xâm lược và đô hộ ta. Vua ta lúc bấy giờ
rất sáng suốt chọn đúng người, cịn về phần Pháp Thuận đã hồn thành xuất sắc nhiệm vụ mà vua
và nhân dân giao phó làm cho sứ Tàu phải kính phục sát đất. Lê Hồn rất kính trọng Pháp Thuận,
ơng thường đem những việc nước tham vấn Ngài. Thời gian sau đất nước gặp nhiều khó khăn thù
trong giặc ngồi, Lê Đại Hành đến tham vấn thiền sư Pháp Thuận về vận nước, lúc đó Pháp
Thuận đáp:
“Vận nước như mây cuốn
Trời nam mở thái bình
Vơ vi trên điện cát
Xứ xứ hết đao binh” [7].
Chúng ta thấy tư tưởng chính trị của Pháp Thuận thật rõ ràng. Nhà nước phải nương vào dân, vận
nước ngắn dài tùy thuộc vào dân. Người lãnh đạo biết thu phục lịng dân, biết đồn kết với dân thì
nhà nước đó sẽ giữ vững lâu dài.
Ở thời điểm này cịn có Thiền sư Vạn Hạnh cũng mạnh dạng tham gia vào chính sự của đất nước
“Năm thiên Phúc thứ nhất (981) Hầu Nhân Bảo của nước Tống đến cướp, đóng quân ở Cương



Giáp Lạng Sơn. Vua mời sư đến đem chuyện thắng bại ra hỏi. Sư đáp: trong bảy ngày thì giặc sẽ
lui. Sau quả như thế” [8].
Vạn Hạnh đã trực tiếp tham gia chính trị và sự thành tựu tuyệt hảo nhất là xây dựng triều Lý một triều đại huy hồng nhất, sáng chói nhất, nhân đạo nhất trong lịch sử Việt Nam. Vạn Hạnh đã
dấn thân vào những hoạt động chính trị để đem lại những ảnh hưởng tốt đẹp cho nhà Lý. Nhà Lý
bắt đầu một giai đoạn tự chủ dân tộc thực sự của lịch sử Việt Nam, Vạn Hạnh chính là người gây
ý thức hệ dân tộc, đặt nền mống tâm linh của người Việt Nam, thể hiện sự ưu việt của cá tính và
đặc chất của Phật giáo và dân tộc Việt Nam. Dù có dấn thân hay khơng thì các thiền sư Việt Nam
bao giờ cũng đem đạo phụng sự cuộc đời, phụng sự dân tộc và quốc gia.
Có thể nói tư tưởng yêu nước của Vạn Hạnh rất mạnh, đã tích cực làm cố vấn cho Lê Đại Hành
trong việc xây dựng đất nước, sẵn sàng ủng hộ nhà Tiền Lê, nhưng cho đến khi những vị cuối
cùng của nhà Tiền Lê đánh mất vai trị lãnh đạo của mình Ngài đã quay sang ủng hộ triều Lý.
Quan điểm chính trị của Vạn Hạnh là phải đấu tranh thế nào để cho đất nước có người làm chủ.
Khi nào đất nước có người làm chủ thì Phật giáo mới có cơ hội phát triển và hưng thạnh.
Lợi ích của Phật giáo đã phụ thuộc vào lợi ích của dân tộc. Phật giáo khơng thể phát triển bên
ngồi dân tộc và càng khơng thể hưng thịnh khi dân tộc mất chủ quyền.Việc Vạn Hạnh phấn đấu
để yểm trợ và tạo điều kiện cho Lý Công Uẩn làm chủ đất nước thể hiện quan điểm nêu trên.
Khi nói tới Vạn Hạnh thì chúng ta ai cũng biết ơng có vai trị rất lớn trong việc lập nên nhà Lý.
Lúc bấy giờ Lê Long Đĩnh hoành hành bá đạo, xem mạng sống con người như cỏ rác, không
xứng đáng là bậc minh quân cho nên Vạn Hạnh muốn thay ngôi đổi chủ nhằm xây dựng lại một
nước đại Việt hùng mạnh. Theo nhãn quan Vạn Hạnh quan sát thì khơng ai có khả năng bằng Lý
Cơng Uẩn. Hơn nữa, Lý Công Uẩn xuất thân từ trong già lam, là người tài đức được Vạn Hạnh
dạy dỗ từ nhỏ. Do vậy, Vạn Hạnh sắp xếp cho Lý Cơng Uẩn lên ngơi. Ơng chuẩn bị rất chu đáo,
trước tiên ơng bày ra sấm ký để thu phục lịng dân vì việc làm của ơng thuận theo ý trời.
“Thụ căn cha cha
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành” [9].
Bên cạnh đó Vạn Hạnh cịn thuyết phục triều thần nhà Lê ủng hộ Lý Công Uẩn Như Đào Mộc
Cam. đây là một cuộc đảo chánh vẹn toàn, không đỗ máu đã được Vạn Hạnh chuẩn bị từ trước.
Sau khi cuộc đảo chính thành cơng, Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn liền lên kế hoạch dời đô. Kế

hoạch này trước nhất là để triều thần nhà Lê còn trung thành với chủ có thể gây bất lợi đối với
nhà nước mới chưa nắm vững được vương quyền và tạo được thế nước lâu dài cho con cháu đời
sau. Ta thấy, Vạn Hạnh là bậc kỳ tài về chính trị. Ông biết tiến thối đúng thời để giữ vững cơ
nghiệp thịnh trị của đất nước suốt mấy trăm năm. Vì thế vua Lý Nhân Tơng ca ngợi ơng.
“Vạn Hạnh dung tam thế
Chân phù cổ sấm ký
Hương quan danh cổ pháp
Trụ tích trấn vuong kỳ” [10].
Điều chúng ta đáng kính phục hơn nữa là sau khi hoàn thành kế hoạch của mình, Vạn Hạnh
khơng hề giữ quyền cao chức trọng mà trở về chùa tiếp tục cuộc sống đạm bạc. Trong khi đó Thái
Tổ là đệ tử của ơng, hơn nữa cơ nghiệp nhà Lý có được là do một tay ơng sắp đặt. Điều này đã
thể hiện tính vơ trụ, vô chấp của ông. Vạn Hạnh thật xứng đáng là bậc thánh tăng đương thời
đáng để cho người hậu thế noi theo.
Tư tưởng chính trị, trị nước được các thiền sư chỉ bày rất rõ ràng, trong sáng có thể làm nền tảng
trị nước cho dù ở bất kỳ thời đại nào. Như thiền sư Viên Thông giải bày với vua Lý Thần Tông về
lẽ trị loạn hưng vong của đất nước.
Thiên hạ cũng như một đồ vật để nó vào nơi n thì n, vào nơi nguy thì nguy, cốt trông ở chỗ
sở hành của nhà vua, nếu có cái đức hiếu sinh thấm vào lịng dân thì dân yêu như cha mẹ, ngóng
như trời trăng “ấy là dắt thiên hạ vào nơi yên đó, lại trị và loạn ở nơi trăm quan, được ngơi thì trị
khơng được ngơi thì loạn. Tơi trải xem các bậc đế vương đời trước chưa có khi nào khơng dùng
bậc qn tử mà hưng, không dùng bậc tiểu nhân mà vong, mà đến như thế chẳng phải một mai


một chiều đâu, tự nó dần dần lại vậy. Trời đất khơng thể thay nóng đổi rét liền mà dần dần ở mùa
xuân, mùa thu. Bậc vua chúa không thể làm hưng hay vong liền mà ở sự thiện hay ác. Bậc thánh
vương xưa biết như thế cho nên mới bắt chước đức trời khơng nghỉ để sửa mình, bắt chước đức,
đất khơng nghỉ để u người. Sửa mình là thận trọng ở bề trong, run sợ như giẫm trên băng
mỏng. Yêu dân là kính kẻ dưới, hãi hùng như cởi ngựa nắm day cương mục, theo lối đó thì hưng,
trái đi thì vong. Sự hưng vong là dần dần sinh ra thơi”.[11]
Qua đây chúng ta thấy, tư tưởng chính trị thời Lý, Trần cũng khơng khác gì về tư tưởng độ sanh ở

thời Phật. Tất cả vì lợi ích và hạnh phúc cho quần sanh. Tùy thời mà các vị thiền sư có cách thể
hiện khác nhau, nhưng khơng ngồi mục đích là đem lại an lạc và hạnh phúc đến với người. Như
quốc sư Viên Chứng dạy Trần Thái Tơng khi ơng trốn khởi hồng cung tìm quốc sư và triều thần
đến mời ông về ông không chịu về thì Ngài Viên Chứng nói: “Phàm làm đấng nhân quân, thì phải
lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm thiên hạ làm tâm của mình. nay thiên hạ
muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên, việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ
đừng phút nào quên”[12]. Các Ngài theo tư tưởng “tùy duyên bất biến” mà độ đời làm lợi ích cho
đời.
5. Tư tưởng chính trị xã hội Phật giáo hiện đại.
Trong bối cảnh hiện đại, đất nước chúng ta sống trong cảnh hịa bình n ổn, nền kinh tế đang
phát triển, trên đà hội nhập với kinh tế thế giới. Giới Tăng sĩ chúng ta đã làm gì, đang làm gì và
sẽ làm gì để cho nhân dân được ấm no hạnh phúc cho đất nước được giàu mạnh sánh vai với các
cường quốc năm châu.
Như chúng ta đã biết tôn giáo là nơi tập hợp quần chúng. Hơn thế nữa, Phật giáo chúng ta đã gắn
liền với lịch sử dân tộc hơn hai ngàn năm. Dân tộc, đất nước thịnh thì Phật giáo phát triển, cịn
đất nước suy thì Phật giáo cũng bị ảnh hưởng. Nói đúng hơn, con người Việt Nam gắn liền với
Phật giáo Việt Nam, hầu hết nhân dân Việt Nam đều là Phật tử hoặc ông cha của họ cũng là Phật
tử. Với điều kiện thuận lợi này Phật giáo chúng ta phải biết kêu gọi đồng bào Phật tử phải đoàn
kết thương u và chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau. Có đồn kết, có tình thương thì mới có đủ sức mạnh
về thể chất và tinh thần chống lại âm mưu của ngoại bang dịm ngó để chống phá nền hịa bình và
độc lập của chúng ta. “Đoàn kết, đoàn kết đại đồn kết; thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Lịch sử đã chứng minh cho ta thấy, có tinh thần đồn kết thì đời Trần mới có đủ sức mạnh ba lần
đánh bại quân Nguyên viết lên trang sử hào hùng cho dân tộc nói chung cho Phật giáo nói riêng.
Mặt khác, năm nay (2008) nước ta lần đầu tiên được đăng cai tổ chức đại lễ Phật Đản Liên Hiệp
Quốc, được sự hỗ trợ của chính phủ. Đại lễ này mang một ý nghĩa chính trị rất lớn, Phật giáo
chúng ta tổ chức đại lễ này thành cơng thì cũng đã giúp cho nền chính trị nước nhà ổn định.
Khi Phật cịn tại thế thì Ngài khơng cho hàng đệ tử xuất gia làm kinh tế và chính trị nhưng ở thời
điểm hiện nay, xã hội đang phụ thuộc vào kinh tế thị trường. Có nền kinh tế phát triển và vững
mạnh thì nhân dân mới có thể sống trong ấm no hạnh phúc, vì thế giáo hội Phật giáo Việt Nam
nên có định hướng phát triển kinh tế. Vả lại, có kinh tế thì mới có thể thực hiện được Phật sự và

phát triển Phật giáo sâu rộng vào mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, làm kinh tế hay bất cứ việc
gì cũng phải phát xuất từ tâm niệm là vì lợi ích cho quần sanh. Nếu thiếu đi tâm niệm này thì sẽ
bị mất gốc. Cho dù mang hình thức Phật giáo mà chỉ làm vì lợi ích của cá nhân mình mà khơng
nghĩ tới lợi ích của người khác thì chẳng cịn ý nghĩa của người con Phật đang làm Phật sự nữa.
Vì an lạc, vì lợi ích cho quần sanh là quan điểm sống của Phật giáo xuyên suốt từ xưa đến nay.
Muốn thực hiện được lý tưởng này thì bản thân của mỗi người con Phật phải rèn luyện cho mình
đầy đủ giới đức, tự hoàn thiện bản thân, phục vụ chúng sanh với tinh thần vô trụ, vô chấp.
Mặt khác giáo hội Phật giáo việt nam cần phải bồi dưỡng đào tạo nhân tài, đào tạo cho lớp Tăng
Ni trẻ có đầy đủ kiến thức thế học lẫn Phật học. Tuy nhiên cần phải chú trọng về mặt đạo đức.
Thiếu đạo đức, đặc biệt là người tu sĩ thì sẽ mất đi giá trị của người tu. Từ xưa cổ đức đã thấy rỏ
điều này nên dạy: “giới luật là mạng mạch của Phật pháp, giới luật còn là Phật pháp còn”. Cho
nên giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phải định hướng cho thế hệ Tăng Ni trẻ. Đào tạo nhân tài
cho Phật giáo cũng chính là đào tạo nhân tài cho đất nước vì nhân tài là linh hơn của đất nước.
Ngày xưa tổ tiên ta đã đào tạo nhiều bậc anh tài xuất thân từ Phật giáo như: Thiền sư Mãn Giác,
Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn . . . những vị này đã thay đổi lịch sử, nắm lấy vận


mênh của đất nước. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định nhân tài là tinh hoa được kết tinh của đất
nước của dân tộc.
Hơn thế nữa, đức Phật không chỉ đem hạnh phúc và an lạc cho con người bằng sự cải cách xã hội
mà còn phải cải tạo tâm thức. Hạnh phúc an lạc thật sự của con người khơng chỉ tìm cầu bên
ngồi mà được, mà cần phải chuyển hóa tâm thức “Con đường đưa đến thủ đắc vật chất là một
con đường đưa đến Niết Bàn là một con đường khác”. Đức Phật dạy muốn chấm dứt khổ đau thì
phải đoạn trừ tham ái. Chính tham ái mà con người phải trơi lăn trong vịng sanh tử từ vơ thủy
cho đến nay và cịn mãi mãi về sau nữa “Sự tham ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham,
tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia; như dục ái, hữu ái, vô hữu ái. Này chư hiền như vậy là khổ tập
thánh đế” [13]. Mà còn đường đoạn trừ tham ái, chấm dứt khổ đau chứng nhập Niết Bàn là con
đường Bát Chánh Đạo “Thế nào là khổ diệt thánh đế? Đó là Thánh đạo tám ngành, tức là chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh
định” [14]. Sự đoạn trừ khổ đau chứng nhập Niết Bàn mới là mục đích tối hậu mà Phật giáo

hướng đến “Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri
kiến”
Chương III. Kết Luận.
Thời Phật còn tại thế, trong suốt cuộc đời, Ngài vì lợi ích cho quần sanh mà khơng ngại gì gian
khổ, thời tiết khắc nghiệt, đầu trần chân đất đi khắp xứ An mà giáo hóa chúng sanh. Ngài đã ngăn
chặn cuộc chiến giữa hai quốc gia chỉ vì tranh giành một dịng sơng. Đức Phật đã cống hiến cả
cuộc đời mình cho hạnh phúc của nhân loại.
Cho dù ở vị thế nào, là thứ dân hay cấp lãnh đạo Phật giáo cũng vì lợi ích cho số đơng, lợi ích cho
đất nước và dân tộc. Khơng vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại cho đất nước. Lịch sử đã chứng
minh điều này, qua các thời đại Lý Trần. Thời đại này vua chúa cai trị đất nước theo tư tưởng vì
lợi ích cho quần sanh của Phật giáo mà xây dựng đất nước hùng mạnh viết nên trang sử vàng son
của đất nước.
Tuy đức Phật khơng đề cập nhiều về chính trị, Ngài chỉ thuần chỉ dạy cho hàng đệ tử tu tập con
đường giải thoát nhưng tất cả lời dạy của ngài đều vì lợi ích cho chư thiên và lồi người. Cũng
trên tinh thần này, mà chư Tổ hay các vị Thiền sư đã mạnh dạng vấn thân vào con đường chính trị
để phục vụ nhân sanh. Cứu giúp nhân sanh ra khỏi cảnh dầu sôi lửa bổng của chiến tranh, giữ
vững nền độc lập tự do cho đất nước. Các ngài hành động khơng vì lợi ích cho riêng mình mà vì
lợi ích chung của trăm họ. Do đó mà đã tạo ra con đường chính trị của phật giáo, con đường này
là con đường phục vụ chúng sanh, “phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật”.
TN. Liên Thảo



×