Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN môn TRIẾT học tôn GIÁO đề tài QUAN điểm về NGHIỆP báo THEO bà LA môn GIÁO và PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.44 KB, 18 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN MƠN TRIẾT HỌC TƠN GIÁO

Đề tài:
QUAN ĐIỂM VỀ NGHIỆP BÁO THEO BÀ LA MÔN
GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

TP. Hồ Chí Minh, năm 2022.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN MƠN TRIẾT HỌC TƠN GIÁO

Đề tài:
QUAN ĐIỂM VỀ NGHIỆP BÁO THEO BÀ LA MÔN
GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Giác Duyên
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Can
Pháp dmình: Trí Cường
Mã sinh viên: TX 6031
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2022.



MỤC LỤC
A.DẪN NHẬP. ...............................................................................................................................1
B.NỘI DUNG...................................................................................................................................2

CHƯƠNG 1:SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT
HỌC TƠN GIÁO
1.1. Triết học tôn giáo trước thời Kant.......................................................................3
1.1.1.Thời Hy Lạp cổ đại............................................................................................3
1.1.2.Thời kỳ thần học trung cổ tây âu(476-1453).....................................................3
1.1.3.Thời kỳ phục hưng(TK 15-16) ..........................................................................3
1.1.4.Thời kỳ thần luận tự nhiên(TK17-18) ...............................................................4
1.2.Triết học tôn giáo của Kant(1724-1804) ..............................................................4
1.3. Triết học tôn giáo sau thời Kant..........................................................................4
1.3.1. Triết học tôn giáo của Schleier Macher(1768-1834) ........................................4
1.3.2. Triết học tôn giáo của Hegel(1770-1831) .........................................................4
CHƯƠNG 2:QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP BÁO TRONG BÀ LA MƠN VÀ PHẬT
GIÁO
2.1.Nghiệp trong Bà La Mơn Giáo.........................................................................................5
2.2.Nghiệp Trong Phật Giáo.....................................................................................................7
CHƯƠNG 3:ỨNG DỤNG TU TẬP VÀ VẬN DỤNG HỌC THYẾT NHÂN QUẢ
NGHIỆP BÁO CỦA ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI CƯ SĨ
3.1.Tin và sống theo định luật nhân quả..................................................................12
3.2. Tịnh hóa tam nghiệp............................................................. ...........................13

C.KẾT LUẬN................................................................................................................................16
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................17


A.DẪN NHẬP

Trong cuộc sống, con người luôn phải đối mặt với rất nhiều nguy hiểm. Một trong số
đó là thiên tai, dịch bệnh. Và đại dịch Covid-19 đang xảy ra ở hiện tại đã ảnh hưởng
rất lớn đến cuộc sống của con người. Ngoài việc thay đổi các thể thức và thực hành
tôn giáo, Covid-19 cũng đã khơi mào cho các loại phân tích và trmình luận mới về tơn
giáo. Ví dụ, ở Indonesia, cuộc phong tỏa đại dịch đã làm dấy lên những câu hỏi quan
trọng về bản chất và mục đích của việc cầu nguyện trong Hồi giáo; và phúc lợi cá
nhân của một người là quan trọng hay nghĩa vụ của một người đối với Thượng đế là
quan trọng hơn.Tương tự, ở Sri Lanka, virus đã khiến các Phật tử suy ngẫm về cách
thức và lý do tại sao đại dịch lại xuất hiện và các bước cần thiết để ứng phó với nó.Có
một lập luận chung liên quan đến sự hữu ích của giáo pháp Phật giáo, đó là học thuyết
nhân quả nghiệp xem như một cách giải quyết cuộc khủng hoảng Covid-19 và giúp
hiểu rõ nguồn gốc của nó. Một trong số những cách tiếp cận đã được phổ biến rộng rãi
ở Thiên Chúa giáo phương Tây là thuyết hữu thần, cho rằng số phận của con người, về
cơ bản, chịu sự quyết định của Thượng đế. Thượng đế quyết định người nào xứng
đáng được smình lên thiên đường hoặc đọa xuống địa ngục. Nhóm thứ hai thì tin vào
thuyết định mệnh. Theo thuyết định mệnh, mỗi một người trong chúng ta đều có số
phận nhất định và chúng ta không thể nào thay đổi được. Theo cách nói của thuyết
này: “Cái gì đến thì sẽ đến”. Trong triết thuyết này, nhân tố quyết định số phận không
phải là một đấng Thượng đế như trong thuyết hữu thần, mà là một sức mạnh siêu
nhiên thần bí, được gọi là “số phận”, học thuyết này nâng sự hiểu biết và khả năng của
chúng ta lên một tầm cao mới để thuyết phục, để thu hút. Và cịn có một nhóm thứ ba
thì quan niệm hồn tồn trái ngược, theo nhóm này thì mọi thứ đều diễn ra một cách
ngẫu nhiên. Đây là lý luận của học thuyết bất định. Những người theo học thuyết bất
định tin rằng, nếu người nào may mắn thì người đó sẽ có được hạnh phúc và thành
cơng trong cuộc sống, nếu người nào kém may mắn thì phải chịu đau khổ hoặc thất
bại. Và tất cả những gì con người thọ nhận đều khơng do một q trình quyết định nào
cả, mà chỉ là sự tình cờ, sự trùng lặp ngẫu nhiên.Cả ba trường phái này, Phật giáo đều
không tán đồng. Thế thì câu trả lời của Phật giáo và Bà la mơn đối với điều bí ẩn về
nghiệp báo là gì? Vì lẽ đó học viên chọn : “Quan niệm về Nghiệp báo theo Bà-la-môn
giáo và Phật giáo”làm đề tài nghiên cứu và để cho bài viết có giá trị về nội dung cũng

như đầy đủ ý nghĩa, người viết dùng cách phân tích, tổng hợp, lập luận và chứng
minh,so sánh để làm sáng tỏ mạnh đề ,từ đó đi đến kết luận và ứng dụng trong đời
sống hành ngày. Để hoàn thành cuốn tiểu luận này con xin thành kính tri ân đãnh lễ
Hội đồng điều hành Học viện – Học viện phật giáo tại TP. Hồ Chí Minh và chư giáo
thọ sư đã hết lịng dạy dỗ, khích lệ, giúp đỡ cho con trong những tháng ngày theo học
giáo pháp tại Học viện. Đặc biệt con xin thành kính tri ân và đãnh lễ Giáo Thọ Sư:
TT.TS. Thích Giác Duyên người trực tiếp dạy dỗ, hướng dẫn cho con thực hiện đề tài
này. Trong quá trình thực hiện đề tài, do sở học còn non kém, chắc chắn sẽ cịn nhiều
thiếu sót. Kính mong được sự chỉ dạy thêm từ Giáo Thọ Sư cùng chư Tôn Đức .


B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TRIẾT HỌC TƠN GIÁO
Triết học tơn giáo, theo nghĩa hẹp, là một bộ môn triết học độc lập mà đối tượng của
nó là tơn giáo. Thuật ngữ "triết học tôn giáo" lần đầu tiên xuất hiện ở Đức, vào cuối
thế kỷ XVIII, được I. Cantơ đưa ra trong tác phẩm Tơn giáo chỉ nằm trong giới của lý
tính.Khi đó, tôn giáo được xem như là đối tượng suy tư triết học và với tư cách là một
trong những hiện tượng của văn hoá ngang hàng vởi khoa học, pháp luật, nghệ thuật...
Cịn khi tơn giáo trở thành đối tượng của phân tích triết học, của phê phán vả đánh giá
từ quan điểm các phương pháp và lý luận nghiên cứu khoa học thì triết học về tơn giáo
được xem là một bộ phận của khoa học về tôn giáo, hay cịn gọi là tơn giáo học, ngang
hàng và các môn tâm lý, xã hội học và lịch sử tôn giáo.Như vậy, bộ mơn triết học tơn
giáo đã có bề dày lịch sử hai thế kỷ,triết học tôn giáo chia ra làm ba giai đoạn như sau.
1.1. Triết học tôn giáo trước thời Kant
1.1.1.Thời Hy Lạp cổ đại
a.Xenophane(570-478 TCN).Ông đề cập đến tính hình đồng giữa thần và con
người(thần cũng có những tính cách giống như con người,từ dung mao đến tính
cách).Cịn thần chân chánh thì phải thấy tất cả,nghe tất cả,vĩnh hằng,có một sức vơ

địch khiến cho tất cả vận động,đó chính là đấng quyền năng sáng tạo.
b.Socrate(469-399 TCN).Ơng thảo luận nhiều về đạo đức và tơn giáo,tìm hiểu về các
nguyên nhân của các hiện tượng.Theo ông mọi cái trên thế giới điều do thần thánh
sáng tạo ra để làm lợi ích cho con người.
c.Platon(427-347TCN).Theo ơng ,có sự tồn tại thế giới kinh nghiệm hiện thực và thế
giới kinh nghiệm siêu việt.Ông cho rằng linh hồn là cái bất tử,cịn thể xát thì mất đi
khơng tồn tại ,linh hồn theo ơng có hai:
+Linh hồn vũ trụ:nhận thức được thế giới,điều khiển được thế giới.
+Linh hồn con người:có thiện và ác(điều từ thần đem đến).
c.Aristote(384-322 TCN).Ông phê phán ý niệm của Platon qua bốn điểm như sau:
+ Không hợp lý khi ý thức tồn tại độc lập.
+Thế giới của Platon chỉ mô phỏng chứ không phải hiện tượng để mô tả bản chất.
+Có nhiều đểm mất logic.
+Là những bản chất vĩnh cửu.
Ơng tin rằng có một thế giới vạn vật điều có một nguyên nhân cuối cùng và lực tác
động đầu tiên.Đó chính là năng lực bên ngồi của thế giới hiện tượng là chỉ cho
thượng đế(kết quả tất nhiên tồn tại siêu việt mà chúng ta tìm cầu).
1.1.2.Thời kỳ thần học trung cổ tây âu(476-1453)
Thời kỳ này thần học chiếm ưu thế hơn triết học.Các triết gia chủ yếu như
a.Agustin(ơng đề cập đến niềm tin có ba nhóm,thứ nhất :Khách thể khơng cần sự can
thiệp của lý trí mà vẫn tin như các sự kiện chân lý lịch sử,thứ hai:Khách thể cần được
lý giải,thứ ba:Khách thể chỉ biết tin đó là chân lý của tơn giáo).
b.Thomas Daquin(ơng cho rằng lý tính tự nhiên của con người là sai,chỉ có lý tính
khải thị của thượng đế mới đúng thơi.
1.1.3.Thời kỳ phục hưng(TK 15-16)


Triết học duy vật thốt khỏi thần học nhưng cịn mang nặng triết học duy tâm,trong
khi đó triết học kinh viện bị hoài nghi nên dẫn đến việc cải cách tơn giáo.Các hiền
triết điển hình như

a.Niconlas Conoernicus (ơng đã tìm ra nhiều vùng đất mới,lý thuyết nhật tâm trái với
thuyết địa tâm của thiên chúa).
b.Giordano filppo Bruno(ông cho rằng thế giới tự nhiên là thượng đế trong sự vật hiện
tượng).
1.1.4.Thời kỳ thần luận tự nhiên(TK17-18)
Đề cao lý tính tự nhiên của con người,bỏ đi lý tính thiên khải của thần,coi tôn giáo
chân chánh là tôn giáo nên lý giải biểu đạt bản tính con người.Triết giai tiêu biểu trong
thời kỳ này là Denis Diderot(1713-1784),ơng cho rằng khơng có chúa vì khơng cần có
chúa vẫn có vạn vật ,chúa là do con người thần thánh hóa mà tạo ra.
1.2.Triết học tơn giáo của Kant(1724-1804)
Triết học tôn giáo của Kant phản ánh xu thế thế tục hóa trong đời sống sinh hoạt Kitô
giáo và khuynh hướng phân ly giữa nhà nước và Giáo hội Kitơ, dẫn tới sự hình thành
các nhà nước thế tục sau Cách mạng tư sản Pháp 1789-1794. Điều đó càng minh
chứng cho luận điểm của B.Pascal (1623-1662): “Thượng đế trong quan niệm của các
triết gia khác với Thượng đế trong Kinh thánh”, nói cách khác, triết học tơn giáo khác
với thần học. Triết học tôn giáo của I.Kant đi theo một hướng khác với các nhà thần
học đương thời, nhưng đã có đóng góp lớn trong cả lĩnh vực triết học tôn giáo lẫn
ngành tôn giáo học hiện đại.
1.3. Triết học tôn giáo sau thời Kant
1.3.1. Triết học tơn giáo của Schleier Macher(1768-1834)
Schleiermacher đã tìm thấy bản chất của tôn giáo qua kinh nghiệm; và bản chất của
từng trải trong sự nhận thức mang tính độc lập của kẻ tin. Ông đã đưa điều này trở nên
vấn đề then chốt cho từng tính chất Thần học Cơ Đốc giáo khác. Đức Chúa Trời hiện
hữu ngay trên điều mà chúng ta tùy thuộc. Tội lỗi là một điều thất bại của cảm giác
chúng ta khi chúng ta lại muốn biệt lập khỏi Ngài. Chúa Giê-xu Christ là một Đấng
hoàn toàn độc lập với Đức Chúa Cha trong mỗi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài.
Sự độc lập này kết hợp sự hiện hữu của Đức Chúa Trời ở trong Ngài. Sứ mạng của
Chúa Christ là làm cho hòa hợp sự độc lập này cho những người khác.
1.3.2. Triết học tôn giáo của Hegel(1770-1831)
Hegel đã đưa ra được những quan điểm về tôn giáo hết sức sâu sắc và thực tiễn. Ơng

gắn triết học với tơn giáo, xem triết học và tơn giáo có nội dung, nhu cầu và mối quan
tâm chung. Triết học và tôn giáo không khác biệt. Ơng tập trung nghiên cứu đối tượng
của tơn giáo là chân lý vĩnh cửu trong tính khách quan, là chúa và luận giải về chúa,
về cái tuyệt đối. Tìm hiểu sự ảnh hưởng của tơn giáo đối với đời sống xã hội, với giai
cấp tổ chức và nhà nước và quá trình đấu trmình bảo vệ quan điểm của mình.


CHƯƠNG 2
QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP BÁO TRONG BÀ LA MÔN VÀ PHẬT GIÁO
Trong đời sống thường nhật dường như nghiệp đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc
trong đời sống của mọi người. Khi trải nghiệm một cảm giác nào đó, dù hài lịng hay
phật ý, tốt hay xấu, thành cơng hay thất bại, chúng ta thường có khuynh hướng đem
nghiệp ra đỗ lỗi. Khi cảm giác hạnh phúc hiện hữu trong chúng ta, chúng ta thường
cho rằng, đó là do nghiệp tốt, thiện từ quá khứ của chúng ta. Ngược lại, khi cảm nhận
sự thất bại, bất an, hay khổ đau, chúng ta thường đổ lỗi cho nghiệp xấu, ác. Điều đáng
nói là, thậm chí khơng ít Phật tử đã quy y Tam Bảo lâu năm vẫn cho rằng đây là
nghiệp của Phật giáo. Từ đó dấy lên ý kiến cho rằng khơng nhiều người biết chính xác
nghiệp là gì. Thực sự khơng khó lắm để nhận ra tại sao ít người hiểu tường tận về
nghiệp. Đó là bởi vì nghiệp có lịch sử phát triển lâu dài. Trong khả năng hiểu biết của
người viết cho rằng tại Ấn Độ, có ba tơn giáo bàn đến thuyết Nghiệp: Bà La Môn
giáo, Kỳ Na Giáo, và Phật giáo. Bởi thế, chắc chắn rằng ý nghĩa của nghiệp hẳn khác
nhau giữa ba tôn giáo này. Cách dùng từ nghiệp của người bình thường cho chúng ta
biết rằng họ đánh đồng nghiệp với thuyết định mệnh hay tiền định . Điều đó hàm ý
rằng họ không thể phân biệt nghiệp của Phật giáo với hai tơn giáo kia. Và đó là lý do
người viết dùng bài nghiên cứu này để khảo sát Nghiệp trong từng tôn giáo riêng biệt
cũng như học thuyết về nghiệp được phát triển như thế nào bắt đầu từ Bà La Môn
giáo, đến Phật giáo.
2.1.Nghiệp trong Bà La Môn Giáo
Học thuyết về Nghiệp khống chế nền triết học Ấn Độ trước, trong, và sau thời đức
Phật. Chúng ta khơng nghe tơn giáo nào khác bàn về Nghiệp ngồi ba tôn giáo: Bà La

Môn giáo, Kỳ Na giáo, và Phật giáo. Trước hết, tôi muốn bàn về Nghiệp trong Bà La
Môn giáo. Theo triết học Ấn Độ, thể loại văn học sớm nhất của nước này là Vệ Đà
(Vedas), được sáng tác sớm nhất vào khoảng thế kỷ 15 trước tây lịch[1]. Có bốn loại
Vệ Đà: Rg Veda, Sāma Veda, Yajur Veda, và Athurva Veda. Giới nghiên cứu cho rằng
Rg Veda, Sāma Veda, Yajur Veda là những phiên bản gốc, còn Athurva Veda được
thêm vào thời gian sau này. Mỗi tác phẩm Vệ Đà được chia thành ba phần: Saṁhitās,
Brāhmanas, và Āranyakas. The Upanisads, vốn chứa đựng nhiều lĩnh vực triết lý, tạo
ra phần cuối của Vệ Đà (Āranyakas). Trong số bốn tác phẩm Vệ Đà, phải nói rằng, Rg
Veda có thẩm quyền và giá trị văn học hơn cả.Điểm cơ bản đầu tiên trong thuyết
nghiệp cùa Bà La Mơn giáo được nói đến trong phần Rta thuộc Rg Veda. Về mặt
nghĩa đen, Rta là trật tự của vũ trụ, vạn vật[2]. Chính từ cái Rta này, người ta tin quy
luật về Nghiệp trong tư tưởng Ấn Độ được phát sinh. Quy luật này lan tỏa khắp vũ trụ.
Nó điều khiển thiên nhiên một cách nhất quán. Thượng đế hay con người đều phải
tuân thủ quy luật Rta. Đây là quy luật đạo đức, quy luật xã hội cũng như quy luật tế
thần. Để mang lại kết quả tốt đẹp, mọi hành động trong lễ tế thần phải tuân thủ quy
luật của Rta. Theo những gì được đề cập trong Rg Veda, tế thần được tin là một hình
thức của Nghiệp, cái đem lại những kết quả như trông đợi nếu hành động được thực
hiện một cách “thích hợp”. Khi hành lễ tế thần, người ta phải tuân thủ từng bước một
cách tuyệt đối. Thậm chí những sai khác trong từng chi tiết nhỏ nhặt lúc hành lễ cũng
đủ làm hỏng tất cả khóa lễ tế thần. Nhưng nếu lễ tế thần được thực hiện một cách
thích hợp, kết quả tốt đẹp và được trông đợi chắc chắn sẽ xảy ra. Khơng ai hay bất cứ
điều gì có thể ngăn cản được. Hay nói cách khác, người ta tin chắc rằng tế thần được


thực hiện theo giáo lý Vệ Đà tạo ra Nghiệp tốt đẹp; nghiệp này sẽ đem lại kết như ý.
Tế thần trong Bà La Môn giáo được cho là một loại trách nhiệm duy nhất. Nó được
gọi là hành động (Karma or Kriya) và là quy luật vĩnh hằng, không thay đổi. Những
buổi lễ huyền bí, dù tốt đẹp hay xấu ác, đạo đức hay phi đạo đức, đều đã được sắp đặt
để phát sinh những kết quả của nó. Do đó, cái Nghiệp trong Bà La Mơn giáo khơng
liên quan gì đến tái sanh. Người ta nói đến tốt đẹp hay xấu ác với ý nghĩa rằng, họ làm

lễ tế thần đúng hay sai theo các bước đã quy định sẵn. Sau khi chết, người ta sẽ được
hỏa táng, trở về với tổ tiên, và sống ở trên mặt trời. Cịn khi trở lại mặt đất, họ sẽ có
thân thể, đồn tụ với gia đình. Điều này được hiểu rằng có hai thế giới: thế giới này và
thế giới bên kia (ngụ ý thế giới tổ tiên mà họ trở về sau khi chết). Trong giai đoạn phát
triển về sau của Bà La Môn giáo được gọi là giai đoạn Upanisads, học thuyết về
Nghiệp có liên hệ đến tái sanh. Bṛhadāraṇyaka Upaniṣads nói rằng sau khi chết, người
ta có hai con đường để đi theo nghiệp mà họ đã thực hiện trong đời hiện tại: (1) con
đường về với thượng đế (devayāna) và (2) đường về với tổ tiên (pitriyāna).
Bṛhadāraṇyaka Upaniṣads VI.2.15 nói rằng: “Những ai biết tế thần và những ai trú
trong núi rừng hoang vắng, tin tưởng, và vang vái thần linh, họ sẽ đi xuyên qua ngọn
lửa, từ ngọn lửa đi vào ngày, từ ngày đi vào mặt trăng tròn, ở tại mặt trăng tròn sáu
tháng khi mặt trời xoay về hướng bắc; trong sáu tháng ở mặt trăng, người ta sẽ đi vào
thế giới của thượng đế, từ thế giới của thượng đế đi vào mặt trời, từ mặt trời đi vào
vùng sấm sét; sấm sét sẽ đưa họ về với thế giới Phạm Thiên (Brahman). Những người
có địa vị cao sẽ ở lại thế giới Phạm Thiên thời gian lâu nhất. Họ sẽ không trở lại nữa.”
Bṛhadāraṇyaka Upaniṣads VI.2.16 mô tả cũng tương tự như vậy: “Hay nói cách khác,
những ai đến được thế giới thiên đường bằng cách tế thần linh, bằng cách ban thưởng,
bằng cách tu khổ hạnh hành xác, họ sẽ đi vào làn khói, từ làn khói đi vào đêm, từ đêm
đi vào mặt trăng khuyết, ở lại mặt trăng khuyết sáu tháng khi mặt trời xoay về hướng
nam; trong sáu tháng ở mặt trăng, người ta sẽ đi về thế giới tổ tiên; và từ thế giới tổ
tiên, người ta sẽ đi vào mặt trăng. Đến mặt trăng, người ta sẽ thành thức ăn. Tại đấy,
họ sẽ trở thành thượng đế, khi họ nói với vua Soma, mặt trăng: “Thăng! Giáng!” Khi
kết thúc vòng này, họ sẽ đi vào bầu trời, từ bầu trời đi vào gió, từ gió đi vào mưa, từ
mưa đi về trái đất. Đến trái đất, họ lại trở thành thức ăn. Một lần nữa, họ lại nương vào
lửa của con người và tái sanh bằng lửa của người phụ nữ. Rồi lên thế giới thiên đường
một vòng nữa, họ lại luân chuyển trong cái vịng tương tự”. “Tuy nhiên, những ai
khơng biết hai con đường này sẽ trở thành côn trùng, sâu bọ, và rắn rít.”Như vậy,
Nghiệp trong Upaniṣads khơng có liên hệ gì đến đạo đức, luân lý và sự chủ ý bởi vì
khơng có sự khác biệt giữa cá nhân và vũ trụ, giữa tiểu ngã và đại ngã (microcosm và
macrocosm). Trên cấp độ vũ trụ, Brahman và ātman được hiểu là đồng nhất. Ngã

((Ātman) là thường hằng, bất biến, vì thế khơng thể thành bất cứ điều gì khác. Dựa
trên khái niệm về Ātman, cho dù tôi làm ác trong đời này, tôi vẫn sẽ không bị tác động
bởi hành động ác, bởi vì “cái tơi” là vĩnh hằng, khơng thay đổi. Nói cách khác, theo
học thuyết về nghiệp của Upaniṣads, ātman là người tạo nghiệp (kartṛ) nhưng cũng là
người thụ hưởng kết quả của nghiệp (bhoktṛ). Nghiệp trở thành một hoạt động và tri
nhận cái Ngã vĩnh hằng trong con người[3]. Chúng ta có thể tuyên bố một cách chắc
chắn rằng Nghiệp trong Rg Veda và Upaniṣads là một loại tiền định bởi vì người tạo
nghiệp khơng phải chịu một trách nhiệm đạo đức nào và sở hữu một cái Ngã bất biến
thường hằng.
2.2.Nghiệp Trong Phật Giáo


Đức Phật thuyết giảng giáo lý về Nghiệp là để phản hồi lại nghiệp của Bà La Môn
giáo và Kỳ Na giáo. Đức Phật nói nghiệp(kamma) là tác ý (cētana). Trong cái nghiệp
của Bà La Mơn, như đã nói ở phần trước, những người đạt đến giác ngộ đi xuyên qua
mặt trời vào vùng sấm sét khi họ chết; từ đó, họ sẽ đi vào thế giới Phạm Thiên , trú ở
đó, và sẽ khơng bao giờ tái sanh nữa. Phật phản hồi điều này trong Kinh Tam Minh
(Tevijja Sutta) rằng,[4] cho dù họ thấy mặt trời và mặt trăng đi nữa, họ thậm chí cũng
khơng biết lối vào, huống là lối vào thế giới Phạm Thiên (Brahmā). Phật tranh luận
với Bà La Môn rằng, người Bà La Môn tự cho họ có đạo đức thanh tịnh, nhưng kỳ
thực họ khơng có đạo đức, làm sao họ có thể vào được thế giới Phạm Thiên? Sau đó,
Phật nói với Bà La Môn Vāseṭṭtha rằng, ngài biết lối vào thế giới Phạm Thiên và làm
cách nào để đến được đó. Phương cách Phật nói là, giả sử có người tình cờ gặp Phật,
nghe giáo pháp của ngài, từ bỏ đời sống thế gian, và thọ trì giới cấm. Về sau, người
này xuất gia thành Sa Môn, quán từ, bi, hỷ, và xả. Theo Phật, đây là lối vào thế giới
Phạm Thiên. Phật cực lực bác bỏ quan điểm của Ba La Môn cho rằng, tế thần là thiện
nghiệp đưa đến đời sống hạnh phúc trong tương lai. Phật nói ngược lại điều này trong
Kinh Tăng Chi (tập II, phẩm 42)[5]. Theo đó, một vị Sa mơn phạm hạnh, đầy đủ giới
đức sẽ đi vào thế giới Phạm Thiên sau khi chết. Chết ở đây hàm ý là nhập Niết Bàn
(Nirvāna) khi vị ấy chứng đắc quả vị A-ha-hán, không phải chết theo nghĩa đen thông

thường[6]. Thuyết nghiệp của Phật giáo cũng bác bỏ thuyết định mệnh về nghiệp của
Bà La Môn và Kỳ Na giáo. Phật nhấn mạnh rằng thuyết định mệnh (niyati) và nghiệp
hoàn toàn khác nhau. Quan điểm về nghiệp nhấn mạnh hành động của con người có
tầm rất quan trọng cùng kết quả của nó: tác nhân phải chịu trách nhiệm về hành động
họ tạo ra. Phật dạy con người có quyền tự do lựa chọn; hành động hiện tại của họ
không phải là kết quả của những hành động trong đời trước; không phải mọi thứ xảy
đến với con người đều được xem là do nghiệp. Những cảm giác không như ý hay bệnh
tật mà chúng ta trải nghiệm có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân: (1) từ mật, (2) đờm
giải, (3) gió, (4) từ sự thiếu cân bằng của ba tính chất này, (5) từ sự thay đổi thời tiết,
(6) từ những hành vi bất cẩn, (7) đến đột ngột (bởi hành động của người khác), (8) từ
kết quả của nghiệp (Kinh Tương Ưng, chương 36, phẩm 21)[7]. Lời Phật dạy cho
chúng ta biết rằng một kết quả nào đó xảy đến có tám nguyên nhân; và chỉ một trong
tám nguyên nhân là do nghiệp.Phật giải thích rằng, đối với một người khơng tu tập
giới, tâm, và tuệ, một điều ác nhỏ có thể dẫn dắt họ bị đọa lạc dưới địa ngục, như bỏ
nắm muối vào ly nước, ly nước sẽ quá mặn, và không thể uống được. Đối với người tu
tập giới, tâm, và tuệ, một hành động tương tự như vậy chỉ khiến họ thọ cái quả nhẹ
hơn rất nhiều ngay trong đời này; và trong trường hợp nếu phải chịu quả báo ở đời
tương lai, thì chỉ như bỏ nắm muối vào sơng hằng; nước sơng hằng khơng phải vì nắm
muối mà mặn đến nỗi không thể uống được. Như vậy, hai tác nhân cùng thực hiện một
hành động nhưng thọ quả bảo khác nhau. Điều này hàm ý rằng, nơi người có tu tập và
có phẩm hạnh, một sơ suất nhỏ sẽ không để lại quả báo nguy hại lên họ, vì giới đức sẽ
làm bão hịa cái quả báo nhỏ ấy. Người khơng có giới đức phải thọ nhận quả báo xấu
hơn.Phật cũng dạy thuyết nghiệp liên hệ với tái sanh. Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt
chép rằng thanh niên Bà la môn đến gặp Phật và thỉnh ngài giải thích tại sao giữa lồi
với nhau, có người đoản thọ, có người trường thọ; có người xấu tướng, có người hảo
tướng; có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn, có người có tài sản nhỏ, có
người có tài sản lớn; có người sinh trong gia đình lạ liệt, có người sinh trong gia đình
cao q? Phật trả lời như sau: “các lồi hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của



nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân
chia các lồi hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu”[8]. Lời Phật dạy ở đây phảng phất trách
nhiệm đạo đức. Chân lý chung của vũ trụ là, hành vi đạo đức, nhân ái sẽ trổ quả báo
tốt đẹp trong thời gian dài; hành vi phi đạo đức, không nhân ái sẽ trổ quả báo khổ đau.
Bản chất của thiện nghiệp làm tăng ích hạnh phúc tinh thần và vật chất cho lồi người;
nó phù hợp với ngun lý chung, rằng khơng ai có thể có hạnh phúc trên sự đau khổ
của người khác.Đại dịch Covid -19 là hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta về giáo lý nhân
quả nghiệp báo của Phật giáo, Covid-19 liên hệ tới học thuyết nghiệp báo nhân quả
(do biệt nghiệp và cộng nghiệp gây ra).Covid-19 xuất hiện đầu tiên ở Vũ Hán Trung
Quốc sau đó lan rộng ra khắp thế giới, trang thống kê worldometers.info cho biết, tính
đến sáng 30-10-2021 (theo giờ Việt Nam), toàn thế giới đã ghi nhận hơn 246.743.400
ca nhiễm Covid-19 và đáng buồn hơn là số ca tử vong do virus SARS-CoV-2 đã vượt
mốc 5 triệu người,các biện pháp kiểm soát đại dịch đã gây ra tổn thất kinh tế đáng kể
trong năm 2021... Nhiều người cho rằng với đại dịch phải hành động ngay nếu không
số người chết sẽ tăng nhmình và có thể khơng kiểm sốt được trong thời gian ngắn,
chưa kể cịn phải đồng thời giảm thiểu các tác động tàn phá về kinh tế và xã hội.
Trong khi đó, những thách thức về mơi trường và khí hậu lại khơng được nhìn nhận
với tinh thần khẩn trương như vậy. Đó cũng là lý do tại sao chính phủ và người dân
các nước có vẻ hành động chậm chạp với những thách thức đó. Biến đổi khí hậu mà
biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng đã tạo nên các hiện
tượng thời tiết cực đoan hiện nay. Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với
nhân loại trong thế kỷ XXI vì biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh
thái, tài nguyên môi trường và cuộc sống của con người. Nhiệt độ ngày càng tăng kết
hợp với lũ lụt và hạn hán đang trở thành mối đe dọa với sức khỏe dân số tồn cầu. Bởi
đây là mơi trường sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều
sinh vật mang bệnh khác phát triển mạnh.Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch
bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng
trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại bệnh nhiệt đới.Hàng năm có
khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh
tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy. Trong thời Phật, khi

dịch bệnh xảy ra, có một gia chủ trình thưa Đức Phật vì sao ngày nay làng mạc xơ
xác, hạn hán, dịch bệnh, nhiều người mạng chung,...Đức Phật đã trả lời: " Này Bà-lamôn, ngày nay, các loài người bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, và bị ác tham
chinh phục, bị các tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, vì bị ác
tham chinh phục, vì bị tà kiến chi phối, trời khơng mưa xuống đều đặn. Vì vậy, bữa ăn
khó tìm, mùa màng hư mất, trắng xóa với cơn trùng, chỉ cịn lại cọng dẹp. Do vậy,
nhiều người mạng chung. Đây là nhân, này Bà-la-mơn, đây là dun, vì sao ngày nay
lồi người bị tiêu diệt, bị giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành không phải
làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố trở thành không phải
thành phố, các quốc độ trở thành không phải quốc độ." Lại nữa, này Bà-la-mơn, ngày
nay, các lồi người bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, và bị ác tham chinh phục,
bị các tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, vì bị ác tham chinh
phục, vì bị tà kiến chi phối, các loài Yakkha (Dạ-xoa) thả ra các loài phi nhân dữ tợn.
Vì vậy, nhiều người mạng chung. Đây là nhân, này Bà-la-mơn, đây là dun, ngày
nay lồi người bị tiêu diệt, bị giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành không
phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố trở thành không


phải thành phố, các quốc độ trở thành không phải quốc độ.Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tơn giả Gotama! Như người dựng đứng những gì bị
quăng ngã xuống,hay trình bày cái gì bị che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc
hướng,hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.Cũng vậy,
Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Con nay
xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con
làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng”.(Trích Kinh
Tăng Chi - Phẩm Ba Pháp). Ngày nay nhân loại đang lạc lỗi ra khỏi con đường Đức
Phật đã từng chỉ dẫn chiến mình ,dịch bệnh và những bạo lực diễn ra ở khắp nơi trên
thế giới , nhân loại bị tham ái chinh phục,bị tà kiến tri phối,từ hàng thế kỉ nhân loại
lao vào các cuộc chiến trmình thỏa mãn tham vọng đáp ứng nhu cầu lớn hoặc nhỏ dần
dần những thông điệp và con đường mà Đức Phật đã dạy đang mờ phai trong đời sống
của chúng ta bài học về sự mất mát về con người,tinh thần,kinh tế,...trong đại dịch

Covid-19 một lần nữa giáo lý nghiệp báo,vô thường của Đức Phật lại chiến thắng.
Quan điểm về nghiệp của đạo Phật rất tích cực, nó động viên con người nhiều hơn,
tránh sự bi quan, lo lắng không cần thiết. Đạo Phật xem nghiệp là bất định, tức là có
thể thay đổi được theo chiều hướng tốt hay xấu tùy theo đương sự tạo nghiệp. Nếu
đương sự tạo ra nhiều nghiệp lành, nghiệp thiện thì nghiệp này có thể giúp cải tạo đời
sống của đương sự theo chiều hướng tốt. Ngược lại, đương sự tạo ra nhiều nghiệp ác,
nghiệp dữ thì nghiệp sẽ hủy diệt đời sống của đương sự. Và đây chính là ý nghĩa hết
sức tích cực, nhân bản của thuyết nghiệp của đạo Phật mà chúng ta nên vận dụng càng
nhiều, càng tốt vì nó có tính tích cực, cải thiện cá nhân, cải thiện xã hội trở nên tốt
đẹp. Gần đây, GS.Trịnh Xuân Thuận - một người Mỹ gốc Việt, nhà vật lý thiên văn
nổi tiếng, công tác tại Viện Công nghệ học California, đồng thời là giáo sư tại trường
Đại học Verginia - và nhà bác học kia là nhà sinh vật học Matthieu Ricard, từng cơng
tác lâu năm tại Viện Pasteur,ơng có học vị tiến sĩ và có 30 năm tu hành tại tu viện
Shechen gần Katmandu thuộc Nepal.Cuộc đàm thoại giữa GS.Trịnh Xuân Thuận và
nhà tu hành Mathieu Ricard rất thú vị, bàn về vấn đề nghiệp cũng rất hứng thú, và cả
hai nhà bác học đều có những điểm tương đồng nhất định. Chẳng hạn, cả hai nhất trí
về nghiệp và những kết quả do nghiệp tạo ra mới có thể giải thích được những trường
hợp mà khoa học hiện đại khơng thể lý giải được như những đứa bé thiên tài như
Mozart, mới 5 tuổi đã là một nghệ sĩ dương cầm xuất sắc và soạn được nhiều bản
nhạc... (Trịnh Xuân Thuận, & Mathieu Ricard, 2006, tr.201). thuyết nghiệp của đạo
Phật cũng có giá trị rất phổ quát và nhân bản. Nói tóm lại, giá trị phổ quát Thuyết
nghiệp của đạo Phật khơng mang tính quyết định luận máy móc, mà nó rất năng động,
tích cực, có chỗ cho ý chí tự do của con người, đề cao con người. Con người chỉ có
thể tạo nghiệp khi có dụng tâm. Thuyết nghiệp của đạo Phật cho ta những bài học quý
giá và sâu sắc như bài học nhẫn nại và bình thản. Nếu một việc gì khơng may xảy ra
cho chúng ta ở đời sống này đều chỉ là một sự trả giá công bằng cho một nghiệp bất
thiện của quá khứ mà chúng ta đã làm từ trước. Ngược lại, nếu gặp may, chúng ta
cũng không quá vui mừng mà mất hết tỉnh táo. Niềm tin vào thuyết nghiệp của đạo
Phật thúc đẩy chúng ta làm việc hết mình, sống hết mình vì lý tưởng cao cả đó.



CHƯƠNG 3
ỨNG DỤNG TU TẬP VÀ VẬN DỤNG HỌC THYẾT NHÂN QUẢ NGHIỆP
BÁO CỦA ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI CƯ SĨ
Chúng ta vẫn ln nghe qua những câu nói như “gieo nhân nào thì gặt quả nấy” hay
“ở hậu gặp hậu, ở bạc gặp bạc”. Luật nhân quả trong cuộc sống này mặc dù không thể
chứng minh bằng khoa học nhưng chúng ta có thể chiêm nghiệm bằng những trải
nghiệm của bản thân. Hiểu được đạo lý về Nhân quả, chúng ta sẽ sống tự tại và an lạc
hơn chính trong cuộc sống hơm nay vì chúng ta sẽ không lầm nhân quả và biết chấp
nhận tất cả những gì khơng may đến với mình.
3.1.Tin và sống theo định luật nhân quả
Cuộc đời của mỗi người ở hiện tại là thành quả của những nghiệp trong quá khứ, thế
nên muốn tiến bộ, muốn tương lai tốt đẹp thì ngay trong hiện tại chúng ta phải gieo
trồng những nhân tốt. Chúng ta khơng thể đổ lỗi, đổ thừa cho hồn cảnh, cho thần
thánh, cho người khác.Mình đã gieo thì mình phải gặt. Và mình muốn gặt thứ gì thì
hãy gieo thứ ấy. Sự lạc quan, yêu quý đời sống, quý trọng thời gian là do tin và sống
theo nhân quả. Tương lai không phải là mơ ước viển vông, tương lai nằm trong những
việc làm ( nghiệp đen kết quả đem,nghiệp trắng kết quả trắng) ngay trong giây phút
này của mình.Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một
cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả. Và mọi lộn xộn, thậm chí hỗn
loạn của đời sống một cá nhân hay của xã hội đều là do thiếu nhận thức về nhân quả
và không sống theo nhân quả. Với định luật nhân quả, mình bình đẳng với mọi chúng
sanh trong sự thăng tiến của mình: khơng ai ăn gian, hối lộ, làm đồ giả, nịnh nọt, bợ
đở đối với nhân quả được. Nhân quả khiến mình bình đẳng trước mọi cơ hội để tiến
bộ, cả vật chất lẫn tinh thần. Nhân quả làm mình trở thành nhà điêu khắc, kiến trúc sư
cho cuộc đời mình và là người kế thừa duy nhất mọi hành động tốt xấu của mình. Đây
là sự tự do mình có được. Tự do lựa chọn, tự do hành động và tự do xây dựng cuộc
đời mình.Nếu mình nhận ra mọi sự trong cuộc đời này đều có thể chuyển hóa thành
một nhân tốt cho mình, thì tự do của mình là ở khắp tất cả, quyền lực của mình ở khắp
tất cả. Đó là sự lạc quan, niềm vui hướng thượng của người tin nhân quả. Một thí dụ:

thấy một cục đá trên đường đi có thể làm ngã té, mình liệng nó vào lề. Như thế là chỉ
một cục đá tầm thường mình đã chuyển hóa thành một nhân tốt cho hệ thống nhân quả
- tức là cuộc đời - của mình. "Khơng có điều gì có thể xảy ra với mình, nếu nơi mình
khơng có điều đó”. Đây là một phát ngơn khơn ngoan của Phật giáo. Khơng có quả
nào có thể xảy ra với mình, nếu mình khơng có nhân quả đó. Người Phật tử sống cuộc
đời khơng lo sợ như vậy. Cịn nếu nó (quả xấu ấy) xảy ra thì sao? Thì hãy ráng chịu
đựng, nhẫn nhục bởi vì mình đã có nhân cho quả ấy và nay nhân đang trổ thành
quả,trách ai nữa,ngồi mình? Và hãy rút kinh nghiệm,nếu muốn khơng gặp điều đó
nữa thì chớ gieo nhân về điều đó nữa. Theo Phật giáo, nhân quả ấy có thể chặt đứt
bằng trí huệ soi chiếu thấy sự khơng có tự tánh của tất cả các pháp. Như thế chúng ta
có thể siêu vượt giải thốt khỏi tiến trình nhân quả.Nhân quả là sự thật tương đối.
Không nhân quả là sự thật tuyệt đối 'vượt khỏi nhân quả' là tiến trình giải thốt. Câu
chuyện về tơn giả Angulimàla trong bài Kinh Angulimàla trong trung bộ kinh :Hãy
đứng lại, Sa-môn! Hãy đứng lại, Sa-môn!Ta đã đứng rồi, này Angulimala! Và ngươi
hãy đứng lại! để lại nhiều bài học đặc biệt,vì mắc vào tà kiến và rơi vào sát nghiệp rất
nặng mà tơn giả Angulimàla, người có trí, chỉ nghe một lời dạy chánh pháp của Thế
Tôn liền bừng ngộ, quăng bỏ vũ khí giết người, xuất gia, đắc liền Thánh quả Hữu học


và khơng lâu sau đó đắc ln quả vị A-la-hán, thành tựu phạm hạnh.Trong nhà Phật
dạy, dù tại gia hay xuất gia, khi bước chân vào đạo, trước tiên phải gìn giữ giới luật.
Gìn giữ giới luật là tu dừng nghiệp.Bởi vì đức Phật thấy rõ ràng, con người khi nóng
giận hay tham lam rất là cuồng loạn. Điều tội ác nào ng ười ta cũng có thể làm được.
Mà tạo tội ác thì phải đọa, phải chuốc quả đau khổ. Vì vậy Phật dạy phải giữ những
điều giới, đừng tạo ác. Khơng tạo ác thì khỏi đọa.Như hàng Phật tử tại gia, đức Phật
dạy phải giữ năm giới.Năm điều đó người phật tử cần phải gìn giữ cho đúng. Như
người nam khi chưa biết tu,có ai rủ uống rượu thì sao ? Tuy ban đầu chưa biết uống,
nhưng bạn bè rủ thì vị tình, uống rồi thành ghiền. Ghiền rồi thành say. Đối với á
phiện, xì ke, ma túy cũng vậy. Do bị bạn bè rủ rê mà không biết tu mới nhào theo.
Nhào theo rồi thì hư một đời, hại gia đình, hại xã hội.Nên Phật cấm những điều đó bởi

rượu, á phiện, xì ke, ma túy là hố sâu nguy hiểm, Phật muốn cho chúng ta không rớt
vào hố đó, nên mới dùng hàng rào giới luật để chặn .Nếu trong gia đình hai vợ chồng
đều biết tu. Chồng khơng làm bậy, khơng nói bậy,khơng nghĩ bậy, vợ cũng vậy thì gia
đình đó đầm ấm, hạnh phúc khơng ? Sở dĩ ngày nay gia đình chia ly, đau khổ, là vì
người ta khơng biết tu.Tu dừng nghiệp là đừng làm bậy, đừng nói bậy, đừng nghĩ bậy .
Đại văn hào Nguyễn Du đã viết: "Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn
trời gần trời xa" Theo góc nhìn của đại văn hào Nguyễn Du, số người ta khổ, khơng
phải vì trời, vì đất làm cho khổ, mà chính là do Nghiệp của ta, làm cho ta sướng, hoặc
Khổ. Nếu biết được Nghiệp ấy rồi, tự mình chuyển hóa bằng cách tu tập sửa đổi. Chứ
ốn trời than đất, cũng không phải, và không giải quyết được gì. Chớ có đổ thừa tại
trời xanh kia, mà khơng thấy trách nhiệm của mình. Mình làm gì khơng tốt, không
hay, đến khi cảnh khổ dồn dập tới lại than thân trách phận, đổ tại số kiếp mà không
chịu nhận ra đó chính là do mình. Học hiểu đạo rồi, chúng ta phải chuyển đổi nghiệp
xấu thành tốt. Dở thành hay. Tất cả, nhờ sự Tu. Nếu không tu tập, khơng nói lành,
nghĩ lành, thì mọi người xung quanh ghét bỏ, khinh sợ. Khi bị như vậy, lại nghĩ do
người khác làm, mà khơng nhận ra là do chính mình. Điều này thật phi lý.Tin nhân
quả trước là giúp mình rồi sau đó là giúp đỡ người khác hiểu và tin nhân quả từ đó
giúp họ ý thức ,trách nhiệm việc họ đang làm.Ai cũng tin hiểu đúng về nhân quả thì xã
hội sẽ tốt hơn. Nhân quả là chân lý sống, khơng thể thiếu trong gia đình và xã hội, nơi
nào không tin nhân quả sẽ sống trong loạn lạc, phi đạo đức. Người không tin vào nhân
quả thường có thái độ yếu đuối thấp hèn, ln sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ
hay tin vào những khả năng siêu hình, hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van
xin, sống ỷ lại vào người khác dễ dẫn đến mê tín, dị đoan, khơng tin sâu nhân quả, do
đó khơng nhìn thấy được lẽ thật nên ln sống trong đau khổ lầm mê.Cịn ai hiểu và
tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên hạnh phúc trong trạng thái an lành, tự
tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân, miệng, ý của
chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng làm lành được hưởng phước,
làm ác chịu khổ đau là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lịng tin sâu như
vậy, thì sẽ sống khơng ỷ lại, khơng cầu cạnh, van xin, không chạy trốn trách nhiệm,
dám làm dám chịu khơng đổ thừa cho ai.

3.2. Tịnh hóa tam nghiệp
Đức Phật dạy: “Ba cõi bất an, giống như ở trong nhà lửa”. Quả đúng như vậy, từ vô
lượng kiếp, chúng sanh trôi lăn mãi trong tam giới chịu nhiều khổ đau, luôn sống
trong lo âu sầu muộn, lắm lúc bức xúc khốn cùng khơng có lối thốt. Vì muốn chúng
sanh vui hưởng nguồn hạnh phúc, an lạc đích thực, Đứa Phật Thích Ca đã thị hiện trên


cõi đời này giáo hoá chúng sanh tu hành thoát khổ.Suốt 49 năm truyền giáo, Ngài đã
tuyên thuyết rất nhiều pháp mơn tu học nhưng khơng ngồi mục đích giúp chúng sanh
nhận ra bản chất khổ đau của nhân sinh và đưa ra nhiều phương pháp tu hành nhằm
giúp chúng sanh diệt trừ những khổ đau ấy. Đại Kinh Vacchhagotta trong Trung Bộ
Kinh là một những bài pháp vô cùng thâm diệu, Đức Phật đã dùng trí huệ siêu việt
hướng dẫn cho Vacchhagotta phương pháp tu tập “Tịnh hoá tam nghiệp” để thoát mọi
khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát. Để cảm nhận sâu sắc hơn thâm ý của Đức Phật qua
bài Kinh này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu để tịnh hóa Tam nghiệp của mình tốt hơn
nhé. Tam nghiệp là hành động tạo tác của thân, khẩu, ý. Tịnh hoá tam nghiệp nghĩa là
tu sửa, thanh lọc thân, khẩu, ý bất thiện dần dần trở nên thuần thiện, an lạc. Diệt trừ 10
điều ác (Thập ác), tu tập 10 pháp thiện (Thập thiện) tạo thành 10 phương pháp tịnh
hóa tam nghiệp. Thực những phương pháp này sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho chúng
ta trong cuộc sống.
1. Sát sanh là bất thiện, từ bỏ sát sanh là thiện: Từ bỏ sát sanh có nghĩa là khơng hủy
hoại cuộc sống của mọi lồi, của bản thân, khơng sai người khác giết hại, khơng sanh
lịng vui mừng khi thấy người khác giết. Không những không sát chúng sanh mà
chúng ta cịn phải tìm mọi cách để cứu sống chúng sanh như cứu người trong lúc nguy
nan, phóng sanh các lồi động vật, khơng ni chim lồng, cá chậu v.v…
2. Trộm cắp là bất thiện, từ bỏ trộm cắp là thiện: Từ bỏ trộm cắp có nghĩa là chúng ta
không được dùng bất cứ thủ đoạn nào để chiếm đoạt, trộm cướp tài sản của người
khác. Là người đạo đức, tu hành đạo giải thoát giác ngộ, chúng ta không những không
chiếm đoạt, trộm cắp tài sản của người khác mà cịn đem tiền của, sức lực của mình
giúp đỡ chúng sanh kém may mắn hơn mình, để họ được an vui, ấm no. Qua việc làm

này, chúng ta vừa xả bỏ lịng tham lam, vừa tích phước để trang nghiêm đạo tâm.
3. Tà hạnh là bất thiện, từ bỏ tà hạnh là thiện: Từ bỏ tà hạnh có nghĩa là không sống
trác táng, ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, hút sách, gian dâm... Là người đạo đức, người tu
đạo, chúng ta cần có cuộc sống phạm hạnh. Tu sĩ thì cấm hẳn tà hạnh, Cư sĩ thì phải
biết tiết dục, vợ chồng chung thủy với nhau. Tà dục là gốc sanh tử luân hồi, vì thế
chúng ta cần dứt bỏ nó, để tâm hồn ngày càng trở nên thanh khiết, đi dần đến an lạc
giải thốt.
4. Nói dối là bất thiện, từ bỏ nói dối là thiện: Từ bỏ nói dối là thiện có nghĩa là khơng
nói sai sự thật: thấy, nghe, biết như thế nào thì nói như thế ấy; chỉ khi nào gặp trường
hợp đặc biệt, vì muốn đem đến an vui cho chúng sanh thì chúng ta có thể tạm thời nói
sai sự thật.
5. Nói lời hung ác là bất thiện, từ bỏ nói lời hung ác là thiện: Từ bỏ nói lời hung ác là
thiện có nghĩa là khơng được dùng lời ác độc, thâm hiểm chửi rủa mọi người. Là
người đạo đức, người tu hành, khi nói ra điều gì, chúng ta ln nói những lời dịu
dàng, từ ái hợp với chân lí, được như thế tình cảm con người ngày càng trở nên sâu
đậm, dắt dìu nhau tu theo thiện pháp để cùng nhau sống an vui, hạnh phúc.
6. Nói lời thêu dệt là bất thiện, từ bỏ lời nói thêu dệt là thiện: Từ bỏ nói lời thêu dệt là
thiện có nghĩa là khơng nên thêm bớt trong lời nói để làm cho câu chuyện sai với sự
thật. Hoặc dùng lời nói hoa mỹ, bóng bẩy mê hoặc nhằm hãm hại người… Là người
đạo đức, tu hành đạo giải thoát, khi nói ra bất cứ điều gì đều là lời nói chân thật, đạo
đức, khế hợp với ý đạo nhằm đem lại an vui cho bản thân và tha nhân.
7. Nói lưỡi hai chiều là bất thiện, từ bỏ nói lưỡi hai chiều là thiện: Từ bỏ nói lưỡi hai
chiều là thiện có nghĩa là khơng được đến người A nói xấu người B; đến người B nói


xấu người A… mục đích để gây chia rẽ họ, làm cho hai bên thù địch nhau, ẩu đả nhau
để rồi gây thương tổn cho nhau. Là người đạo đức, chân tu, chúng ta cần phải dùng
những lời nói đạo đức để hóa giải mọi sự ốn thù của con người, giúp họ sáng suốt dứt
bỏ hành động tạo đau khổ cho nhau, để không vướng vào nghiệp oan oan tương báo,
khổ khổ chất chồng qua nhiều kiếp, mà cần phải biết nhường nhịn, yêu thương lẫn

nhau, để cuộc sống ln được bình an qua mỗi kiếp.
8. Xan tham là bất thiện, từ bỏ xan tham là thiện: Từ bỏ xan tham là thiện có nghĩa là
khơng tham đắm ngũ dục (tài-sắc-danh-thực-thuỳ). Khi hành giả đắm chìm trong ngũ
dục là sa đọa vào con người đường tội lỗi, gieo tạo nhiều ác nghiệp và cuối cùng
chuốc lấy khổ đau thống thiết, đọa đày mãi trong lục đạo luân hồi. Là người đang đi
tìm hạnh phúc, người chân tu, chúng ta ln làm chủ tâm mình, hạn chế và đi dần đến
diệt trừ tất cả mọi sự tham muốn thấp hèn, sống tri túc tiết hạnh, siêng năng hành trì
thiện pháp để tâm luôn được an tịnh và thăng hoa mãi trong cảnh giới Thánh thiện.
9. Sân hận là bất thiện, từ bỏ sân hận là thiện: Từ bỏ sân hận là thiện có nghĩa là
khơng hung hăng, nóng giận khi đối đầu với những việc trái ý nghịch lòng. Sân hận là
một tánh khí xấu ác, độc hại, nó như ngọn lửa mạnh, mỗi khi bừng cháy là có thể đốt
cháy thân tâm ta và tất cả mọi vật xung quanh, vì thế Đức Phật từng dạy: “Một niệm
sân nổi lên là trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở”. Thế nên, lửa tức giận một phen
phát ra, liền đốt cháy tất cả rừng công đức đã gieo tạo nhiều năm tháng. Sự tác hại của
tâm sân vô cùng khủng khiếp, để có được hạnh phúc, để tiến thân mãi trên đường đạo,
chúng ta chủ động tâm mình, ln hành trì pháp quán từ bi, thương yêu tất cả mọi loài
để diệt trừ lịng sân, vì khi tâm hồn ngập tràn u thương thì khơng tồn tại tâm lý sân
hận. Bên cạnh đó, chúng ta dùng trí tuệ qn chiếu thật tướng của vạn pháp là
“khơng”, nhờ thế chúng ta có thể chủ động đề phịng tâm sân, mỗi khi nó manh nha
liền bị tiêu diệt ngay và tâm dần dần trở nên an tịnh, từ ái.
10. Si mê là bất thiện, từ bỏ si mê là thiện: Si mê là tâm tánh ám độn không phân định
được chánh, tà, đúng, sai. Mỗi khi con người bị tâm si chi phối, thường gieo tạo nhiều
lầm lỗi, dần dần sa đọa vào đường ác. Vì thế, si mê là nguồn gốc gây nên mọi tội lỗi,
tạo nhiều khổ sầu cho con người. Muốn loại trừ những quan niệm sai lầm, những định
kiến tà quấy, chúng ta cần phải siêng năng tu tập thiền quán, niệm Phật, làm nhiều
việc thiện, xả bỏ dần cái tôi tầm thường… dần dần tâm chúng ta trở nên sáng suốt, an
tịnh, lúc đó mọi suy nghĩ, mọi hành động của chúng ta đều khế hợp đạo lí, mang lại
hạnh phúc cho bản thân và mọi người.
Trong 10 pháp thiện trên, ba pháp đầu thuộc về “thân nhiệp”, bốn pháp kế thuộc về
“khẩu nghiệp” và ba pháp cuối thuộc về “ý nghiệp”. Trong ba loại nghiệp này, tu tập

“Ý nghiệp” là khó khăn và quan trọng hơn hết. Vì tâm ý chính là người chỉ huy và
cũng là thủ phạm. Còn thân và miệng chỉ là những kẻ tùng phạm mà thơi. Nói một
cách rõ ràng hơn, tất cả lời nói, hành động của thân và miệng đều bắt nguồn từ sự sai
khiến của tâm ý, vì thế trong Kinh Pháp Cú Đức Phật Dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý nhiễm ơ (ác)
Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như chiếc xe theo chân con vật kéo”.


“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý thanh tịnh (thiện)
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng khơng rời hình”.
Bài kệ trong Kinh Pháp Cú trên giúp chúng ta nhận thấy rằng, chính mối tương quan
nhân quả từ nơi tâm ý của con người đã hình thành nên nghiệp thiện hay ác mà con
người phải thọ nhận. Tâm ý chính là chủ nhân tạo nên mọi khổ sầu hay an vui cho con
người, mỗi khi ý ác khởi lên, nếu chúng ta không biết kìm chế, hóa giải thì miệng sẽ
nói những lời ác độc, thân sẽ làm những việc ác, từ đó gây ra đau khổ cho bản thân và
mọi loài xung quanh.Ngược lại nếu chúng ta biết thanh lọc tâm ý, luôn phát khởi
những ý tưởng thanh cao, đạo đức thì miệng sẽ nói ra những lời từ ái, thân làm những
việc tốt, đem lại an vui hạnh phúc cho bản thân và mọi loài. Như vậy, tu tập “tâm ý” là
vấn đề then chốt, là nền tảng của người tu đạo nhằm đạt đến an vui, giải thoát. Mỗi
khi chúng ta thức tĩnh tâm ý, tu tập Giới, Định, Huệ là chúng ta đã mở ra cho mình
một hướng đi rất chủ động trong việc tu tâm, tạo nên một đời sống an lạc giải thoát
ngay trong kiếp sống hiện tại, để từ đó đạt đến cứu cánh giải thốt.Qua sự luận bàn

chúng ta nhận thấy 10 phương pháp tịnh hóa tam nghiệp là 10 phương pháp rất thâm
diệu, có giá trị rất sâu sắc và thiết thực trong quá trình tu dưỡng đời sống tâm linh.
Đây là giáo pháp tu tập căn bản, mang lại lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại và
tương lai. Mười thiện pháp này nếu hành giả khéo ứng dụng vào cuộc sống thì sẽ phát
triển Giới, Định, Huệ; tịnh hoá tam nghiệp, làm cho nhân cách phạm hạnh ngày càng
sáng ngời và đạt đến suối nguồn hạnh phúc an vui trong cuộc sống.Tất cả các Tu sĩ,
Cư sĩ đều đầy đủ nhân cách phạm hạnh thì cuộc sống Tăng đồn sẽ vững mạnh, nội
tình ổn định, hồ hợp hạnh phúc. Đây là yếu tố then chốt làm cho Phật Pháp hưng
thịnh, thế giới an hòa... Thế nên, là đệ tử của bậc giác ngộ toàn năng, chúng ta phải nỗ
lực tu hành, vun bồi phạm hạnh để cuộc sống ln an bình hạnh phúc, để Phật pháp
luôn trường tồn ở thế gian, giống như mặt trời luôn toả sáng và hiện hữu mãi trong vũ
trụ.Cổ đức có câu:
Sở dĩ bá thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ
Trải qua trăm nghìn kiếp tất cả nhân quả mình đã từng gieo trồng sẽ không bao giờ
mất. Khi nào đủ nhân duyên thì chúng ta sẽ thọ cho dù là quả thiện hay là quả ác. Ví
dụ nắm muối ( việc ác ), lượng nước ( phước đức lành ), như vậy nắm muối chúng ta
đã bỏ vào chiếc ly dù cho có thêm trăm nghìn lít nước thì lượng muối đó hồn tồn
khơng mất đi. Nhưng vì lượng nước q nhiều mà ly nước muối đó dần lỗng theo và
khơng cịn giá trị như ban đầu nữa. Nhân quả tạo ra trong cuộc đời là không mất, cho
dù là thiện hay là ác. Tất cả những ác nghiệp chúng ta đã làm không ra không bao giờ
biến mất. Tất cả những thiện nghiệp chúng ta đã gieo trồng cũng không thể nào mất
đi. Nếu như chúng ta làm thiện mà vẫn gặp quả ác là do lượng “nước” chúng ta thêm
vào quá ít so với lượng “muối” ta đã có. Như vậy nếu lượng “nước” chúng ta có q ít
mà lượng “muối” cịn q nhiều thì ta phải làm sao cho lượng “nước” ta cần có phải
thật nhiều .



C.KẾT LUẬN
Phật giáo là tơn giáo ơn hịa mà trong đó tinh thần bình đẳng cơng bằng và hịa bình
ngự trị,ỷ lại vào người khác để được cứu rỗi là tiêu cực nhưng nương tựa và chính
mình là tích cực,phụ thuộc vào người khác có nghĩa là từ bỏ trí tuệ và nỗ lực của
chính mình.Đức Phật dạy cái cần thiết cho hạnh phúc của con người không phải là
một tôn giáo với cả đống giáo điều và lý thuyết suông mà là sự hiểu biết và bản chất
của vũ trụ và sự tương quan của nó với định luật nhân quả.Phật giáo khác với thuyết
định nghiệp của Bàlamôn, lấy Braman (đại ngã), và Atman (tự ngã) làm trung tâm và
niền tin tưởng tuyệt đối vào phép cúng tế các chúng sinh trưởng cho rằng lễ bái, cúng
tế Đấng Phạm Thiên Brahma cốt là để Ngài che trở và cứu rỗi. Ngược lại Phật giáo
cho rằng nghiệp là bất định,con người có khả năng cải tạo nghiệp, chuyển nghiệp quá
khứ bằng các giữ giới,tu tập định-tuệ,và khơng chấp nhận có một thế lực, sức mạnh,
thần linh, chúa trời, thần thánh, lễ nghi, tục lệ nào có thể quyết định vận mệnh của
mình. Mọi vật vận hành theo luật nhân quả, do mình gieo nhân trước đây hoặc hiện
tại, mà sẽ gặt hái các quả trong hiện tại hay tương lai. Thuyết Nghiệp báo khơng
những tác động đến việc chuyển hố mỗi cá nhân, mà còn kiến tạo nên một xã hội
hồn thiện tươi đẹp, thuyết này khơng phải để trói buộc con người như đạo Bàlamôn,
mà giúp con người tự tin mãnh liệt trên con đường phục thiện hướng thượng.Đức Phật
dạy:“Khơng nơi nào ta có thể lẩn trốn để tránh khỏi hậu quả của nghiệp”(kinh pháp
cú,câu 127).Những ai không tin có một năng lực gọi là nghiệp nên hiểu rằng nghiệp
lực không phải là một sản phẩm phụ của một tôn giáo đặc biệt nào dù là Phật giáo,Ấn
Độ giáo...xác nhận và giải thích bản chất của sinh lực ấy.Đó là một định luật thiên
nhiên đang hiện hữu không mang một nhãn hiệu tôn giáo nào.Tất cả những ai vi phạm
định luật này,phải chụi hậu quả dù theo tín ngưỡng nào đi nữa ,và những ai sống hài
hòa với định luật này sẽ chứng nghiệm an lạc và hạnh phúc trong đời sống.Cho nên
nghiệp luật ấy vô tư,không thiên vị đối với bất cứ ai ,tin hay khơng tin,có tơn giáo hay
khơng có tơn giáo.Luật ấy giống như bất cứ một định luật vũ trụ hiện hữu nào.Xin nhớ
là nghiệp không phải là tài sản độc quyền của Phật giáo[16]. Tất cả những điểm trên
đây, dù chưa được đầy đủ, nhưng rõ ràng là một sự thật không thể nào chối cải được.
Tuy nhiên, khơng phải vì thế mà cho rằng Phật giáo là một phần của hệ tư tưởng Bàla-mơn như có nhiều người đã lầm tưởng. Và để phản ánh được những cái riêng của

mình trong một tổng thể to lớn của nền văn minh Ấn Độ ngàn năm, Phật giáo đã phải
thể hiện mình ở những nét đặc sắc nhất.Chính những nét đặc sắc đó đã nói lên rằng
giữa Phật giáo và Bà-la-môn giáo vẫn là hai trào lưu tư tưởng với hai mục đích khác
nhau, nhưng lại giống nhau ở xu hướng. Đó là khẳng định khả năng thành tựu mục
đích tối hậu của con người ở sự giải thoát khỏi mọi khổ đau, nhưng để đạt được mục
đích đó thì mỗi trào lưu lại đưa ra một phong cách rất khác nhau như đã phân tích ở
trên. Vì vậy khơng có lý do gì để cho rằng Phật giáo là sự tổng hợp đỉnh cao của tư
tưởng Ấn Độ.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chú thích:
[1] Sinha, Jadunath (1956). A History of Indian Philosophy, vol. I. Calcutta: Sinha
Publishing House, trang 1.
[2] Dasgupta, S (1963). History of Indian Philosophy, vol. I. London: Cambridge
University Press, trang 22.
[3] Kalupahana (1976). Buddhist Philosophy: A Historical Analysis. Honolulu: The
University Press of Hawaii, trang 76.
[4] Walshe, Maurice (1995). Digha Nikaya (The Long Discourses of the Buddha).
Boston: Wisdom Publication,trang 187-95.
[5] M.A, F.L. Woodward. (1973) (The Book of The Gradual Sayings (AnguttaraNikāya) Vol II. London and Boston: Pali Text Society, trang 49-51.
[6] Gombrich, Richard (2006). How Buddhism Began. London and New York:
Routlege, Taylor & Francis Group, trang 61.
[7] Hare, E. M (1973). The Book of Gradual Sayings (Anguttara-Nikāya). London and
[15] a). Hà Thúc Minh. 2001. “Thuyết vô ngã”. Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, số 2, tr.
14-20.
[16].K.sri.Dhammananda,vì sao tin Phật,trang 149 phần năng lực vô tư/không thiên vị
Tài liệu tham khảo:
1.HT.Thích Minh Châu, Tồn tập Thích Minh Châu(Kinh Trung Bộ),NXB Tổng hợp
TP.HCM,2019.

2. HT.Thích Minh Châu,Kinh tăng chi,Đại tạng kinh Việt Nam.
3. HT.Thích Minh Châu,Kinh trường bộ,Đại tạng kinh Việt Nam.
4.TS Dỗn Chính,TS Nguyễn Văn Chung,Đại cương triết học Phương Đơng ,NXB
Thmình Niên,2013.
5.TT.Thích Giác Dun,Đề cương mơn triết học tôn giáo,HVPG Việt Nam tại Tp
HCM.
6. Nguyễn Kim Dân (dịch), Triết Học Ấn Độ: Nghiên Cứu và Phê Bình ,NXB Tổng
Hợp Tp. HCM, 2005.
7.Nguyên Nhật Trần Như Mai Việt dịch,Lời phật dạy về sự hòa hợp trong cộng đồng
và Xã Hội hợp tuyển tử kinh tạng PāLi,Viện nghiên cứu phật học,NXB Hồng
Đức,2018.
8. Thích Thmình Kiểm, Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ, Hà Nội,NXB Tôn Giáo, 2001.
9.Phạm Kim Khánh(dịch),Đức Phật và Phật Pháp, NXB Tổng Hợp Tp. HCM, 2019.
10. Hoàng Tâm Xun(Chủ biên),Mười tơn giáo lớn trên thế giới,NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội,1999.
11. Đặng Nghiêm Vạn, Lý luận về Tơn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội,2001.
12. John Bowker (Chủ biên),Các tơn giáo trên thế giới,NXB Văn hóa thơng tin,2003.
13.TS.Lê Văn Tùng,Nghiên cứu triết học tôn giáo,NXB Tôn giáo.
14. Trần Quang Thái, Một số vấn đề triết học tôn giáo, NXB Tổng hợp TP.HCM.



×