Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN môn TRIẾT học tôn GIÁO QUAN NIỆM về NGHIỆP báo THEO bà LA môn GIÁO và PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.1 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CƠ SỞ I
KHOA PHẬT HỌC TỪ XA - KHÓA VI

THÍCH TÂM AN
(LÂM THANH TÂN)

QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP BÁO THEO BÀ LA MÔN
GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ VI
MÔN: TRIẾT HỌC TÔN GIÁO

Tp. HCM, tháng 6 năm 2022


HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CƠ SỞ I
KHOA PHẬT HỌC TỪ XA - KHÓA VI

THÍCH TÂM AN
(LÂM THANH TÂN)

QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP BÁO THEO BÀ LA MÔN
GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ VI
MƠN: TRIẾT HỌC TƠN GIÁO
MSSV: TX6384
GVHD: TT.TS. THÍCH GIÁC DUN

Tp. HCM, tháng 6 năm 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là bài tiểu luận của riêng tôi. Tôi đã dành nhiều thời gian và
tâm huyết để tìm và đối chiếu các nguồn tài liệu nghiên cứu. Các thông tin, tài liệu
tham khảo và kết quả trong bài tiểu luận là hoàn toàn trung thực, cụ thể, được kiểm
duyệt kĩ lưỡng bằng nhiều phương pháp khác nhau và tôi chưa từng công bố tập
luận văn này trong bất kỳ trường hợp nào.

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………

LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành tri ân TT.TS. THÍCH GIÁC DUYÊN, Người đã tận tâm giảng dạy
và hướng dẫn cho con trong quá trình thực hiện tiểu luận này.Thành kính tri ân Hội
đồng điều hành Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh cùng chư
vị Giáo thọ sư đã dạy dỗ, động viên, khích lệ và giúp đỡ cho con trong suốt khoảng
thời gian vừa qua.Xin chân thành tri ân Thượng Tọa Bổn Sư thượng Thanh hạ
Phong, Vị ân sư khả kính, người đã tạo điều kiện cho con được xuất gia tu tập và lo

lắng cho con về mọi mặt trong cuộc sống tu học.Xin chân thành cảm ơn Ba Mẹ
người đã sinh con ra thân mạng này để được sống và tu học theo giáo pháp và con
đường Giác Ngộ của Đức Phật.Xin cảm ơn tất cả những bậc thiện hữu tri thức đã
giúp đỡ con trong quá trình học tập và hồn thành tiểu luận này.Trong q trình thực
hiện, tiểu luận này con cịn có nhiều khuyết điểm. Ngưỡng mong chư vị Tôn Đức
cùng các bậc thiện hữu hoan hỷ và chỉ điểm thêm để con được học hỏi và hoàn thiện
bản tiểu luận này.


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TƠN GIÁO
1.1. Khởi nguyên
1.2.Thời kỳ đầu
1.3.Thời cận-hiện đại
CHƯƠNG 2: NGHIỆP TRONG PHẬT GIÁO VÀ BÀ LA MƠN GIÁO
2.1.Nghiệp theo Bà la mơn giáo
2.2.Nghiệp theo Phật giáo
2.3. Mối quan hệ giữa Phật giáo và Bà-la-mơn giáo
CHƯƠNG 3: ỨNG DỤNG TU TẬP CHUYỂN HĨA NGHIỆP THEO QUAN
ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
3.1. Vượt qua chướng duyên trong tu tập
3.2. Tu tập Sáu pháp hịa kính
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. DẪN NHẬP
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-mơn giáo và Phật giáo đã
có sự đóng góp to lớn, khơng những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại
những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của tồn

thể dân tộc Ấn Độ.Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dịng máu nên
trong q trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau.
Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có khơng ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ
thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản
biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Cịn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế
này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai
khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.Với tư cách là một
thành viên của Phật giáo, chúng ta đã có suy nghĩ gì về những lời bàn luận trên?
Thiết nghĩ, muốn hiểu được, có lẽ chúng ta phải hiểu được bản chất triết học của
Bà-la-môn là gì. Nhưng bằng cách nào? Ở đây, người viết xin thông qua những
phạm trù nhận thức căn bản nhất của Phật giáo để xem Bà-la-môn giáo đã được hiểu
như thế nào? Tuy nhiên, với những giới hạn nhất định của một bài viết – không phải
là một bài khảo cứu chuyên nghành – nên sự cho phép ở đây chỉ được giới hạn trong
những điểm cơ bản nhất mà người viết cho rằng thật cần thiết để đánh giá về một
trào lưu tư tưởng đã có quan hệ sâu đậm đối với Phật giáo trong suốt chiều dài lịch
sử.Đó là lý do học viên chọn đề tài: Quan niệm về Nghiệp báo theo Bà-la-môn giáo
và Phật giáo làm tiểu luận của mình.


CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TƠN GIÁO
1.1. Khởi ngun
Với những thành tựu to lớn của ngành khảo cổ học, người ta đã chứng minh được sự
tồn tại của con người cách đây hàng triệu năm (từ 4 – 6 triệu năm). Tuy nhiên, với
những hiện vật thu được người ta khẳng định: có đến hàng triệu năm con người
khơng hề biết đến tơn giáo. Bởi vì tơn giáo địi hỏi tương ứng với nó là một trình độ
nhận thức cao, nó là sản phẩm của tư duy trừu tượng trong một đời sống xã hội ổn
định.Hầu hết trong giới khoa học đều thống nhất rằng chỉ khi con người hiện đại –
người khơn ngoan (Homo Sapiens) – hình thành và tổ chức thành xã hội, tôn giáo
mới xuất hiện. Thời kỳ này cách đây khoảng 95.000 – 35.000 năm. Tuy nhiên trong
thời kỳ đầu mới chỉ là các tín hiệu đầu tiên. Đa số các nhà khoa học đều khẳng định

tôn giáo ra đời khoảng 45.000 năm trước đây với những hình thức tơn giáo sơ khai
như đạo Vật tổ (Tôtem), Ma thuật và Tang lễ. Đây là thời kỳ tương ứng với thời kỳ
đồ đá cũ.
1.2.Thời kỳ đầu
Bước sang thời kỳ đồ đá giữa, con người chuyển dần từ săn bắt, hái lượm sang trồng
trọt và chăn nuôi, các hình thức tơn giáo dân tộc ra đời với sự thiêng liêng hóa các
nguồn lợi của con người trong sản xuất và cuộc sống: thần Lúa, thần Khoai, thần
Sông… hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh sôi (thờ giống cái, hình ảnh phụ nữ,
phồn thực…), đó là các vị thần của các thị tộc Mẫu hệ. Khi đồ sắt xuất hiện, các
quốc gia dân tộc ra đời nhằm mục đích phục vụ cho sự củng cố và phát triển của dân
tộc. Tất cả các vị thần ấy còn tồn tại chừng nào dân tộc tạo ra vị thần ấy còn tồn tại
của đế chế và được chấp nhận như một tơn giáo chính thống. Theo thời gian, do nội
dung của các tơn giáo mang tính phổ qt, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể,
với các vị thần cụ thể, với nghi thức cụ thể của một cộng đồng tộc người, dân tộc
hay địa phương nhất định nên sự bành trướng của nó diễn ra thuận lợi, dễ dàng thích
nghi với các dân tộc khác. Do vậy, dù được phổ biến bằng cách nào (chiến tranh hay
hịa bình), các tơn giáo đó đã được các quốc gia bị lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự
giác hay không tự giác tiếp nhận và trên nền tảng của tôn giáo truyền thống, biến
đổi thành tôn giáo riêng của quốc gia đó. Sự bành trướng kiểu như vậy diễn ra trong
suốt thời kỳ văn minh công nghiệp và cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên cũng cần
phải chú ý rằng, giữa tôn giáo khu vực hay tôn giáo thế giới vừa chung sống cạnh
nhau, vừa tranh chấp xung đột nhau và khơng ít trường hợp, với sự ủng hộ của các
thế lực quân sự, chính trị, chiến tranh tôn giáo đã xảy ra. Những tôn giáo như Kitô,
Hồi do tính cực đoan của mình (chỉ coi chúa hay thánh của mình là đối tượng tơn
thờ duy nhất) nên ban đầu đi đến đâu cũng khó dung hịa với các tơn giáo khác đã
có mặt ở đó từ trước. Cịn một số tơn giáo phương Đơng như Nho, Phật thì khác,
chúng chấp nhận hịa đồng với các tơn giáo bản địa, có xu hướng trần tục nhiều hơn
là thế giới bên kia.
1.3.Thời cận-hiện đại
Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một xã hội công nghiệp, xã hội này địi hỏi

phải có một tơn giáo năng động và tự do hơn, khó chấp nhận một tổ chức, một giáo


lý với những nghi thức cứng nhắc, phức tạp. Tình trạng độc tôn của một tôn giáo
trong một quốc gia đã bắt đầu chấm dứt và chấp nhận sự đa dạng trong đời sống tôn
giáo. Từ đây quan niệm và sau là chính sách tự do tơn giáo ra đời, phát triển nhanh
hay chậm và thể hiện khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Những yếu tố lỗi thời
được huỷ bỏ hoặc tự thay đổi, thay thế để thích nghi. Với xu thế quốc tế hóa ngày
càng gia tăng, việc mỗi cá nhân chỉ biết đến tôn giáo của mình đã trở nên lạc hậu.
Mỗi người đều rằng trên thế gian có nhiều thánh thần, có nhiều tơn giáo. Họ bắt đầu
hoài nghi và lựa chọn, thần thánh được mang ra tranh luận, bàn cãi và làm nảy sinh
xu thế thế tục hóa tơn giáo và xu thế này ngày càng thắng thế.Trong thời đại ngày
nay, khi mà xu thế tồn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự
nâng cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu của khoa học và công
nghệ đã làm cho các tôn giáo ngày càng trở nên thế tục hóa kéo theo sự đa dạng
trong đời sống tôn giáo. Từ đây xuất hiện các ý kiến khác nhau trong một tôn giáo
và dẫn đến sự chia rẽ trong các tôn giáo một cách có tổ chức, bùng nổ các giáo phái
và xuất hiện nhiều tôn giáo mới. Bản thân trong các tôn giáo khu vực và thế giới
cũng có những biểu hiện khác trước: số tín đồ ngày càng tăng nhưng số tín đồ thực
tế giảm, nghĩa là người ta theo đạo nhưng khơng hành đạo, nhiều tín đồ bỏ đạo để
theo các "đạo mới". Trong nội bộ các tơn giáo có sự chia rẽ thành những giáo phái
với những tính chất cấp tiến, ơn hịa hoặc cực đoan [1].


CHƯƠNG 2: NGHIỆP TRONG PHẬT GIÁO VÀ BÀ LA MÔN GIÁO
2.1.Nghiệp theo Bà la môn giáo
Ấn Độ giáo quan niệm rằng, linh hồn của bất kỳ một thể sống nào, bao gồm: động
vật và thực vật; khi chết đi, hay hoại diệt, và đầu thai, đều có liên hệ một cách phức
tạp với Nghiệp.Nghiệp hay gọi đúng hơn là Nghiệp Báo, theo Hindu giáo, là tổng số
các hành động của một người, và là lực, sẽ quyết định sự đầu thai kế tiếp của người

đó qua vịng xoay, ln chuyển (Luân Hồi) của việc chết và tái sinh.Theo tư tưởng
Nghiệp Báo và Luân Hồi, kinh Upanishad (Áo Nghĩa Thư – kinh điển với ý nghĩa
uyên áo, giữa thầy và trò) cho rằng: Con người sẽ trở nên tốt, nhờ họ có những hành
động tốt trong cuộc sống, và họ sẽ trở nên xấu nếu cuộc sống của họ có nhiều hành
động xấu.Và để diễn rộng hơn, kinh Áo Nghĩa Thư, đã dẫn chứng những ví dụ
như:Nếu người nào sống có những hành vi tốt đẹp thì sau khi chết sẽ đầu thai vào
kiếp khác tốt đẹp hơn, hoặc thành Bà La Mơn, hoặc thành người q tộc, hoặc thành
thương nhân.Cịn những ai có hành vi xấu xa, sau khi chết, sẽ phải đầu thai vào
những kiếp xấu xa như: kiếp chó, kiếp heo, ngạ quỷ, hay những kẻ nơ lệ hèn mọn,
làm tơi tớ cho người khác, v.v.Bên cạnh đó, quan điểm về Luân Hồi, còn được thể
hiện trong các thuyết Ashrama (những bước trong hành trình của cuộc sống), về bốn
giai đoạn mà con người phải trải qua để đạt được sự giải thoát của linh hồn, tức là
tránh khỏi Luân Hồi, bao gồm:
1.
2.
3.
4.

Học tập
Lập gia đình, tạo sự nghiệp
Hướng về tâm linh
Thoát ly xã hội để tu hành

Bốn gia đoạn này, cũng được diễn giải qua tư tưởng Brahman (Đại Ngã) và Atman
(Tiểu Ngã).Cũng theo Áo Nghĩa Thư, đại ngã là nguồn gốc tối cao của vũ trụ; và đại
ngã là đại vũ trụ, là đại hồn, hay còn gọi là Thượng Đế. Còn tiểu ngã là bản ngã của
con người. Hay, tiểu ngã là tiểu hồn, là tiểu vũ trụ. Và tiểu ngã chỉ là một phần rất
nhỏ từ đại ngã tách ra.Do đó, đại ngã và tiểu ngã vốn đồng về bản chất, nên đại ngã
và tiểu ngã có thể tương thơng được với nhau. Vì vậy, tiểu ngã có thể nhờ sự tu
luyện để đạt được sự giải thoát của linh hồn, thoát khỏi các khổ não ràng buộc nơi

cõi trần, và có thể đem tiểu ngã trở về hợp nhất với đại ngã.Nếu tiểu ngã nào khơng
thể giải thốt được những ràng buộc, và vẫn khơng dứt khỏi nghiệp thì tiểu ngã đó
khơng dứt khỏi Luân Hồi và phải đầu thai trở lại cõi trần, hết kiếp này đến kiếp
khác.Dựa trên những định nghĩa và cách diễn giải về luật Luân Hồi này, đã giúp cho
các thầy tu Bà La Mơn giải thích được cho các tín đồ Hindu giáo, về lý do tại sao lại
có sự phân biệt đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ của ngày xưa cũng như ngày nay.
2.2.Nghiệp theo Phật giáo


Theo Phật giáo, nguyên nhân trói buộc con người trong luân hồi sinh tử, chính là
tam độc: tham, sân và si.Luân Hồi tuân theo nguyên tắc của luật Nhân Quả, luân
chuyển qua sáu cõi, tùy vào nghiệp của con người đã tạo ra trong quá khứ, mà người
đó, sẽ tái sinh vào một trong sáu cõi, gồm: Trời-Thần; Người; Atula; Súc Sinh; Quỷ
Đói (Ngạ Quỷ); và Địa Ngục.Cịn định nghĩa của Nghiệp theo đạo Phật là hành
động hay việc làm. Nghiệp được gây nên bởi hành, cụ thể là do thân, khẩu, ý, tạo
ra.Thế nên, tùy theo Nghiệp Báo mà chúng ta có thể sinh ra trong một tình trạng,
hay hồn cảnh nào đó, tùy thuộc vào chính những hành động của chúng ta trong quá
khứ đã tạo nên.Nếu trong kiếp hiện tại, mặc dù, chúng ta sống một đời sống trong
sạch, nhưng chúng ta lại gặp phải những điều bất hạnh thì chúng ta phải biết rằng,
đó là, do nghiệp xấu của ta trong quá khứ đã tác động, mà có.Trái lại, nếu chúng ta
đang sống trong một đời xấu xa, tội lỗi, nhưng chúng ta vẫn đang được hưởng an
vui hạnh phúc, giàu sang, may mắn, thì đó, cũng là do nghiệp tốt của chúng ta đã tạo
trong quá khứ, mà có.Đạo Phật quan niệm rằng, kiếp sau của chúng ta như thế nào,
tùy thuộc vào 4 loại nghiệp như sau:
1. Nghiệp Cận Tử: Đây là nghiệp quan trọng nhất. Khi chúng ta sắp chết chúng

ta sẽ tiếc nuối vòng đời, chúng ta sẽ được tua lại, trong đó, có những việc
chúng ta tiếc là mình đã làm, và cũng có những việc chúng ta tiếc là đã
khơng làm
2. Tích Lũy Nghiệp: là nghiệp sinh ra trong quá trình chúng ta sống. Nghiệp

được sinh ra bởi Tâm, Thân, Khẩu. Mỗi một lời nói, suy nghĩ, hành động của
chúng ta đều giống như đang gieo hạt, và hạt đó sẽ sinh ra quả tốt hay xấu
tương ứng
3. Tập Quán Nghiệp: là thói quen của chúng ta sinh ra nghiệp
4. Cực Nghiệp: Nghiệp tạo ra, gây ra hậu quả nghiêm trọng, trái với luân
thường đạo lý như: giết người.
Luật Nhân Quả trong Phật giáo, cũng khá tương đồng với Hindu giáo, trong quan
điểm về Nghiệp Báo và Luân Hồi. Nhưng đứng trên góc độ xây dựng một xã hội
cơng bằng, bình đẳng, khơng phân biệt cao thấp, thì Phật giáo lại đi ngược lại với xã
hội phân chia gia cấp hay phân biệt đẳng cấp mà Hindu giáo muốn tạo dựng. Trong
khi quan điểm của Hindu giáo, chú trọng vào việc đưa bản ngã của con người ra
khỏi tầm ảnh hưởng của Ý Thức, thì Phật giáo lại chú trọng đến sự phát triển Ý
Thức lên đỉnh điểm của nhận thức để chuyển hóa tâm thức và giác ngộ được Thật
Tính của các pháp.Về phương pháp giải thốt, do vì quá chú trọng đến sự thể nhập
của tiểu ngã vào đại ngã làm đối tượng, nên các phương pháp của Hindu giáo
thường sử dụng các lễ nghi, nghiên cứu kinh Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, và thực hành
Yoga, với mục đích hạn chế Ý Thức để đạt được giải thốt.Trong khi đó, Phật giáo
lại cho rằng: Người thực tập muốn đạt được Giải Thốt phải là người có khả năng
nhận ra được các pháp như “Nó Đang Thật Là”. Điều này, đã được đức Phật dậy


như sau: Ai thấy được lý Duyên Khởi thì người ấy thấy được Pháp. Ai thấy được
Pháp thì người ấy thấy Phật.Bởi vậy, trong Phật giáo, các pháp môn, dù là lễ bái,
niệm Phật, hay tọa thiền, v.v., tất cả đều lấy việc, nâng cao sự nhận thức của tâm
thức lên đến tột đỉnh của sự giác ngộ. Nói khác hơn, tất cả chỉ để hồn thiện tính
năng tự hoạt của tâm, mà một trong các đại diện của cái tâm đó là Ý thức.Đó chính
là những nét căn bản về Con Đường Giải Thoát của Ấn Độ giáo và Phật giáo.Dĩ
nhiên, ngồi Ân Độ giáo và Phật giáo, thì các tơn giáo khác cũng có những quan
điểm về Nghiệp, Luân Hồi, và con đường giải thoát để truyền giảng giáo pháp của
mình.Nếu chúng ta đều đi tìm hiểu từng tơn giáo một thì sẽ tốn rất nhiều thời gian,

và cũng khiến đề tài sẽ trở nên rộng hơn, dễ khiến cho chúng ta chống ngợp.Chính
vì vậy, chúng ta chỉ nên chú trọng đến Ấn Độ giáo và Phật giáo, vì cả hai tơn giáo
này có những sự liên hệ đặc biệt như sau: Vì giáo lý của đạo Phật có sau giáo lý của
Ấn Độ giáo, nên trong hàng đệ tử của đức Phật, cũng có khá nhiều các bậc tơn giả,
đã từng thực hành, hay ít nhiều đã thấm nhuần những tư tưởng của kinh Áo Nghĩa
Thư hay Vệ Đà; mà ngay cả đức Phật, khi còn là thái tử, cũng đã thực tập qua những
bộ kinh này.Vì vậy, khi giảng dậy cho những vị tôn giả, đức Phật đã dùng khá nhiều
những tư tưởng của kinh Vệ Đà hay Áo Nghĩa Thư để giúp cho những tôn giả, đã có
những kinh nghiệm về các kinh này, có thể dễ lĩnh hội được những quan điểm khác
biệt giữa hai tơn giáo. Trong thời đức Phật cịn tại thế thì Ấn Độ giáo đang sinh hoạt
rất mạnh tại Ấn Độ.Trong kinh điển của đạo Phật, cũng đã nhắc đến những bậc thức
giả Bà La Môn đã từng ghé qua những tu viện nơi đức Phật cư trú để chất vấn và
tranh luận.Cho nên, trong những nét căn bản giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo đã có rất
nhiều tư tưởng về giáo lý gần như giống nhau, nhưng mục đích thì lại hồn tồn
khác nhau.
2.3. Mối quan hệ giữa Phật giáo và Bà-la-môn giáo
Cùng bắt nguồn trên mảnh đất của triết lý, lẽ tất nhiên Phật giáo và Bà-la-môn giáo
khơng thể nào khơng có những mối quan hệ sâu đậm được. Nhưng, đó là quan hệ
gì? Từ xưa đã có rất nhiều ý kiến, nhận xét được đưa ra để biện giải cho vấn đề này.
Trong đó, với mục đích phân biệt rõ hơn về hai trào lưu tư tưởng mà đã có ý kiến
cho rằng Phật giáo là một trào lưu độc lập và đã phủ nhận sự minh triết của Bà-lamôn giáo tồn tại trong Phật giáo. Ngược lại, cũng có người khi nhìn thấy những
điểm chung nhất giữa hai giáo phái đã vội cho rằng Phật giáo là sự tổng hợp đỉnh
cao của Bà-la-mơn giáo. Nói khác hơn, một bên nỗ lực tách riêng còn một bên cố
gắng đưa đến sự hợp nhất mà trong đó cả Phật giáo và Bà-la-môn giáo chỉ là hai mặt
của tư tưởng Ấn. Tuy nhiên phủ nhận hay khẳng định sự chính xác của một hoặc hai
xu hướng trên khơng phải là vấn đề ở đây. Vì sao? Vì nếu là phủ nhận hoặc khẳng
định thì điếu đó đã cho thấy rằng nó ít nhiều khơng khỏi có sự hiện hữu của sự
phiến diện. Nó có thể xuất phát từ những tự ái cá nhân hoặc tự ái tôn giáo để rồi đưa
đến sự thiếu khách quan trong nhận định. Cho nên, ở đây, mối quan hệ tác động sẽ



là đối tượng để chúng ta đề cập.Lịch sử đã cho thấy rằng, Phật giáo xuất phát chậm
hơn các trào lưu tư tưởng của Bà-la-mơn giáo. Nói cho chính xác thì khi Phật giáo
ra đời, nền triết học Bà-la-mơn giáo đã đạt đến đỉnh cao của nhận thức tính và nó
đang đi vào sự suy sụp do khuynh hướng của tơn giáo hình thức chi phối tính triết lý
hàm súc trong văn học Veda. Trong khung cảnh sa sút ấy, Phật giáo ra đời và được
xem là sự cải cách lớn nhất đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Ấn. Mọi giá trị của Bàla-môn giáo đã được xem xét lại khi thời bấy giờ Phật giáo đưa ra nhiều kiến giải
mang tính đột phá cao. Chẳng hạn, chỉ bằng vào sự phủ nhận tính thực hữu của bản
thể Brahman và thay vào đó là tự tính vơ hữu ngã thôi, Phật giáo gần như đánh đổ
cả hệ thống giáo lý của Veda, ít nhất là trên bình diện triết học. Ngồi ra, ở các phạm
trù khác đều tìm thấy những dấu vết của sự bất đồng của Phật giáo đối với Bà-lamôn giáo. Thế nhưng, nếu căn cứ vào đó mà cho rằng Phật giáo khơng có sự liên hệ
nào cả với Bà-la-mơn giáo thì chưa chính xác. Vì, khi đi sâu vào nội dung của Phật
giáo ta rất dễ dàng tìm thấy nhiều yếu tố của Bà-la-mơn giáo mà chính xác hơn là
của Veda. Và điểm chung nhất mà ta có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong giáo lý Phật
giáo so với Bà-la-môn giáo là sự xu hướng của quan niệm là tư tưởng luân hồi khổ
đau và tìm cầu giải thốt. Có thể nói đây là hai phạm trù khơng riêng gì giáo phái
nào mà hầu như tất cả những trào lưu tư tưởng Ấn đều đặc biệt quan tâm và ln
tìm cách tiếp cận. Và do xuất phát từ xu hướng đó mà gần như những danh từ,
những thuộc tính, những phương pháp thi thiết của cả hai giáo phái đều có biểu hiện
cho thấy nó rất gần gũi mà đã khơng ít người gần như khơng cịn phân biệt được đâu
là của Phật giáo, đâu là của Bà-la-môn giáo. Về điểm này, Kimura Taken đã nhận
xét như sau:Khi Phật đối đáp với người Bà-La-Mơn, Ngài khơng thể gạt hẳn tín
ngưỡng của họ ra một bên; vả lại, đứng trên lập trường thần thoại mà nói thì Phạm
Thiên cũng ln ln được biểu hiện trong Phật giáo, lý do chính là ở đó. Do đó khi
nói đến Phạm Thiên là vị nhân - cách - thần trung tâm ở thời đại Phật đã hàm ngụ
một ý nghĩa rất trọng yếu trong bề mặt nghiên cứu Phật giáo sử Ấn Độ. Một điểm
nữa cho thấy rằng tư tưởng Phật giáo có quan hệ gần gũi với Bà-la-mơn giáo, đó là
việc Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, giáo chủ khai sáng Đạo Phật, là một người được
giáo dục trong môi trường của Veda. Từ khi sinh ra, lớn lên và thậm chí cả khi đi
xuất gia tu hành, ngài cũng trang bị cho bản thân bằng những kinh nghiệm đã được

hấp thu từ nền giáo dục của truyền thống Veda. Sự tham cầu học và đạt được những
kết quả tối cao trong phương pháp của hai đạo sĩ A-la-la và Uất-đầu-ca, sự tìm cầu
giải thốt bằng đường hướng khổ hạnh khốc liệt,... đã cho thấy rõ điều đó. Và mặc
dầu, khi đã giác ngộ được con đường giải thốt hồn tồn khác với giáo lý Veda,
nhưng để diễn đạt được những gì mà ngài đã tìm được sau hơn 6 năm tìm kiếm đến
với chúng sanh thì bắt buộc ngài phải sử dụng những thuộc từ phổ thơng cho dù
theo truyền thống của Veda thì nó có thể được hiểu ở nghĩa khác.


CHƯƠNG 3: ỨNG DỤNG TU TẬP CHUYỂN HÓA NGHIỆP THEO QUAN
ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
3.1. Vượt qua chướng duyên trong tu tập
Pháp sư Huyền Trang đã từng viết:
“Phật tại thế thời ngã trầm luân
Kim đắc nhân thân Phật diệt độ
Áo não tự thân đa nghiệp chướng
Bất kiến Như Lai kim sắc thân”.
Thuở xưa, khi đức Phật còn tại thế, con còn trơi lăn trong vịng ln hồi. Nay được
thân người, Ngài đã diệt độ. Buồn thay, thân này nhiều nghiệp chướng. Chẳng thấy
kim thân đấng Thế Tôn. ự thân Tâm Thủ vào chùa tu học, đến nay cũng gặp khơng
ít chướng dun. Cịn nhớ có một năm, thân thể sao cứ bệnh đau nhiều, tu học
khơng tiến bộ, dính vào chuyện tình cảm nên phiền não càng thêm lắm; lại đi chi
nhánh tu tập với một Thầy lại khơng hợp tính, thường hay la mắng… Lúc đó buồn
lắm, nhiều đêm rất buồn tủi, chẳng biết tỏ cùng ai.Những lúc đó, con chỉ biết nghĩ
về Sư phụ, suy ngẫm những lời dạy của Sư phụ: “Ở cõi Ta-bà này, phiền não ở đâu
mà khơng có! Muốn sống chỗ sung sướng, khơng phiền não, chỉ có ở cõi Cực Lạc
thơi. Chính nhờ chướng dun đó, mình mới có cơ hội tu hạnh nhẫn nhục. Hãy nhớ,
người có ý chí phi thường, phải có sức chịu đựng phi thường, mới làm được việc phi
thường”.Con còn nhớ Sư phụ vẫn hay đọc bài viết Thử Hịa Điệu Sống của nhà văn
Võ Đình Cường, để sách tấn anh em chúng con:“Kiên chí vẫn là mẹ đẻ thành công.

Trên đường lý tưởng, không phải lúc nào cũng có hoa và bướm. Đừng thấy những
đoạn gai góc khó đi mà rẽ sang lối khác đang dàn bày sẵn cho em hào nhống nhất
thời. Cứ quyết chí theo hướng của ta đi, rồi chậm hay mau, thế nào cũng có ngày
đến đích.Em ạ! Sóng triều rào rạt mỗi ngày hai bận xuống lên, kẻ thấp chí bạc tài
theo nó mà ra vào sông bến cũ.Những kẻ kiên tâm cả chí, thì dù sóng gió tơi bời,
cũng cố ra sức chống chèo cho qua cơn biển động. Qua cơn biển động ấy rồi, gió
thuận căng buồm, sẽ đẩy vút thuyền ta đến những bến trời mới lạ”. Đúng thật, đến
bây giờ con mới nhận ra. Trên đời khơng có gì dễ hay khó, khó hay dễ chỉ có lịng
mình mà thơi. Quan trọng là ta có quyết tâm, có ý chí nghị lực, sức chịu đựng hay
khơng thơi, có quyết chí làm hay khơng thơi. Chứ cảnh dun, tự thân nó khơng có
tốt xấu, tốt xấu ở nơi tâm mình, là từ nơi tâm ta chiêu cảm do túc nghiệp biến hiện
ra. Đó là điều kiện, là cơ hội cho mình tu tập hạnh nhẫn.Thiền Sư Hồng Bá nói:
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.Để có
những cánh mai vàng tuyệt đẹp, mùi hương thoang thoảng, chẳng phải hoa mai phải
trải qua mùa Đông lạnh buốt đó sao! Khơng trải qua sự rèn luyện tu tập, ta làm sao
thành tựu! Hoa mai đẹp, cánh mai thơm, là nhờ tích tụ nhựa sống bên trong. Hơn thế
nữa, hoa mai nở làm đẹp cho đời. Người tu cũng vậy, cống hiến sự vị tha vô ngã cho
đời, khơng vì lợi cũng chẳng cần danh. Cho nên, trong cái duyên của người tu, có
thuận duyên và nghịch duyên. Dù thuận nghịch, cũng đều có giá trị của nó.Người
học Phật hãy để lịng mình nhẹ như những cánh mai. Hãy sống như cây mai, như
hoa mai, dù sự sống ngắn ngủi nhưng làm đẹp cho đời. Phải kiên trì vững bước trên


con đường mình đã chọn. Hãy vun bồi cho mình nội lực thật mạnh, đức hạnh thật
sâu dày, rèn luyện giới định tuệ không ngừng nghỉ để thắng mọi chướng dun, thì
hoa tâm mới nở, tỏa hương thơm giải thốt.
3.2. Tu tập Sáu pháp hịa kính
1. Từ thân hành (Mettaṃ kāyakammaṃ).Từ thân hành là hành động từ ái của thân.
Nhờ mettā của thân mà có thân hịa. Khi thân được ni dưỡng, tẩm mát trong dịng
suối trong lành của từ tâm thì thân ấy sẽ sống hịa với tất cả chúng sanh, mn lồi,

thiên nhiên, cây cỏ.Từ thân hành có công năng loại trừ những hành động tội lỗi, xấu
ác của thân như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh; đồng thời cũng khắc chế, ngăn chặn
hiệu quả mọi hành động thô trược, thô tháo khác của thân như tay đấm, chân đá, sử
dụng đao gậy đối với huynh đệ đồng tu, đồng loại hoặc đối với các lồi hữu tình
khác.Từ thân hành ở trong tập thể Tăng Chúng lại còn đặc biệt quan trọng khác nữa
là tạo sự bình đẳng giữa mọi giai cấp, thành phần trong xã hội. Khi vào sống trong
giáo hội thanh tịnh của đức Mâu Ni, các vị tỳ-khưu huynh đệ đã tình nguyện từ bỏ
thân tơi là lá ngọc cành vàng, thân anh là q tộc, giàu sang vương giả; thân thầy là
bà- la-môn thượng đẳng tinh khiết; thân bạn là vai u thịt bắp, thân kia là nô lệ, cùng
đinh, hạ liệt. Tất cả thân-thế-gian quy ước ấy đều được hòa tan, hòa hợp trong biển
pháp từ thân hành cả thảy. Do nhờ từ thân hành, nghĩa là thân hòa mà các vị tỳ-khưu
từ bỏ kiếm, cung, đao, gậy; thu thúc thân trong giới luật của bậc Thánh. Khơng
những các vị lìa xa thân ác giới, thân ác hạnh mà những cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi
đều khoan thai, chừng mực; toát ra sự dịu dàng, hịa ái, từ tốn, cẩn trọng. Họ cịn
khơng để cho cái thân ấy ăn quá no, ngủ quá nhiều, mặc quá ấm; trang điểm cho cái
thân ấy quá cao sang, xa xỉ - mà phải điều tiết, chừng mực, kiểm thúc, chế ngự,
huấn luyện nó; tạo nên một đời sống tri túc, quân bình tuyệt hảo. Khi cái thân ấy
được điều độ như vậy thì thân ấy có đầy đủ sức khoẻ. Rồi dùng cái thân có đầy đủ
sức khỏe đó để tu tập thiền định, thiền quán; để giúp đỡ các bạn đồng tu, để xách
nước, tưới cây, quét sân; lau chùi chánh điện, bảo tháp, cốc liêu... Rồi còn sử dụng
cái thân ấy để đi khất thực hoặc đi hoằng pháp hóa độ nhiều phương vì hạnh phúc
và an vui cho nhiều người.Từ thân hành hay thân hòa cũng là tên gọi khác của
chánh nghiệp, một chi trong Bát Chánh Đạo, thuộc nhóm 3 tiết chế tâm sở (ngữ,
nghiệp, mạng) trong 25 tịnh quang tâm sở, có mặt trong những thiện tâm Dục giới;
và nhất là ở trong 8 tâm Siêu thế giới.
2. Từ khẩu hành (Mettaṃ vācākammaṃ).Tức là hành động từ ái của khẩu, của lời
nói, của ái ngữ. Cũng như thân hịa, khẩu mà hịa được là do được ni dưỡng tẩm
mát bởi mettā. Chính từ tâm phát sanh năng lực mát mẻ, từ hịa làm cho lời nói trở
nên dịu ngọt, dễ nghe, làm hoan hỷ lỗ tai của mọi người. Chính nhờ năng lực từ tâm
này đã ngăn chặn những ác khẩu, ác ngữ, những lời nói cộc cằn, thơ lỗ, chửi rủa,

mắng nhiếc...Cũng chính nhờ từ khẩu hành làm cho ta khơng thể nói dối, nói sai sự
thật, nói vu oan, vu cáo giá họa người khác; hoặc nói lời đường mật, nói châm


chích, nói dệt gấm thêu hoa, nói nhảm nhí, vơ ích, rỗng không, phù phiếm, tục tĩu,
vô duyên...Từ khẩu hành, do vậy, đã loại trừ tất cả mọi nguyên nhân xung đột, luận
tranh, đấu tranh bằng binh khí miệng lưỡi nên đưa đến khẩu hòa làm nền tảng cho
sự hòa hợp, tương ái, tương kính, khơng những trong cộng đồng Tăng lữ mà còn đối
với tha nhân trong đời sống ứng xử, tương giao nữa.Từ khẩu hành còn là tên gọi
khác của chánh ngữ, một chi phần trong Bát Chánh Đạo, thuộc nhóm 3 tiết chế tâm
sở (ngữ, nghiệp, mạng) trong 25 tịnh quang tâm sở, có mặt trong những thiện tâm
Dục giới, và nhất là ở trong 8 Siêu thế giới tâm.Muốn đạt được chánh ngữ, thì trong
lúc mạn đàm, đối thoại, giao tiếp, Đức Phật dạy các tỳ-khưu như sau:Nên nói về đức
từ bi, từ ái, vì từ bi, từ ái giúp ta có tâm hồn vị tha, rộng lượng; dễ dàng sống đời
khơng tham lam, khơng ích kỷ, không bỏn xẻn.
3. Từ ý hành (Mettaṃ manokammaṃ).Tức là hành động từ ái của ý hay tâm (theo
Abhidham thì ý, thức, tâm là đồng nghĩa) là hành động của tâm từ. Có tâm từ là có ý
hịa đúng như kinh Kosambīya đã định nghĩa:"... An trú từ ý hành là ln có ý nghĩ
từ ái đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng; tạo nên sự tương ái,
tương kính, đưa đến hịa hợp, nhất trí khơng có tranh luận".So sánh giữa thân và
khẩu thì ý hịa quan trọng hơn cả. Có từ ý hành mới có từ thân hành và từ khẩu
hành. Có ý hịa mới có thân hịa và khẩu hịa. Ý hoặc tâm rất quan trọng; làm tốt,
làm xấu, làm công, làm tội gì cũng là do nó cả (cơng vi thủ, tội vi khơi).... Bất luận
thiện pháp nào, bất luận gì liên quan đến hay thuộc về thiện pháp, tất cả đều xuất
phát từ tâm. Bất luận bất thiện pháp nào, bất luận gì liên quan đến hay thuộc về bất
thiện pháp, tất cả đều phát xuất từ tâm".Tất cả lời ăn tiếng nói, cử chỉ, hành động
phát lộ ra bên ngoài đều do tâm ý bên trong thúc động, chi phối. Nếu tâm hịa thì
thân, khẩu hịa. Nếu tâm bất hịa thì thân, khẩu bất hịa.Nếu muốn thuận hịa, hịa
hợp với nhau như nước với sữa, mỗi người phải biết từ bỏ bản ngã, thói quen, tình
cảm, quan niệm, cá tính riêng tư của mình lúc sống với nhau. Nói cách khác, phải

biết từ bỏ tâm của mình để sống theo tâm của người khác, như đoạn kinh Rừng
Sừng Bò sau đây"- Bạch Thế Tôn! Chúng con suy nghĩ như sau: Ta hãy từ bỏ tâm
của ta để sống theo tâm của tôn giả này. Và con đã từ bỏ tâm của con để sống theo
tâm của tôn giả ấy. Chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm. Nhờ
vậy, chúng con sống hòa hợp với nhau như nước với sữa, sống nhìn nhau với con
mắt trong lành, thiện cảm" (Trung bộ kinh I).Nói từ bỏ tâm của mình hay từ bỏ bản
ngã của mình giữa tập thể Tăng lữ tưởng đâu là quá lý tưởng, chỉ có các bậc Thánh
nhân mới sống với nhau như vậy được. Không phải thế đâu. Nếu ta đem áp dụng "lý
thuyết" ấy trong đời sống tương giao, ứng xử, trong cộng đồng tu viện, thiền viện,
thì mỗi người cần có chút thương u, thơng cảm nhau, biết chu tồn bổn phận và
trách nhiệm của mình, có tinh thần tự giác, tự trọng, thì sẽ đưa đến sự hịa hợp tuyệt
vời. Như đoạn kinh giản dị và cụ thể ở trong kinh Rừng Sừng Bị: Ở đây, bạch Thế
Tơn! Chúng con, ai đi làng khất thực về trước thì người ấy đặt các chỗ ngồi, soạn
sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bình bát bỏ đồ dư. Ai đi làng khất thực


về sau, thì người ấy, cịn đồ ăn thừa, nếu muốn thì cứ ăn; nếu khơng muốn thì bỏ
vào chỗ khơng có cỏ xanh hay đổ vào nước khơng có lồi cơn trùng. Sau đó, người
ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi cái bát bỏ đồ dư
và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống, ghè nước rửa chân hay ghè nước trong
nhà cầu hết nước, trống khơng thì người ấy sẽ tìm cách lo liệu nước. Nếu ai làm
khơng nổi với sức tay của mình thì dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai: Chúng ta hãy
cùng lo liệu nước!Bạch đức Thế Tôn! Chúng con làm việc không gây ra tiếng động.
Và đến ngày thứ năm, bạch đức Thế Tôn! Suốt đêm, chúng con ngồi đàm luận về
giáo pháp. Chúng con sống khơng phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần”.Như vậy, một đời
sống thanh cao, hiền thiện không phải là lý tưởng trừu tượng, xa vời... mà nó chính
là đời sống lành mạnh, trong sáng, hiền hòa, giản dị ở đây và bây giờ. Chân lý, sự
thật bao giờ cũng là cái thiết thực hiện tại. Một đời sống chỉ cần có tu tập, có chánh
niệm, tỉnh giác thì tâm hịa có thể tựu thành ngay lập tức để đem lại hạnh phúc, an
vui cho mình, cho tập thể, cho cộng đồng xã hội vậy.

4. Lợi hòa (Lābhadhammikā).Cộng đồng Tăng lữ của đức Thế Tơn sở dĩ sống thanh
tịnh, hịa hợp với nhau như nước với sữa là do thân, khẩu, ý hịa, đồng thời có sự
đóng góp của lợi hòa nữa..Đối với vật chất thuộc tứ sự, tức vật thực, y áo, thuốc
men, chỗ ngủ nghỉ nhận được đúng pháp, hợp pháp; các vị tỳ-khưu san sẻ đồng đều
đến các vị đồng phạm hạnh, tạo nên đời sống tương ái, tương kính; và nhất là xóa bỏ
sự bất bình đẳng về lợi dưỡng.Như chúng ta đã biết, giáo hội của đức Tôn Sư thời
ấy gồm đủ mọi thành phần, giai cấp trong xã hội. Các vị tỳ-khưu xuất thân vua
chúa, q tộc, tướng lãnh, trí thức đã sống hịa hợp với những tỳ- khưu xuất thân thợ
thuyền, tướng cướp, cùng đinh, nơ lệ. Họ tình nguyện sống đời vơ sản bần hàn trong
giáo hội độc thân văn minh, công bằng, dân chủ, giải thoát, tự do... cao thượng nhất
trong lịch sử lồi người. Vì lý tưởng giác ngộ là tối hậu nên họ khơng được quyền
dính mắc vào tư hữu. Nói cách khác, họ khơng thể sống đời nơ lệ vật chất, tự trói
buộc mình vào cái mà họ đã từ bỏ. Do vậy, tam y, bình bát là tài sản duy nhất cho vị
tỳ-khưu lên đường. Y dư, bát thừa là phải xả. Sàng tọa chỉ để ngủ nghỉ qua đêm. Vật
thực chỉ tạm thời nuôi mạng sống để hành đạo. Thuốc men chỉ để phòng bệnh và
chữa bệnh. Tất cả đều nhận được một cách chánh mạng, hợp pháp và luật từ tâm
tịnh tín của thập phương. Đấy là hình ảnh đẹp, mang tính thuyết phục cao nhất, là
tấm gương sáng chói nhất cho những ai bước chân vào con đường ly dục, từ bỏ đời
sống ích kỷ, tư hữu, lợi dưỡng đúng như hình ảnh của câu thơ mang giá trị mỹ học
ngàn đời:
Ngàn nhà, một bát xin ăn
Sá gì cơ lẻ, chiếc thân dặm ngồi Chỉ vì sinh tử hơm mai
Nắng mưa, sương tuyết độ người hữu duyên!”


5. Giới hịa (Sīla sāmđnagata).Đóng góp cho sự hịa hợp, thanh tịnh trong đời
sống Tăng Chúng cịn có giới hịa nữa, vì giới luật là nền tảng của Phật giáo (vinayo
sāsana mūlaṃ) nên nó rất quan trọng.Giới luật của tỳ-khưu, theo Phật giáo Nam
Tông là Tứ thanh tịnh giới; tuy nhiên, các tông phái Phật giáo khác cũng tương tợ
nhau. Biệt biệt giải thốt giới. Lục căn thu thúc giới.Ni mạng thanh tịnh giới.

Quán tưởng vật dụng giới.Nếu giới luật được thọ trì nghiêm túc, đúng đắn sẽ đưa
đến một đời sống giải thốt, khơng bị chấp trước, được người trí tán thán. Một đời
sống có “kỷ luật cảm xúc và kỷ luật tinh thần” chính là một đời sống qn bình
tuyệt hảo, đem đến sự hài hịa giữa nội tâm và ngoại cảnh, đem đến hạnh phúc và an
vui cho mình và người. Có giới, ta sẽ tri Tức về ăn ở, biết tôn trọng và thương yêu
huynh đệ đồng tu, thương u mọi lồi, khơng dám xâm phạm cả những sinh vật li
ti, bé mọn, cả một cọng cỏ, mầm xanh vô tri giác.Trong một tu viện, tự viện, thiền
viện, sa-di có giới của sa-di, tỳ-khưu có giới của tỳ-khưu; giới tử, cư sĩ thọ 5 giới
hay 8 giới, ai cũng có bổn phận về chính giới hạnh của mình, ai cũng hướng đến sự
an lạc, thanh tịnh và giải thốt. Ở đây khơng có sự dịm ngó, chỉ trích, phê phán
nhau. Người nào phận sự nấy. Người ít giới tôn trọng người nhiều giới. Người nhiều
giới quan tâm nhắc nhở người ít giới. Tất cả đấy sẽ tạo nên một khơng khí hài hịa,
ấm cúng, đạo vị; nó tạo nên sự tương ái, tương kính, đưa đến nhất trí, hịa hợp,
khơng có xung nghịch và tranh cãi nhau.
6. Kiến hịa (Diṭṭhi sāmđnagata).Đức Phật dạy: "Này các thầy tỳ-khưu! Trong 6
pháp cần phải ghi nhớ này, có một pháp tối thương, thâu nhiếp tất cả, làm giềng mối
cho tất cả, chính là tri kiến này, thuộc bậc thánh, có khả năng hướng thượng, khiến
người thực hành chơn chánh diệt tận khổ đau. Này các tỳ-khưu! Ví như một căn nhà
có mái nhọn như ngọn tháp, có một bộ phận tối thượng, thâu nhiếp tất cả, làm giềng
mối cho tất cả, chính là mái nhọn".Tri kiến hay kiến hịa là pháp cuối cùng của Lục
hòa, là thấy biết bản chất như thực của các pháp; một sự thấy biết chơn chánh, trọn
vẹn, trực thị; không qua cảm xúc phù du cùng tri giác bọt bèo, chủ quan, phiến diện.
Đây là cả một sự hội thông, cảm nghiệm trực tiếp về thực tại mà khơng qua sự khúc
xạ của trí năng cùng những phán đoán, suy luận, diễn giảng của ý niệm. Tri kiến là
gọi tắt của chánh tri kiến. Chánh tri kiến là gọi tắt của chánh kiến, chánh văn, chánh
giác, chánh tri.Ta cũng biết rằng có hai loại chánh kiến: Chánh kiến hữu lậu có sanh
y và chánh kiến vơ lậu, siêu thế, khơng có sanh y.Thế nào là chánh kiến hữu lậu, có
sanh y?“- Thấy có bố thí, cúng dường, có lễ hy sinh, có quả báo các nghiệp thiện ác,
có đời này, đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh; ở đời có bậc sa môn, bàla-môn; như vậy là chánh kiến hữu lậu. Ngược lại là tà kiến” (Trung bộ kinh III).



C.KẾT LUẬN

Tóm lại, từ những sự tương đồng và dị biệt cơ bản trên cho thấy giữa Bà-la-môn
giáo và Phật giáo đã có sự liên hệ hết sức mật thiết về cả ngơn ngữ lẫn tư tưởng triết
lý. Chỉ có điều cần phải nhắc lại rằng, bất cứ sự đánh đồng nào giữa hai tư tưởng
này đều khơng có nghĩa là nó thuộc về nhau. Vì sao? Vì ngay trong mục đích căn
bản mà mỗi xu hướng đều cho thấy nó hồn tồn khơng phải là một hay có sự vay
mượn nào cả, ngoại trừ sau này, khi Hindu giáo được chấn chỉnh thì mới có sự tổ
hợp một số tư tưởng phi Veda, như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo. . . được
đưa vào và giải thích theo phong cách của Hindu để có thể hiểu được như là một
khía cạnh chính thống của Veda. Một Phật giáo chủ trương vô thật ngã và xây dựng
nền đạo học trên cơ sở ấy, cịn một bên là Bà-la-mơn giáo thừa kế tư tưởng đề cao
Bản Ngã tuyệt đối và tìm cách lý giải về điều đó thì làm sao có thể là một hay vay
mượn tư tưởng được. Và nếu có đi nữa thì cũng chỉ là giao thoa trên bình diện ngơn
ngữ mà thơi. Phật giáo cho con người là hơn cả vì có thể thực hiện được tất cả sự tốt
đẹp để có thể sống hài hịa. Để giáo dục đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu, với
yếu tố biện chứng, kết cấu chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn
nguyên của khổ đau là do thâm, sân , si cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên,
đồng thời khẳng định con đường diệt khổ đó là “trung đạo”, “bát chính đạo”… chứa
đựng sự lý đầy thuyết phục và hướng con người đến nếp sống thiện lánh xa cái ác.
Dạy con người sống cảm thông, hỷ xả với nhau một cách hịa mục. Vị tha dạy con
người sống vì người khác, bao dung độ lượng đó là phương pháp giúp con người đạt
được đức hạnh. Đây là động lực nảy sinh mọi điều tốt lành.Phật giáo khẳng định tất
cả mọi người đều có “Phật tính” sẽ đạt được nếu thực hành đúng theo giáo lý trao
dồi đạo đức trong cuộc sống của chính mình sẽ được hạnh phúc.Từ đó ta thấy giá trị
tinh thần đạo đức toàn diện của giáo dục Phật giáo là trình bày sự thật về những mối
tương quan giữa sự vật hiện hữu trong cuộc đời để giúp con người có được chính
kiến hịng tạo lập cuộc sống của mình và chuyển đổi hồn cảnh, để có thể chinh
phục và cảm hóa được mọi người xung quanh.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


CHÚ THÍCH:
[1]. />%C3%B4n_gi%C3%A1o
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Các tơn giáo, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2001, tr. 85 – 96.
2.Triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 1, tr. 21 – 722.
3.Hữu Ngọc, Lê Hữu Tầng, Dương Phú Hiệp: Từ điển triết học giản yếu, Nxb. Khoa
học Kỹ thuật, Hà Nội, 1987.
4.M. T. Stepaniannts: Triết học phương Đông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
5.Nguyễn Đăng Thục: Lịch sử triết học phương Đơng, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh,
2001.
Tài liệu internet
1. />2. />3. />4. />5. />


×