DDttt
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------------------------
ĐỀ TÀI
QUAN ĐIỂM TRIẾT THUYẾT CỦA NGOẠI ĐẠO
TRONG VĂN HỌC PĀLI
Tiểu luận học kỳ 4 : Môn Văn Học PĀLI
Người hướng dẫn khoa học: TS.NS.TN.Hiếu Liên
TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2021.
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC
VIỆN
PHẬT
GIÁOVIỆT
VIỆT NAM
NAM TẠI
CHÍCHÍ
MINH
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
TẠITP.HỒ
TP. HỒ
MINH
-----------------------------------------------------
TÊN TÁC GIẢ:Nguyễn Quang Gỡ
PHÁP DANH: T.Quảng Nhuận
LỚP ĐTTX: ĐTTX VI
MSSV: 6094
BÀI TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM TRIẾT THUYẾT CỦA NGOẠI ĐẠO TRONG
KINH VĂN HỌC PĀLI
Tiểu luận học kỳ 4 : Môn Văn Học PĀLI
Người hướng dẫn khoa học: TS.NS.TN.Hiếu Liên
TP.Hồ Chí Minh , Năm 2021.
- LỜI CẢM ƠN :
Tôi xin trân thành tri ân những cá nhân, tập thể và những ai liên quan đã hướng dẫn
giúp đỡ, cộng tác trong quá trình thực hiện đề tài.
(Tác giả tiểu luận ký tên).
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT
....................................................................................................................... ………..
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
TP.HCM, ngày …… tháng …… năm 2021
TS.NS.TN.Hiếu Liên
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Phạm vi đề tài.............................................................................................................1
3. Cơ sở dữ liiệu.............................................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................1
5. Bố cục tiểu luận.........................................................................................................1
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : Giới thiệu về kinh trung bộ.................………………………………………..2
1.1.Nghiên cứu về kinh trung bộ...............................................................................................2
1.2.Nội dung người nghe,người giảng,địa điểm giảng kinh......................................................2
1.2.1.Nội dung ......……………………………………………………………………………3
1.1.2. Đối tượng nghe …………………………………………………………………….......3
1.1.3. Người giảng………………………………………………………………….................3
1.1.4. Địa điểm giảng................................................................................................................3
CHƯƠNG 2: Nhân sinh quan,thế giới quan phật giáo trong kinh trung bộ..............................3
2.1. Quan điểm về nguồn gốc con người...................................................................................3
2.1.1. Giáo lý duyên khởi……………………………………………………………...............3
2.1.2. Ngũ uẩn……………………………………………………............................................4
2.2. Quan điểm về sự giải thoát ................................................................................................4
2.2.1.Thiền định và thiền qn..................................................................................................4
2.2.2.Tiến trình giải thốt..........................................................................................................4
CHƯƠNG 3:So sánh kinh có nội dung đến cuộc sống quan điểm triết thuyết của ngoại đạo
3.1.1.Quan điểm về thế giới quan.............................................................................................5
3.1.2. Quan điểm về nghiệp báo............................................................................................6-12
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................12
A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Ta biết rằng khổ đau có mặt cùng với sự hiện hữu của con người. Khổ đau do con người phát
hiện và cảm nhận. Nếu khơng có con người thì khơng thể đặt ra vấn đề đau khổ. Triết học
,quan điểm của các tôn giáo-ngoại đạo khác đã từng nêu vấn đề: “Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và
sẽ đi về đâu?”. Nhưng những lời giải đáp mang tính chất siêu hình của triết học thế
gian không làm thỏa mãn những người đang khao khát đi tìm chân lý. Đơi lúc con người lại
muốn ngụy biện về sự hiện hữu của mình theo kiểu ‘triết lý hiện sinh’: “Tơi đâu có muốn
sinh ra đời?Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật đã nhiều lần đề cập đến người có trí: ‘Người có
trí là người có nghe lời dạy của Đức Phật, có tu tập hành trì đúng như lời Phật dạy, biết rõ sự
sanh diệt của các pháp. Người ấy biết rõ: đây là lậu hoặc, đây là lậu hoặc tập khởi, đây là lậu
hoặc đoạn diệt, đây là con đường đi đến lậu hoặc đoạn diệt. Từ đó, người ấy tinh tấn tu tập
hành trì để dần dần đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến đoạn diệt các mầm mống của sanh y, tiến
tới an lạc, giải thốt, Niết Bàn.
Xuất phát từ thực tế đó, học viên chọn đề tài “quan điểm,triết thuyết của ngoại đạo trong
văn học Pàli ” làm đề tài tiểu luận.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, tiểu luận khái quát một cách hệ thống những nội dung cơ bản của
kinh Trung Bộ, nêu ra những giá trị cuộc sống nhân sinh quan Phật giáo ,thế giới quan...trong
kinh Trung Bộ và so sánh với Kinh Trung A Hàm ,từ đó học viên ứng dụng quan điểm.. với
đời sống ,nhận thức của học viên.
Với mục tiêu đặt ra, luận văn có những nhiệm vụ sau: phân tích, khái quát những nội dung về
quan điểm,triết thuyết của ngoại đạo của Phật giáo trong kinh Trung Bộ và kinh trung a
hàm,từ đó nêu ra những giá trị lý luận, thực tiễn của nó đối với đời sống học viên.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung nhân sinh
quan,thế giới quan của ngoại đạo trong kinh Trung Bộ, phân tích và đánh giá những giá trị
và ảnh hưởng của nó đối với các phương diện của đời sống tinh thần người viết.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn tìm hiểu những tư tưởng nhân sinh quan ,quan
điểm,triết thuyết của ngoại đạo trong kinh Trung Bộ qua văn bản đã được dịch sang tiếng
Việt của hịa thượng Thích Minh Châu (Đại tạng kinh Việt Nam – Kinh Trung Bộ, ba tập,
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành,1992), đồng thời, so sánh với những bản kinh
tương đương với kinh trung A Hàm để làm sáng tỏ vấn đề.
4.Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, trừu tượng và cụ thể, lịch sử và lơgíc, đối chiếu, so sánh.
5.Bố cục của đề tài
Tiểu luận bao gồm phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phần
Nội dung với 3 chương, 9 tiết.
1
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU VỀ KINH TRUNG BỘ
1.1.Nghiên cứu về kinh trung bộ:
- Trung Bộ Kinh là tuyển tập thứ 2 trong 5 bộ kinh thuộc văn hệ Pali (Nikàya), gồm 152 pháp
thoại do đức Phật và các vị đại đệ tử của đức Phật giảng thuyết khi Ngài cịn sinh tiền. Do vì
độ dài của kinh vừa phải, không quá dài như Kinh Trường Bộ hoặc ngắn như Kinh Tương
Ưng, Kinh Tăng Chi, hoặc nhiều đề tài tổng hợp như Tiểu Bộ, do đó được đặt tên là “Trung
Bộ Kinh” (Majjhima Nikàya).
-Tác phẩm “So sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pàli” (1961) của
Thích Minh Châu. Trong tác phẩm này, tác giả đã so sánh kinh Trung A-hàm, hiện được duy
trì trong bản chữ Hán và kinh Trung Bộ trong bản chữ Pàli. Qua đó, Tiến sĩ Thích Minh Châu
có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm bằng chữ Hán
và bản kinh Pàli này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt. Ơng đã nghiên
cứu và có kết luận rằng, cả hai bản dịch chữ Hán cũng như Pàli đều căn cứ trên một bản gốc.
“Tóm tắt kinh Trung Bộ” của Thích Minh Châu, tác giả đã tóm tắt nội dung từng bài kinh và
giải thích những vấn đề, những thuật ngữ được đức Phật nói đến trong các bài kinh đó.
“Tốt yếu kinh Trung Bộ” (3 tập) của Thích Nữ Trí Hải. Với tác phẩm này, trong từng bài
kinh, tác giả giải quyết theo năm phần: toát yếu điểm quan trọng nhất của bài kinh, tóm tắt và
bình giải nội dung từng bài kinh, chú giải thuật ngữ, liệt kê và giải thích các pháp số liên hệ,
khái quát nội dung chính theo hình thức văn vần.
“Tìm hiểu Trung Bộ kinh” (3 tập) của Thích Chơn Thiện. Ba tập của tác phẩm tương ứng với
ba tập của kinh Trung Bộ. Trong mỗi tập, tác giả đã trình bày với ba phần chính: Tổng quát
các nội dung, nêu đặc tính của các nội dung và tổng luận về tập kinh.
-Tuy nhiên, do những mục đích khác nhau, nên các cơng trình trước đây chủ yếu tập trung
vào việc phiên dịch, giảng giải nhằm để giảng dạy trong các trường Phật học và ứng dụng
thực hành trong giới tăng ni và những người theo đạo Phật. Cho đến nay, chưa có cơng trình
nghiên cứu nào tiếp cận kinh Trung Bộ từ góc độ triết học để tìm hiểu về quan điểm nhân
sinh Phật giáo.
1.2.Nội dung,người nghe ,người giảng và địa điểm giảng:
1.2.1.Nội dung:
Nội dung kinh vô cùng uyên áo, bao quát nhiều chủ đề. Nếu chúng ta chia thành 5 phần
chính: Phật, Pháp (giáo lý), Tăng, quan điểm ngoại đạo, vũ trụ quan Phật giáo thì Trung Bộ
Kinh chuyển tải đầy đủ 5 phần này. Mỗi bài kinh là một chủ đề riêng biệt hoặc một bài kinh
với nhiều nội dung quan trọng khác nhau. Từ những sự kiện trong những kiếp quá khứ của
Bồ-tát trước khi thành Phật đến kiếp chót Bồ-tát thọ thai giáng phàm, cho đến những sự kiện
xuất gia, học đạo và chứng đắc Thánh quả vô thượng giác với những thành tựu tam minh, tứ
vô sở úy, lục thông, thập lực... Các pháp tu tập Tứ Niệm xứ, Tứ Chánh cần, Tứ Như ý túc,
Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề phần, Bát Chánh đạo,... được trình bày đầy đủ, cách này hoặc
cách kia để quảng diễn lời dạy của đức Phật. Lộ trình tu chứng từ một địa vị phàm phu đến
chứng đắc Thánh quả Tu-đà-hoàn (Sotāpanna), Tư-đà-hàm (Sakadāgāmī), A-na-hàm
(Anāgāmī) và A-la-hán (Arahant). Trung Bộ Kinh còn trình bày chi tiết những điều bất thiện
của một phàm phu hay cho đến những nếp sống cao cả của một đồn thể thanh tịnh, giải
thốt.
2
1.2.2. Đối tượng nghe:
Hội chúng Tỳ-kheo (Căn bản pháp môn, 1; Kinh Tất cả lậu hoặc, số 2), Tỳ-kheo-ni (Ví dụ
Cái cưa, số 21), Sa-di (Kinh Giáo giới La-hầu-la ở Am-ba-la, số 61 và Đại kinh Giáo giới Lahầu-la, số 62), cư sĩ nam (Kinh Giáo giới Cấp Cô Độc, số 143), hội chúng Bà-la-môn
(Kinh Devadaha, số 101), du sĩ ngoại đạo (Đại kinh khổ uẩn, số 13; Đại kinh Sakuludayi, số
77), Đế Thích, Ma vương (Phạm thiên cầu thỉnh, số 49; Kinh Hàng ma, số 50), v.v… 152 bài
kinh trong Trung Bộ Kinh hầu như mỗi bài là một đối tượng khác nhau trong mỗi trường hợp
khác nhau.
1.2.3.Người giảng:
-Phần lớn các bài kinh trong Trung Bộ Kinh do chính Đức Phật giảng, nhưng cũng có những
trường hợp sau: - Đức Phật thuyết vắn tắt và sau đó Tơn giả Sariputta và Moggalàna giảng
như Kinh Không uế nhiễm (số 5)...
- Tôn giả Xá-lợi-phất giảng độc lập như Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc (số 143). - Tôn giả
Sariputta giảng sau khi Phật giảng vắn tắt như Kinh Thừa tự pháp (số 3), Kinh Chánh Tri kiến
(số 9), Đại kinh Dấu chân voi (số 28).
- Các Tôn giả khác (như Tôn giả Maha Kotthita) thỉnh vấn Tôn giả Sariputta, như Đại kinh
Phương quảng (số 43).
1.2.4. Địa điểm giảng:
Mỗi bài kinh có một bối cảnh riêng, do đó địa điểm được Đức Phật hoặc các Tôn giả đại đệ
tử của Đức Phật giảng cũng khác nhau. Tuy nhiên, Tịnh xá Kỳ Viên tại Savatthi là địa điểm
xuất hiện nhiều kinh nhất.
CHƯƠNG 2
NHÂN SINH QUAN THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO TRONG KINH TRUNG BỘ
2.1.QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO VỀ NGUỒN GỐC CON NGƯỜI TRONG KINH TRUNG BỘ
2.1.1.
Giáo lý Duyên khởi
Duyên khởi hay Thập nhị nhân duyên là một giáo lý quan trọng và rất đặc thù của Phật giáo.
Duyên khởi liên hệ đến phạm trù nhân sinh quan và vũ trụ quan, được đề cập nhất quán trong
tất cả các kinh điển của Phật giáo. Duyên khởi là lý thuyết đầu tiên phản bác hệ thống triết
học Vệ Đà của Bà la môn, phủ nhận tư tưởng sáng tạo của đấng Phạm Thiên (Brahman), mở
ra một hướng tu duy mới cho hệ tư tưởng triết học Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI TCN.
Duyên khởi có nghĩa là dựa vào các nhân duyên mà khởi lên hay còn gọi là “pháp tùy thuộc
phát sinh”, sự sinh khởi của một pháp tùy thuộc vào điều kiện hay yếu tố cùng sinh khởi với
nó làm nhân, làm duyên cho nó. Duyên khởi được đức Phật nêu lên bằng một định thức tổng
quát: “Cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh, cái này khơng có nên cái kia
khơng có, cái này diệt nên cái kia diệt”. Duyên khởi là giáo lý đặc thù của triết học Phật
giáo, là đầu mối, là chiếc chìa khóa mở kho tàng giáo lý của Phật giáo. Nếu hiểu được giáo lý
Duyên khởi tức là nắm được cái cốt lõi của triết lý Phật giáo.
2.1.1.1.Giáo lý Nghiệp
Khái niệm: Nghiệp là hành động có chí tạo tác, hành động được sự tham gia của ý thức. Khi
tạo tác thiện, ác gọi là Nghiệp nhân, khi cảm thọ khổ, vui gọi là Nghiệp quả. Nghiệp chính là
động lực vẽ nên tiến trình “nhân quả - luân hồi” của con người. Tìm hiểu về Nghiệp cũng là
tìm hiểu nhân quả nghiệp báo. Nghiệp báo chính là hệ quả tự nhiên của nghiệp. trong giáo lý
Phật giáo, Nghiệp được phân ra làm nhiều loại. Tuy nhiên, ở đây, trên phương diện nhân sinh,
chúng ta chỉ tìm hiểu về hai sự phân loại cơ bản và tiêu biểu của Nghiệp để hiểu sâu hơn về ý
nghĩa của chúng. Với những quan điểm về Nghiệp này, Phật giáo đã đi đến giải thích về
3
những sự khác biệt nhau điển hình của con người như: vấn đề giữa người sống lâu và người
chết yểu; giữa người đẹp kẻ xấu; giữa người có địa vị, quyền thế lớn và người có địa vị quyền
thế nhỏ; giữa người giàu và người nghèo.
2.1.1.2.Ngũ uẩn
-Uẩn là sự tập hợp, chứa nhóm, tích tụ, tập hợp theo từng loại, từng nhóm cùng tính chất.
Theo quan điểm của Phật giáo, con người là một hợp thể của năm yếu tố: Sắc uẩn là yếu tố
vật chất, Thọ uẩn là yếu tố cảm giác, Tưởng uẩn là yếu tố tri giác, Hành uẩn là yếu tố tâm lý
tạo động lực đi tới tạo nghiệp và kết quả của nghiệp như ước muốn, quyết định thuộc ý chí;
Thức uẩn là nhận biết, phân biệt đối tượng
- Theo quan điểm của Phật giáo, con người là một hợp thể của năm yếu tố: Sắc uẩn là yếu tố
vật chất, Thọ uẩn là yếu tố cảm giác, Tưởng uẩn là yếu tố tri giác, Hành uẩn là yếu tố tâm lý
tạo động lực đi tới tạo nghiệp và kết quả của nghiệp như ước muốn, quyết định thuộc ý chí;
Thức uẩn là nhận biết, phân biệt đối tượng.
2.2.Quan điểm về sự giải thoát:
2.2.1. Thiền định và thiền quán
Các đề mục và pháp môn thiền trình bày trong kinh Trung Bộ có thể chia thành hai hệ thống
tương quan lẫn nhau.
“Tịnh chỉ tu tập” còn gọi là thiền định. Thực hành tịnh chỉ nhắm vào sự phát triển trạng thái
tâm an định, hợp nhất kể như một phương tiện để cảm nghiệm an lạc nội tại và làm phát sanh
trí tuệ.
“Minh sát tu tập” cịn gọi là thiền quán, tức là tu tập nhắm vào việc phát triển trí tuệ để thấu
triệt thực chất mọi hiện tượng.
2.2.2. Tiến trình giải thốt
Tiến trình giải thốt của Phật giáo gồm việc trãi qua “bốn bậc thiền” và chứng đắc “tam
minh”.
- Bốn bậc thiền:
Sơ thiền: trạng thái ly dục sinh hỷ, cịn tầm cịn tứ (xóa bỏ ái dục, đạt được an vui, nhưng còn
tiềm ẩn các ý niệm).
Nhị thiền: trạng thái định sinh hỷ lạc, có nghĩa là niềm vui của Nhị thiền do hoàn toàn an ổn
trong “định” mà có.
Tam thiền: trạng thái xả niệm lạc trú (dứt bỏ ý niệm, thường xuyên trú trong an lạc).
Tứ thiền: trạng thái xả niệm, thanh tịnh, không lạc, khổ.
- Tam minh: là ba khả năng của một vị đã chứng Thánh quả. Sau khi nhập được vào Tứ thiền,
đắc được đệ tứ Thánh quả thì bắt đầu trãi qua kinh nghiệm tam minh.
Trước tiên, thấy được sự lưu chuyển sinh tử của chính mình ở các cõi theo nghiệp duyên
thiện ác để thành tựu Túc mạng minh.
Kế đến, thấy sự lưu chuyển sinh tử của vô số chúng sinh ở các cõi theo nghiệp duyên thiện ác
để thành tựu Thiên nhãn minh.Cuối cùng, thấy rõ bản chất và nguyên nhân của đau khổ luân
hồi sinh tử, bản chất và con đường đưa đến Niết bàn để thành tựu Lậu tận minh.
Tiến trình giải thốt với bốn bậc thiền được đức Phật chỉ ra một cách rất rõ ràng như là một
khoa học về tâm linh. Mỗi bậc thiền đều có tiêu chuẩn xác định, đều có diễn tả và hướng dẫn
rõ ràng để giúp người học thấu rõ từng bước trên con đường giải thoát khổ đau.
4
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, TRIẾT THUYẾT CỦA NGOẠI ĐẠO
3.1.1.Quan điểm về thế giới quan
Trong kinh Trung Bộ :Bài kinh :tiểu kinh Manlunkyaputta số 63
Sakuludàyi là một đạo sư của một Hội chúng du sĩ, người thường bàn luận tranh cải với các
Lục sư ngoại đạo, đã từng đặt nhiều câu hỏi mà các ngoại đạo sư lúng túng khơng có câu trả
lời, như là trường hợp Nigantha Nàtaputta không thể trả lời được các câu hỏi về quá khứ của
Sakuludàyi. Nếu Thế Tơn trả lời cho ta: "Thế giới là thường cịn, thế giới là vô thường, thế
giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân
này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai khơng có tồn tại sau khi chết; Như Lai
có tồn tại và khơng có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai khơng có tồn tại và khơng khơng tồn
tại sau khi chết", thời ta sẽ sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Thế Tơn. Cịn nếu Thế Tơn
khơng trả lời cho ta: "Thế giới là thường còn, thế giới là vơ thường... Như Lai khơng có tồn
tại và khơng không tồn tại sau khi chết", thời ta sẽ bỏ học pháp và hoàn tục. Này
Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh khơng thể nói là tùy thuộc vào quan điểm "Như Lai có
tồn tại và khơng tồn tại sau khi chết". Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh khơng thể nói
là tùy thuộc với quan điểm "Như Lai khơng có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm "Như Lai có tồn tại và khơng có tồn tại sau khi
chết", hay dầu cho có quan điểm "Như Lai khơng có tồn tại và khơng khơng tồn tại sau khi
chết", thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, não mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ
ngay trong hiện tại".
Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là khơng trả lời những gì Ta khơng trả lời. Hãy thọ trì
là có trả lời những gì Ta có trả lời. Và này Malunkyaputta, điều gì Ta khơng trả lời? "Thế giới
là thường cịn", này Malunkyaputta là điều Ta không trả lời. "Thế giới là vô thường" là điều
Ta không trả lời. "Thế giới là hữu biên" là điều Ta không trả lời. "Thế giới là vô biên" là điều
Ta không trả lời. "Sinh mạng này và thân này là một" là điều Ta không trả lời. "Sinh mạng
này và thân này khác" là điều Ta khơng trả lời. "Như Lai có tồn tại sau khi chết" là điều Ta
không trả lời. "Như Lai khơng có tồn tại sau khi chết" là điều Ta khơng trả lời. "Như Lai có
tồn tại và khơng tồn tại sau khi chết" là điều Ta không trả lời. "Như Lai khơng có tồn tại và
khơng khơng tồn tại sau khi chết" là điều Ta không trả lời.Và này Malunkyaputta, vì sao điều
ấy Ta khơng trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy khơng liên hệ đến mục đích, điều ấy
không phải là căn bản Phạm hạnh, điều ấy không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, cho nên điều ấy Ta khơng trả lời.
Và này Malunkyaputta, điều gì Ta trả lời? "Ðây là khổ", này Malunkyaputta là điều Ta trả
lời". "Ðây là khổ tập" là điều Ta trả lời. "Ðây là khổ diệt" là điều Ta trả lời. "Ðây là con
đường đưa đến khổ diệt" là điều Ta trả lời.
5
Và này Malunkyaputta,vì sao điều ấy Ta trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy có liên hệ
đến mục đích, điều ấy là căn bản Phạm hạnh, điều ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an
tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, vì vậy điều ấy Ta trả lời. Do vậy, này Malunkyaputta, hãy
thọ trì là không trả lời những điều Ta không trả lời.
Kinh Trung A Hàm bản tương đương:kinh tiễn dụ số 221
Tôn giả Man Đồng tử , trong tâm khởi lên ý niệm, “Thế giới hữu thường hay vô thường, thế
giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai
tuyệt diệt, hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt ,
hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ ‘
“Dù ‘Thế giới hữu thường’, thì vẫn có sanh, có già, có bệnh, có chết, sầu bi, khóc than, ưu
khổ, ảo não, như vậy toàn vẹn khối lớn khổ đau này phát sanh. Cũng vậy, dù ‘Thế giới vô
thường; thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác;
Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt
diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt, cũng khơng phải khơng tuyệt diệt?’ thì vẫn có
sanh, có già, có bệnh, có chết, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não; như vậy, toàn vẹn khối lớn
khổ đau này phát sanh.
“‘Thế giới hữu thường’, Ta không xác quyết điều này. Vì điều này khơng tương ưng với cứu
cánh, không tương ưng với pháp, không phải căn bản phạm hạnh, khơng đưa đến trí, khơng
đưa đến giác, khơng dẫn đến Niết-bàn. Cho nên Ta không xác quyết điều này. Cũng vậy, ‘Thế
giới vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân
khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không
tuyệt diệt hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Ta
không xác quyết điều này. Vì lý do gì mà Ta khơng xác quyết những điều này? Vì những điều
này khơng tương ưng với cứu cánh, không tương ưng với pháp, không phải là căn bản phạm
hạnh, khơng đưa đến trí, khơng đưa đến giác, không dẫn đến Niết-bàn. Cho nên Ta không xác
quyết những điều này.“Những pháp nào được Ta xác quyết nói đến? ‘Đây là khổ’, Ta xác
quyết nói ‘Đây là khổ’, ‘Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo tích’ Ta xác quyết nói. Vì những lý
do gì mà Ta xác quyết nói những điều này? Vì những điều này tương ưng với cứu cánh,
tương ưng với pháp, là căn bản phạm hạnh, đưa đến trí, đưa đến giác, dẫn đến Niết-bàn, cho
nên Ta xác quyết nói những điều này.
Qua hai bản kinh trên chúng ta thấy quan điểm về thế giới quan điều giống nhau.
3.2.2.Quan điểm về nghiệp báo:
Trung Bộ Kinh - Bài Kinh số 56-Kinh Upàli
Tại rừng Pavarikamba, Nalandà, ngoại đạo sư Nigantha Dìghatapassi đến yết kiến Thế Tơn
và trao đổi quan điểm về thuyết nghiệp (Kamma). Dìghatapassi xác định chủ trương về
Nghiệp của Nigantha Nàtaputta rằng: "Có ba loại để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác
nghiệp, tức là thân phạt, khẩu phạt và ý phạt (khác nhau). Thân phạt là tối trọng dẫn đến
ác nghiệp".
Thế tơn thì chủ trương trong ba nghiệp, thân, khẩu, ý thì ý nghiệp là tối trọng để tác thành ác
ý, để diễn tiến ác nghiệp.
Kinh Trung A Hàm- ƯU-BA-LY
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp rằng:
“Thưa Cù-đàm, Tôn sư của tôi, Ni kiền Thân Tử giảng dạy cho chúng tôi về ba sự trừng phạt
để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Những gì là ba? Đó là sự trừng phạt bằng
thân, sự trừng phạt bằng miệng và sự trừng phạt bằng ý
Thế Tơn lại hỏi:
“Này Khổ Hạnh, ơng nói thân phạt nặng nhất chăng?”
6
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Thưa Cù-đàm, thân phạt nặng nhất.”
Đức Thế Tôn hỏi lại đến lần thứ ba:
“Này Khổ Hạnh, ơng nói thân phạt nặng nhất chăng?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh cũng ba lần đáp lại:
“Thưa Cù-đàm, thân phạt nặng nhất.” Thế Tôn đáp:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết ý nghiệp là nặng nhất.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh lại hỏi đến ba lần:
“Cù-Đàm chủ trương thi thiết ý nghiệp là nặng nhất chăng?”
Thế Tôn cũng trả lời đến ba lần:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết ý nghiệp là nặng nhất vậy.”
Hai Bản kinh trên để lại một số điểm suy nghĩ:
- Dưới thời đức Phật, các hoạt động của Lục sư ngoại đạo phát triển trên cùng nhiều vùng đất
với Phật giáo, hẳn là có nhiều cuộc tranh luận, trao đổi và nhiều va chạm. Hình ảnh phẫn nộ
của Nàtaputta đã gián tiếp nói lên nhiều va chạm, bất ổn khác. Việc truyền bá Chánh pháp là
một Phật sự rất khó khăn. Thuyết nhân quả nghiệp báo vốn đã có mặt trong văn hố Ấn trước
thời đức Phật. Cả phái Ni-kiền-tử cũng chủ trương về Nghiệp nhưng xây dựng trên cơ sở
nhận thức sai lạc.
căn cứ hai kinh "Kinh Tiểu nghiệp phân biệt" (Cula kamma vibhanga suttam) số 135 và
"Kinh Đại nghiệp phân biệt" (Maha kamma vibhanga suttam) số 136 trong "Trung Bộ kinh"
(Majjhima Nikàya). Hai bài kinh này tương đồng với trong Hán tạng là "Kinh Oanh vũ"số
170 và " Kinh Phân biệt đại nghiệp"số 171 trong "Kinh Trung A hàm". Nội dung như nhau.
-Kinh Tiểu nghiệp phân biệt-trung bộ kinh
Lý do đức Phật nói "kinh Tiểu nghiệp phân biệt" là thanh niên Subha todeyyaputta hỏi Phật:
"Do nhân dun gì cùng là lồi người với nhau, nhưng có sự sai khác nhau về cuộc sống. Cóù
người được người khác u mến, có người khơng được người khác mến thương; người được
sống lâu, người lại chết yểụ; người khoẻ mạnh, người bị nhiều bệnh hoạn; người đẹp kẻ xấu;
người có chức quyền, người khơng chức quyền; người giàu kẻ nghèo; người thông minh, kẻ
ngu muội...?"
Ðức Phật trả lời: "Các lồi hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp; nghiệp là
thai tạng. Nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Nghiệp phân chia các loài hữu tình có
liệt có ưu". Ðại ý câu trả lời này, đức Phật giải thích sự khác biệt nhau về cuộc sống của con
người chính là sự khác biệt về nghiệp. Nghiệp chính là chủ nhân phân chia sự sống của con
người có sự sai khác. Như vậy, nghiệp là gì? Nghiệp tiếng Phạn là Karma, có nghĩa là hành
động, hành vi, hay sự tạo tác. Ở đây, hành vi tạo tác có hai trường hợp, tạo tác có ý thức và
tạo tác vô ý thức. Theo Phật giáo, tạo tác khơng có ý thức khơng thể gọi là nghiệp, chỉ có
hành viï tạo tác có ý thức mới thành nghiệp. Như vậy, cái gọi là nghiệp là hành động có ý
thức, vì ý thức giữ vai trị chỉ đạo. hành động nào mang một ý thức tốt đẹp thiện, thì hành
động ấy sẽ mang lại một kết quả tốt đẹp.Ví như chúng ta muốn trở thành một vị bác sĩ tài
giỏi, điều kiện tất yếu là chúng ta phải nỗ lực học tập, thâu thập kinh nghiệm trong ngành y
khoa, nếu làm đúng như vậy thì chúng ta sẽ trở thành một vị bác sĩ tài giỏi. Ðó là kết quả của
một hành động có ý thức. Thế nhưng, ngược lại có người cũng muốn như vậy, nhưng khơng
nỗ lực học tập, rút kinh nghiệm, thì người đó sẽ trở thành một vị bác sĩ khơng giỏi. Ðó là kết
quả của một hành động thiếu ý thức. Sự khác biệt nhau về con người không phải là số phận,
là định mệnh, chính là do hành nghiệp của chúng ta. Ðây là ý nghĩa chân chính mà đức Phật
muốn trả lời cho vị thanh niên Subha Todeyyaputta.Thế nhưng vị thanh niên này với trình độ
Phật học q non kém, khơng hiểu ý nghĩa sâu xa về mối quan hệ giữa nhân và quả dưới góc
độ tâm lý, do đó Ngài khơng thể trình bày giáo lý sâu xa mà Ngài đã chứng được, chỉ y cứ
vào sự hiểu biết của vị thanh niên này, trình bày những gì mang lại lợi ích thực tế cho họ,
7
mặc dù đó khơng phải là ý nghĩa sâu xa của nghiệp, cho nên Ngài căn cứ những hiện tượng
thơng thường của cuộc sống, giải thích mối quan hệ nhân quả mang tính vật lý, nhằm giúp
cho những người này từ bỏ và tránh xa những hành vi phi đạo đức, giúp cho họ có cuộc sống
an vui, làm nền tảng cho sự công bằng và trật tự xã hội mà các nhà triết học trước đã phá hủy,
hay xây dựng một hệ thống đạo đức chỉ nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp Bà la môn, là giai
cấp thống trị tối cao của xã hội Ấn. Ðó là lý do tại sao đức Phật nói bài kinh này.
1- Sự khác biệt giữa người sống lâu và người chết yểu
Sau khi đức Phật trình quan điểm về nghiệp của Ngài, nhưng vị thanh niên Subha
Todeyyaputta không hiểu ý nghĩa sâu xa về nghiệp của đức Phật, cho nên Ngài căn cứ vào
trình độ, khả năng hiểu biết của vị thanh niên này, giải thích lý do tại sao giữa con người với
nhau tại sao có người sống lâu có người chết yểu.
Người có cuộc sống ngắn ngủi và nhiều bịnh tật: Vì người ấy sống với tâm độc ác, khơng có
lịng từ bi, tàn nhẫn sát hại mạng sống của chúng sinh... Ðây là nguyên nhân khiến cho mạng
sống của người ấy ngắn ngủi, nhiều tật bệnh, sau khi mạng chung, người ấy phải sanh vào cõi
dữ, ác thú hay địa ngục. Ngược lại, người sống được trường thọ và ít bệnh tật: Vì người ấy
sống với tâm từ bi, thương yêu mọi loài chúng sinh, không sanh tâm sát hại, cho nên người ấy
hiện đời có cuộc sống lâu dài, ít bệnh. Sau khi người ấy mạng chung, sinh vào cõi Người hay
cõi Trời.
2- Sự khác biệt giữa người đẹp kẻ xấu
Cũng trong bài kinh này đức Phật trình bày lý do tại sao cùng là con người trong xã hội,
nhưng có sự khác nhau về người đẹp và kẻ xấu như sau: Nếu chúng sanh sống trong sự phẫn
nộ, sân hận, bất mãn... Ðó là nguyên nhân đưa đến có một thân thể không xinh đẹp không dễ
thương. Ngược lại, nếu người nào sống trong sự bình tỉnh, khơng phẫn nộ, khơng sân hận, đó
là nguyên nhân khiến cho người ấy có thân hình đẹp đẽ dễ thương.
3- Sự khác biệt giữa người có địa vị và khơng địa vị
Người khơng có quyền thế trong xã hội, vì người ấy sống với lịng tật đố, tị hiềm, nghi kỵ
không tôn trọng người khác, đó là lý do khiến cho người ấy sống trong xã hội khơng có
quyền thế. Ngược lại, người nào sống với lịng khoan dung, cảm thơng, tơn trọng kẻ khác, do
vậy người ấy sống có quyền thế trong xã hội.
4- Sự khác biệt giữa người giàu và kẻ nghèo
Người có cuộc sống nghèo khổ trong xã hội, vì người ấy sống với tâm keo kiết bỏn xẻn,
khơng biết bố thí cúng dường cho những Sa mơn,Bà la mơn, vì nhân duyên ấy, người đó có
đời sống nghèo khổ, bần cùng. Ngược lại, người nào sống với tâm rộng rãi, biết bố thí cúng
dường Sa mơn,Bà la mơn, đó là lý do khiến cho người ấy có cuộc sống giàu có...
Bốn trường hợp vừa nêu trên là bốn trường hợp điển hình, được đức Phật trình bày trong
"kinh Tiểu nghiệp phân biệt". Ðối tượng mà Ngài nói kinh này là thanh niên niên Subha
Todeyyaputta, là người bình thường trong xã hội, không phải là giới tri thức, cũng không am
tường Phật học, là những hệ thống giáo lý chuyên phân tích về mặt tâm lý của con người. Do
đó, Ngài đã lấy những hiện tượng thông thường trong đời sống hằng ngày, phân tích về mối
quan hệ nhân quả, nhằm mục đích ngăn chận những hành vi phi đạo đức, mặc dù sự lý giải
này, xét về mặt luận lý học (logic) không mấy thuyết phục, nhưng trên thực tế, đại đa số nhân
dân trong xã hội lúc bấy giờ là những người tay lấm chân bùn thiếu học, nhu cầu hiểu biết
khơng cao, do đó với lời giải thích này của Ngài sẽ có giá trị nhất định đối với giới bình dân
trong xã hội.
Một điều chứng minh cụ thể là lúc đầu đức Phật đã trả lời cho vị thanh niên này: "... các lồi
hữu tình là chủ nhân của nghiệp... nghiệp phân chia các lồi hữu tình có liệt có ưu" . Ðại ý
đoạn kinh này, đức Phật muốn chỉ dạy cho vị thanh niên này hiểu rằng, con người là chủ nhân
của tất cả hành nghiệp trong cuộc sống, cuộc sống mà chúng ta đang sống, đều do chính
chúng ta tạo ra, khơng có một thế lực của Thượng đế hay Phạm thiên có đủ quyền năng quyết
định cuộc sống chúng ta. Ngài chỉ cho chúng ta biết, con người vốn có khả năng hiểu biết,
8
sự hiểu biết đó là chủ nhân quyết định cuộc sống hạnh phúc hay khổ đau cho đời sống hiện
tại và ngày mai của chính mình, đó là ý nghĩa của câu "nghiệp phân chia các lồi hữu tình có
liệt có ưu".Ngài khơng muốn con người là kẻ nơ lệ, là món đồ chơi của thần thánh, con người
không thể thành khối vô tri giác, để phải nhờ cậy vào các đấng thiên liêng quyết định cuộc
sống của con người. Ai có thể hiểu hơn con người bằng con người hiểu về con người?
Ngài muốn thanh niên niên Subha todeyyaputta và tất cả người dân Ấn hãy dũng cảm vùng
dậy, để thoát khỏi chế độ đẳng cấp của giai cấp thống trị Bà la môn, đồng thời phá vỡ thốt ly
hệ thống tín ngưỡng phi nhân bản của xã hội đương thời. Thế nhưng, điều mà Ngài hiểu
không phải là ai cũng có thể hiểu được dễ dàng, những gì mà Ngài muốn nói cũng khơng nói
với ai được. Có lẽ đó là một trong những nguyên nhân, sau khi Ngài giác ngộ lại có suy nghĩ
vào Niết bàn, khơng muốn nói pháp, vì tất cả những gì Ngài chứng ngộ được, nó đều ngược
lại tư tưởng truyền thống, niềm tin nhân dân Ấn. Ðó là lý do chính đáng, đức Phật đã vay
mượn những hình thức nào mà vị thanh niên này và mọi người trong xã hội đó có thể hiểu
được phần nào về mục tiêu mà Ngài giảng dạy, nói cho cùng mục đích giáo dục của Ngài
cũng khơng ngồi mục đích khuyến khích con người làm việc lành, tránh xa điều ác. Ðó là lý
do đức Phật đã nói ý nghĩa của kinh này.
-Kinh Đại nghiệp phân biệt
Ðối tượng mà đức Phật nói "kinh Đại nghiệp phân biệt" (Maha kamma vibhanga sutta) này là
tôn giả Ananda và các vị Tỳ kheo. Nội dung bài kinh này, đức Phật phân tích mối quan hệ
nhân quả rất rất sâu sắc, đặc biệt Ngài rất chú trọng đến vai trò của chánh kiến và thời điểm
hiện tại, đó là điểm căn cứ để đánh giá kết quả của một hành động, nó thuộc về thiện hay ác.
Sự mơ ước của con người muốn có cuộc sống giàu sang, có địa vị xã hội, thân hình tốt đẹp,
Bốn hạng người ở đời
(1). Có hạng người sống với sự sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo,
tham dục, có lịng sân hận, có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
(2). Có hạng người sống với sự sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo,
tham dục, có lịng sân hận, có tà kiến. Nhưng người này sau khi thân hoại mạng chung, người
ấy sanh vào thiện thú thiên giới, cõi đời này.
(3). Có hạng người sống với sự từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong
các dục, khơng nói láo, khơng tham dục, khơng có lịng sân hận, có chánh kiến. Sau khi thân
hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú thiên giới, cõi đời này.
(4). Có hạng người sống với sự từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của khơng cho, từ bỏ tà hạnh trong
các dục, khơng nói láo, khơng tham dục, khơng có lịng sân hận, cóù chánh kiến. Sau khi thân
hoại mạng chung, người ấy sanh vào vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Trường hợp thứ nhất: Ðức Phật khuyên chúng ta, khi chúng ta thấy có trường hợp thứ nhất
này xảy ra trong cuộc sống, nhưng chúng ta đừng vì thế, vội vã đi đến kết luận: "Ðây là sự
thật, tất cả những ai làm ác, có tà kiến, người ấy chắc chắn sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Những ai biết như vậy là biết chân chánh, ngoài ra đều hư vọng, sai lầm". Vì sao?
Vì trên thật tế, có người làm ác, có tà kiến, nhưng người ấy sanh vào cõi lành.
Trường hợp thứ hai: Ðức Phật khuyên chúng ta, tuy chúng ta thấy có trường hợp thứ hai là có
người làm ác, có tà kiến, nhưng người ấy sau khi mạng chung sinh vào cõi lành, chúng ta
khơng vì thế, vội vã đi đến kết luận: "Ðây là sự thật, tất cả những ai làm ác, có tà kiến, người
ấy chắc chắn sinh vào cõi lành. Những ai biết như vậy là biết chân chánh, ngoài ra đều hư
vọng, sai lầm". Vì sao? Vì thật tế trong cuộc sống, chúng ta vẫn thấy có người làm ác, có tà
kiến, nhưng người ấy sanh vào cõi dữ. Trường hợp thứ ba: Ðức Phật khuyên, tuy chúng ta
thấy có người làm thiện, có chánh kiến, sau khi người ấy mạng chung, sinh vào cõi lành,
nhưng chúng ta đừng vì thế, vội vã đi đến kết luận: "Ðây là sự thật, tất cả những ai làm việc
thiện, có chánh kiến, người ấy chắc chắn sinh vào lành. Những ai biết như vậy là biết chân
chánh, ngoài ra đều hư vọng, sai lầm".
9
Trường họp thứ tư: Ðức Phật khuyên, tuy chúng ta thấy có người làm thiện, có chánh kiến,
sau khi người ấy mạng chung, sinh vào cõi dữ, nhưng chúng ta đừng vì thế, vội vã đi đến kết
luận: " Ðây là sự thật, tất cả những ai làm việc thiện, có chánh kiến, tất cả những người ấy
chắc chắn sinh vào dữ. Những ai biết như vậy là biết chân chánh, ngoài ra đều hư vọng, sai
lầm". Vì sao? Vì trên thật tế trong cuộc sống, vẫn có người làm thiện, có chánh kiến, người
ấy sanh vào cõi lành.
Như vậy, chúng ta không nên căn cứ vào sự hiểu biết hẹp hịi của mình để đánh đồng mọi vấn
đề, điều đó có tác hại khơng ít cho cá nhân và xã hội. Ví như hạt thóc hạt sạn trong cơm là cái
mà khơng ai ưa thích, nhưng chúng ta vì ghét hạt thóc hạt sạn mà chúng ta lại từ chối khơng
ăn cơm. Người trí khi thấy hạt thóc hạt sạn trong cơm, người ấy lấy chúng quăng đi và ăm
cơm, nhưng kẻ ngu lại từ chối ăn cơm. Cũng vậy, chúng ta thấy có người làm ác, có tà kiến,
nhưng cuộc sống của họ vẫn được sung sướng, hay sau khi người ấy chết được sinh vào cõi
lành. Khơng vì vậy mà chúng ta chủ trương, khơng có nhân dun,khơng có quả báo thiện ác,
làm ác hay làm thiện đều có kết quả giống nhau.
1. Lý do người làm ác sanh vào cõi dữ
Ðối với trường hợp thứ nhất, đức Phật giải thích: Vì trong lúc sống người đã làm các việc ác,
có tà kiến, trong lúc lâm chung vẫn giữ tâm tà kiến, tức không tin những lời dạy của Phật, là
những chân lý của cuộc đời này. Do đó, người ấy phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa
ngục.
2. Lý do người làm ác sanh vào cõi lành
Ðối với trường hợp thứ hai, đức Phật giải thích: Trong lúc sống, tuy người ấy làm những việc
ác, có tà kiến, nhưng trong khi mạng chung người ấy sinh tâm hối hận về những việc làm ác
trong quá khứ, lại có chánh kiến, tin tưởng những lời dạy của Phật. Do vậy, người ấy không
sinh vào cõi dữ, ngược lại sinh vào cõi lành.
3. Lý do người làm lành sanh vào cõi lành
Ðối với trường hợp thứ ba, đức Phật giải thích: Do vì trong cuộc sống của người ấy làm các
việc lành, có chánh kiến. Trong lúc mạng chung, tâm người ấy vẫn có chánh kiến. Do vậy,
người ấy sau khi mạng chung sinh vào cõi lành.
4. Lý do người làm lành sanh vào cõi dữ
Ðối với trường hợp thứ tư, đức Phật giải thích: Tuy người ấy trong khi sống làm những việc
lành, có chánh kiến, nhưng trong lúc lâm chung, vì lý do nào đó, người ấy khơng tin tưởng
nhân quả, có tà kiến. Do vậy, người ấy phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Qua cách giải thích của đức Phật, chúng ta thấy sự sai biệt nhau về cuộc sống con người
trong hiện tại hay một đời sống khác chính là nghiệp. Nghiệp phân chia các lồi hữu tình có
liệt có ưu. Nghiệp được đức Phật phân chia làm ba loại là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý
nghiệp. Thân nghiệp là những hành động tạo tác của thân; khẩu nghiệp là những cái được tạo
ra bỡi lời nói; ý nghiệp là những cái được hình thành bỡi ý thức. Thật ra, sự biểu hiện bên
ngoài của thân nghiệp và khẩu nghiệp là kết quả của ý nghiệp, nói một cách khác ý nghiệp là
năng tạo, thân nghiệp và khẩu nghiệp là sở tạo, là cái được tạo ra bỡi ý nghiệp.
Từ ý nghĩa về nghiệp như vậy, chúng ta có thể lý giải lý do tại sao đức Phật giải thích về bốn
trường hợp sai biệt trên, đều căn cứ vào tâm của người ấy có "chánh kiến" hay "tà kiến". Nếu
trong lúc lâm chung, người ấy có chánh kiến, thì cho dù trong q khứ người ấy có làm ác, có
tà kiến đi nữa, thì vẫn được sanh vào cõi lành. Ngược lại, nếu trong lúc lâm chung có tà kiến,
cho dù người ấy trong quá khứ có làm thiện, có chánh kiến vẫn phải đọa lạc vào cõi ác thú.
Có người hỏi: Nếu giải thích như thế thì luật nhân quả trong Phật giáo không công bằng, lý
do là trước đây người ấy đã làm việc ác, như giết hại nhiều sinh mạng của chúng sinh, nói
láo... theo sự cơng bằng của luật nhân quả, thì lẽ ra người ấy phải hồn trả tất cả những
nghiệp ác mà người ấy đã tạo ra, trước khi sinh vào cõi lành hay thành Phật, nhưng tại sao cả
chuỗi thời gian dài trong quá khứ tạo các nghiệp ác, nhưng chỉ trong giây phúc lâm chung có
chánh kiến được sinh vào cõi lành, phải chăng là sự thiếu công bằng?
10
Ðể giải đáp vấn nạn này, chúng ta cần lưu ý đến hai khía cạnh khác nhau về luật nhân quả:
Nhân quả theo nghĩa vật lý và nhân quả theo nghĩa tâm lý. Nhân quả theo nghĩa vật lý là luật
nhân quả vận hành mang ý nghĩa vật chất, không phải là tinh thần, như hạt đậu rơi vào lòng
đất, sau một thời gian hạt đậu nẩy mầm và trưởng thành cây đậu. Ở đây hạt đậu là nhân, cây
đậu là kết quả trưởng thành của hạt đậu, nhưng hạt đậu và cây đậu không ý thức về sự trưởng
thành của mình, tức khơng có ý thức về vui hay buồn. Do vậy, chúng ta gọi mối quan hệ nhân
quả này là sự mối quan hệ nhân quả mang tính vật lý. Mối quan hệ nhân quả theo nghĩa tâm
lý, là mối quan hệ nhân quả của tâm thức của con người, tức là sự phân tích về nguồn gốc,
nguyên nhân phát sinh mọi khổ đau và hạnh phúc của con người. Ví như, vì lịng tham lam
sân hận và si mê đã dắt dẫn con người làm những việc phi pháp, kết quả của việc làm này là
cái khổ của tù tội. Ở đây, lòng tham, sân và si là nhân, và khổ đau là kết quả của hành động
tham sân si này. Ngược lại, người nào với sự thắp sáng trí tuệ (chánh kiến), vẫn sống trong
cuộc đời này, nhưng khơng bị lịng tham sân si chi phơi, người ấy sống trong hạnh phúc và an
lạc. Trí tuệ là nhân, hạnh phúc an lạc là quả, đây là ý nghĩa của mối quan hệ nhân quả theo
nghĩa tâm lý. Nghiệp mà được đức Phật giải thích là trình bày mối quan hệ giữa nhân và quả
theo nghĩa tâm lý, nói một cách khác là đức Phật giải thích mối quan hệ nhân quả của khổ
đau hay hạnh phúc, nói như thế khơng có nghĩa là tâm lý tồn tại ngồi vật lý, vì ngồi thân
ngũ uẩn này khơng có cái gọi là khổ đau hay hạnh phúc.
Trên đây, người viết đã trình bày, mục đích ra đời và giáo dục của đức Phật là chỉ rõ sự khổ
và phương pháp diệt trừ nổi khổ của con người. Như vậy, giáo lý của đức Phật là giáo lý phân
tích lý giải nguồn gốc phát sinh những khổ đau của con người, cũng như chỉ rõ phương pháp
đoạn trừ những khổ đau ấy, để hướng tới đời sống an lạc và hạnh phúc. Ðó là nội dung lời
giảng dạy của đức Phật. Do vậy, giáo lý nhân quả nghiệp báo của đạo Phật được hình thành
cũng khơng ngồi ý nghĩa này.
Trở lại thảo luận phân tích câu hỏi vừa nêu, chúng ta thấy người đưa ra vấn nạn đứng trên lập
trường muốn tìm hiểu về mối quan hệ nhân quả mang tính vật lý, khơng phải tâm lý, đó
khơng phải là vấn đề cốt lõi mà đức Phật thảo luận. Mối quan hệ nhân quả vật lý là mối quan
hệ tự nhiên khơng cần có ý thức con người. Vấn đề mà đức Phật chỉ dạy là quá trình hoạt
động của tâm lý ngang qua thân thể này. Thân thể mà chúng ta đang sống gồm hai phần là vật
chất (sắc) và tinh thần (thọ, tưởng, hành, thức). Hiện tượng sinh lão bịnh tử của thân là những
hiện tượng tự nhiên, người giác ngộ hay không giác ngộ cũng không thể trốn chạy quy luật
này. Sự khác biệt nhau giữa người giác ngộ và kẻ phàm phu là sự khác biệt về đời sống tinh
thần, tức là sự hiểu biết hay không hiểu biết, hiểu biết là giác ngộ, không hiểu biết là phàm
phu. Do vậy, vấn đề cốt lõi của cuộc sống là sống hạnh phúc. Theo đạo Phật quan niệm, cuộc
sống an lạc và hạnh phúc không tùy thuộc vào không gian hay thời gian, không tùy thuộc
giàu sang hay nghèo hèn, cũng không tùy thuộc địa vị xã hội... khơng thể nói chỉ có ở đây
mới có hạnh phúc ở chỗ kia khơng có hạnh phúc, khơng thể nói chỉ có thời gian này mới có
hạnh phúc thời gian khác khơng có hạnh phúc, khơng thể nói chỉ có người giàu mới có hạnh
phúc người nghèo khơng có hạnh phúc, cũng khơng thể nói chỉ có người có địa vị mới có
hạnh phúc, người khơng có địa vị khơng có hạnh phúc... Sự hạnh phúc hay khổ đau tùy thuộc
vào vai người ấy thắp sáng trí tuệ hay vơ minh. Ðó là ý nghĩa của câu: "Tâm tịnh Phật độ
tịnh". Nhưng ở đây, chúng ta có thể mượn một ví dụ để lý giải sự hồi nghi của người vấn
nạn. Như có người từ trước đến nay không biết lái xe, mỗi khi người ấy lái xe xảy ra tai nạn,
tạo thành phiền não, nhưng hôm nay người ấy đã học cách lái xe, sử dụng một cách thành
thạo. Thế thì chúng ta thử hỏi, từ khi người ấy biết lái xe có cịn cái khổ về cách sử dụng xe
nữa khơng? Người ấy có đáng được hưởng niềm hạnh phúc về sự lái xe của mình khơng? Và
nếu như vậy, luật nhân quả có cơng bằng không? Câu trả lời tất nhiên là luật nhân quả rất
công bằng.
11
KẾT LUẬN
Quan điểm Phật giáo trong văn học Pàli khơng chấp nhận có một thượng đế nào có thể sản
sinh ra con người. Con người do “Duyên khởi”, do “ngũ thủ uẩn” mà hình thành và chính
“nghiệp” do con người tạo ra là yếu tố quyết định và chi phối con người. Những giáo lý ấy
chính là tiếng nói khẳng định giá trị nhân bản của con người, phủ nhận sự tồn tại và chi phối
của các thế lực siêu nhiên, của đấng tối cao, của Phạm Thiên. Chính vì thế, Phật giáo ngun
thủy có những yếu tố duy vật và vô thần.
Dựa trên cơ sở của thuyết Duyên khởi, Phật giáo đi đến giải thích về “nghiệp” và “nghiệp
báo”. Nó có giá trị giáo dục một đời sống trong sáng, thánh thiện và tốt đẹp cho con người,
đồng thời ngăn chặn bớt cái ác trong mỗi người và nhân loại ở góc độ nào đó.
Cũng trên nguyên lý Duyên khởi, Phật giáo đã thuyết minh về con người thực tại là do ngũ
uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn mà được hình thành. Ngũ uẩn cũng
nương vào nhau mà có mặt. Từ quan điểm duy vật biện chứng, có thể nhận thấy ở đây ngồi
những yếu tố duy vật, vơ thần cịn có các yếu tố biện chứng tự phát về mối liên hệ hữu cơ
giữa các yếu tố danh sắc tạo ra con người và tương lai của họ.
Năm thủ uẩn cũng chính là “khổ đế” trong “tứ diệu đế”, đây là một trong những quan
điểmmấu chốt của Phật giáo về vấn đề nhân sinh. Sự tập khởi của năm thủ uẩn chính là sự
tập khởi của khổ, và sự đoạn diệt năm thủ uẩn chính là sự diệt khổ. Đức Phật từng nói, thấy
rõ ngũ uẩn là vơ ngã thì khơng cịn chấp thủ uẩn là mình, của mình hay tự ngã của mình.
Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Ðấy là ngõ vào giải thoát.Với bốn thánh đế được bàn đến:
khổ, nguyên nhân của khổ, hạnh phúc và con đường đưa đến hạnh phúc, theo Phật giáo, nó
vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh. Một giáo lý đầy tính nhân bản đem lại niềm tin, sức
sống cho con người, xã hội đương thời và vẫn thiết thực lợi ích cho con người và xã hội hiện
đại. Việc ứng dụng Bát thánh đạo hy vọng sẽ góp phần nào đó giải tỏa những căng thẳng, bế
tắc, giảm bớt lịng ham muốn quá mức về vật chất, giúp cho cuộc sống con người chất lượng
hơn và trở về với những giá trị thực của chính chúng ta.
Với tinh thần Lục hồ là bí quyết của hành vi ứng xử cao thượng của một cá nhân, là một
nếp sống đẹp để xây dựng đời sống cộng đồng. Thiết nghĩ, nguyên lý sống này khơng riêng
gì nếp sống đạo mà nó thích ứng trong mọi gia đình, học đường và bất cứ hoạt động tổ chức
xã hội nào.
Tóm lại, với những tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo trong kinh Trung Bộ đã chứa đựng
sự lý đầy thuyết phục và hướng con người đến nếp sống hiền thiện, lánh xa cái ác, chứa
đựng nhiều phương pháp tốt đẹp nhất có thể giáo dục và cải thiện con người. Hướng con
người sống cảm thơng, hỷ xả với nhau một cách hịa mục, sống vì người khác, bao dung độ
lượng. Đó chính là phương pháp giúp con người đạt được hạnh phúc, là động lực nảy sinh
mọi điều tốt lành. Nó khơng chỉ ứng dụng trong tu tập để giải thốt, thành Phật, nó cịn
mang những giá trị nhân sinh vơ cùng sâu sắc.
12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Thích Chơn Thiện,tìm hiểu kinh trung bộ,Hà Nội,NXB Tôn giáo ,2004.
2.Thích Minh Châu ,tóm tắt kinh trung bộ,TP.HCM,NXB văn hóa Sài Gịn,2010.
HT. Thích Minh Châu, "Kinh Trung Bộ", Trường CCPHVN ấn hành 1986.
3. HT. Thích Minh Châu, "Kinh Trung Bộ", Trường CCPHVN ấn hành 1986.
4.Kinh trung a hàm trong đại tạng kinh
Kinh Trung A Hàm, Kinh Phạm Chí A Nhiếp Hịa, HT. Thích Minh Châu dịch. VNCPHVN
ấn hành, 1992, tr 447.
5.Kinh Trung A Hàm, Kinh Phạm Chí A Nhiếp Hịa, HT. Thích Minh Châu dịch. VNCPHVN
ấn hành 151, tr 443.
6.Kinh Trung A Hàm III, kinh Bà La Bà Đường 154, tr 516.
7.Kinh Trung A Hàm, kinh Uất Sấu Ca La, HT. Thích Minh Châu dịch. VNCPHVN ấn hành,
1992.
13