Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn văn học pàli đề tài bát CHÁNH đạo TRONG văn học PĀLI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.57 KB, 18 trang )

DDttt

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MÍNH

-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ: BÙI NGỌC BÍCH
PD: NGỌC LINH

ĐỀ TÀI:
BÁT CHÁNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC PĀLI
Tiểu luận học kỳ 4: Môn Văn Học Pàli

Người hướng dẫn khoa học: TS.NS.TN.Hiếu Liên

TP.Hồ Chí Minh - 2021


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ: BÙI NGỌC BÍCH
PHÁP DANH: NGỌC LINH
LỚP ĐTTX: KHĨA VI
MSSV: TX 6022

ĐỀ TÀI:
BÁT CHÁNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC PĀLI


Tiểu luận học kỳ 4: Môn Văn Học Pàli

Người hướng dẫn khoa học: TS.NS.TN.Hiếu Liên

TP.Hồ Chí Minh - 2021


- LỜI CAM ĐOAN :
• Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
• Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực
(Tác giả luận văn ký tên)

- LỜI CẢM ƠN :
Tôi xin trân thành tri ân những cá nhân, tập thể và những ai liên quan đã hướng dẫn
giúp đỡ, cộng tác trong quá trình thực hiện đề tài.
(Tác giả luận văn ký tên).
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


TP.HCM, ngày …… tháng …… năm 2021
Trưởng tiểu ban xét duyệt


A
1
2
3
4
5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………….................1
Xác định ý nghĩa đề tài…………………………………………………...................1
Lý do chọn đề tài………………………………………………………….................1
Phạm vi đề tài…………………………………………………………….................1
Cở sở dữ liệu đề tài……………………………………………………….................1
Phương pháp nghiên cứu đề tài…………………………………………...................1

B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I.GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ TỨ DIỆU ĐẾ VÀ BÁT CHÁNH ĐẠO
1 Giải thích về Tứ Diệu Đế Và Bát Chánh Đạo.......................................................2
1

Giới thiệu kinh tứ diệu đế?...............................................................................2

1.1.1. Khổ Đế.........................................................................................................2
1.1.1.2. Tập Đế.......................................................................................................2
1.1.1.3. Diệt đế:......................................................................................................2

1.1.1.4. Đạo đế.......................................................................................................2
CHƯƠNG 2.ỨNG DỤNG BÁT CHÁNH ĐẠO TRONG ĐỜI SỐNG
1.Giài thích về Bát chánh đạo...............................................................................................3
1.1.Chánh Kiến (Quan điểm và nhận thức)...........................................................................3
1.2.Chánh tư duy( Suy nghĩ và suy luận)..............................................................................4
1.3.Chánh ngữ( Lời nói và thông tin)....................................................................................4
1.4.Chánh nghiệp( Công việc và nghề nghiệp).....................................................................4
1.5.Chánh mạng( Thân thể và làm nghề chân chính)............................................................5
1.6.Chánh tinh tấn( Nổ lực và cố gắng).................................................................................5
1.7.Chánh niệm( Tỉnh táo và nhạy bén)................................................................................5
1.8.Chánh định( Bình tĩnh và tự chủ)....................................................................................6
2.TU TẬP BÁT CHÁNH ĐẠO
2.1. Chánh kiến.....................................................................................................................6
2.2. Chánh tư duy...................................................................................................................6
2.3. Chánh
ngữ.......................................................................................................................7
2.4. Chánh nghiệp..................................................................................................................7
2.5. Chánh mạng....................................................................................................................8
2.6. Chánh tinh tấn................................................................................................................9
2.7. Chánh niệm....................................................................................................................9
2.8. Chánh
định....................................................................................................................10
C. KẾT LUẬN....................................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ ........13


A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Bát chánh đạo là chân lý thứ 4 trong “Tứ diệu đế-bốn chân lý của một bậc thánh đã chứng
ngộ”, là bài pháp đầu tiên Đức phật chuyển bánh xe pháp cho năm anh em Kiều Trần Như và

cũng là bài pháp cuối cùng mà Thế Tôn thuyết giảng cho người đệ tử cuối cùng của ngài là
Subhadda.
2.Tình hình nghiên cứu:
Nghiên cứu về Phật giáo nói chung và “Bát chánh đạo và ứng dụng bát chánh đạo trong đời
sống” , nói riêng trong những năm trở lại đây đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà
khoa học.
2.1 Những cơng trình nghiên cứu về “Bát chánh đạo –ứng dụng bát chánh đạo trong
đời sống” .
Tác phẩm “Đức phật và phật pháp” do Phạm Kim Khánh Việt dịch,chúng ta có góc nhìnở khía
cạnh khác “ Bát chánh đạo -Samkappa đồng với Vitakka là một sở hữu ( tâm sở) rất quan trọng
giúp ta gạt bỏ những ý tưởng và những khái niệm sai lầm,đồng tời tạo ra những sở hữu tâm sở
3.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích: Đề bài trình bày một cách hệ thống quan niệm về Bát chánh
Nhiệm vụ:
-Phân tích nội dung Bát chánh đạo và đánh giá giá trị của những quan điểm này.
- Phương pháp ứng dụng trong đời sống.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài dựa trên quan điểm của Phật giáo về “ Bát chánh đạo trong văn học Pàli”
5.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu những những chi phần trong Bát chánh đạo qua lời dạy và giáo lý trong
phật giáo,trong đó tập trung phân tích quan niệm về Bát chánh đạo .


1

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ BÁT CHÁNH ĐẠO
1.Giải thích nội dung Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo:
1.1. Giới thiệu kinh:
Nguồn gốc của khổ,nguyên nhân gây ra khổ (tức ái dục) phải được tận diệt.Sự diệt khổ (tức Niết

Bàn) phải được chứng ngộ.Con đường dẫn đến sự diệt khổ (tức Bát Chánh Đạo) phải được phát
triển.Dầu chư Phật có giáng sinh hay khơng,bốn Chân Lý ấy vẫn có trên thế gian.Chư Phật
chỉ khám phá ra và vạch rõ cho nhân loại thấy bốn chân lý mầu nhiệm này mà thôi.
1.1.1. Khổ đế:
Sự thật đầu tiên về tình trạng đời sống của chúng sinh trong thế gian là đau khổ, một thực trạng
mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.
Về phương diện sinh lý: khổ là một cảm giác khó chịu,đau đớn của thể xác như khi bị một gai
nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt cát vào trong mắt... Con người sinh ra đã vất vả khốn
đốn,lớn lên già yếu,bệnh tật khốn khổ vô cùng và cuối cùng là cái chết,là sự tan rã của thể xác.
Về phương diện tâm lý: khổ là do không toại ý,khơng vừa lịng v.v... Những mất mát,thua
thiệt trong cuộc đời làm mình khổ.Người mình thương muốn gần mà khơng được,người mình
ghét mà cứ phải gặp gỡ hồi.Muốn tiền tài, danh vọng,địa vị nhưng nó cứ vụt qua ngồi tầm tay
mình v.v…
Về sự chấp thủ năm uẩn: Cái khổ thứ ba này bao hàm hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy:
“Chấp thủ năm uẩn là khổ”.Năm uẩn hay “ngũ uẩn” là năm yếu tố nương tựa vào nhau để tạo
thành con người,gồm có: thân thể vật lý là sắc và cấu trúc tâm lý là thọ, tưởng, hành và thức.
1.1.1.2. Tập đế:
Cuộc đời là khổ đau hay không đều tùy thuộc vào thái độ tâm lý,cảm thọ và nhận thức của mỗi
người;nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người.Phật Giáo cũng
nhìn thấy các nguyên nhân của đau khổ;có cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội,
nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm thức.
Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái mà chấp
thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái.Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau,bởi vì
lịng khao khát ấy khơng bao giờ thỏa mãn.Đức Phật dạy “Tham ái sinh sầu ưu,tham ái sinh sợ
hãi.Ai giải thốt tham ái thời khơng cịn sầu ưu sợ hãi nữa”:
Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động,chi phối,ngự trị trong tâm
thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
1.1.1.3. Diệt đế:
“Diệt” là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa
đến đau khổ. Khi phá trừ hết những phiền não rồi thì con người được tự do hồn tồn, n

vui, sáng suốt và khơng cịn những nhân để tạo ra luân hồi nữa. Con người đã giải thoát khỏi sinh
tử và đạt tới Niết Bàn.
Phật dạy: “Có người có thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm,
nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần,dù chỉ trong một phút”.


1.1.1.4. Đạo đế:
“Đạo” là con đường,là phương pháp thực hiện dẫn đến chấm dứt khổ đau.Đức Phật dạy
cho chúng sinh một con đường chắc chắn để đi đến Niết Bàn.Như vậy,toàn bộ giáo lý mà Đức
Phật đã dạy đều là Đạo đế.Con đường ấy gọi là Bát Chánh Đạo (Tám thánh đạo) được coi là tiêu
biểu và căn bản nhất của Đạo đế.
2. Định Nghĩa Bát Chánh Đạo là gì?
2
Bát chánh đạo là pháp môn cổ xưa của con đường Phật giáo nguyên gốc, và là giáo lý căn bản
của Đạo đế trong Tứ đế. Vì thế khi các hành giả và các thiền sinh tu tập để thành tựu chánh trí,
đạt đến trí tuệ và giác ngộ giải thốt thì cần phải trở về thực hành con đường Bát chánh. Nếu hành
giả thực hành và giảng dạy các pháp mơn mà ở ngồi sự vận dụng tám chi phần chánh đạo thì
quyết định hành giả khơng thể chứng đắc các quả vị của Sa-môn và không thể đi vào giải thốt
tồn vẹn. (Lời tóm kết được rút ra từ Tiểu Kinh Sư Tử Hống trong Trung bộ kinh). Bát chánh đạo
là một trong 37 Bồ-đề phần (bodhipākṣika-dharma), tức là một trong 37 Giác chi trong đạo
Phật.Thuật ngữ Phật học của Bát chánh đạo trong các bản kinh gốc Pali là Ariyo aṭṭhaṅgiko
maggo, trong tiếng Phạn là Ārya 'ṣṭāṅga mārgaḥ, tham khảo vào cách trình bày và giảng giải của
đức Phật Thích-ca Mâu-ni, các hành giả và thiền sinh có thể nhận thấy cụm từ aṭṭhaṅgiko maggo
tức là Bát chánh đạo hay Bát Thánh đạo, Bát chi Thánh đạo, Bát Thánh đạo phần,… gọi ngắn là
Bát chánh, Bát đạo, Bát chi, Bát pháp…Bát chánh đạo là con đường độc nhất đi vào giải thoát hết
thảy các lậu hoặc. Hành giả có thể đi vào giải thốt bằng ngõ Bảy giác chi, Bốn niệm xứ, Bốn
chánh cần, Năm căn, Năm lực... nhưng tất cả những cửa ngõ ấy đều được bao hàm trong Bát
chánh đạo.
Pháp hành của người xuất gia trong đời sống hằng ngày là pháp Bát chánh đạo. Cho nên các hành
giả Khất sĩ, các nam nữ cư sĩ thiền sinh thực hành và ứng dụng Bát chánh đạo, tức là đang ứng

dụng con đường tám nhánh để giải thốt khỏi Khổ (duḥkha), thành tựu chánh trí, chứng đạt Niếtbàn.
Có bao nhiêu chi chánh,nêu rõ từng đường chánh?
1. Chánh kiến là con đường thấy chánh.
2. Chánh tư duy,là con đường để suy ngẫm về chánh.
3. Chánh ngữ là con đường nói chánh.
4. Chánh nghiệp là con đường làm chánh.
5. Chánh mạng là con đường sống chánh.
6. Chánh tinh tấn là con đường siêng năng chánh.
7. Chánh niệm là con đường tưởng nhớ chánh.
8. Chánh định là con đường yên nghỉ chánh.
CHƯƠNG 2: ỨNG DỤNG BÁT CHÁNH ĐẠO TRONG ĐỜI SỐNG
1.GIẢI THÍCH VỀ BÁT CHÁNH ĐẠO
1.1.CHÁNH KIẾN ĐẠO :
Chính là sự thấy chơn tánh,trước khi thấy,dáng thấy và sau khi thấy,sự thấy( bằng mắt trí nhận
xét)nghe,hiểu,biết phải cho hợp lẽ chánh,chơn thật.
Hiểu biết chân chánh:
- Hiểu biết tất cả sự vật hiện hữu trên thế gian này đều do nhân duyên sanh,không trường tồn và
luôn biến diệt.
- Nhận thức rõ nhân quả- nghiệp báo để hành động.
- Nhận thức rõ giá trị hiện hữu của thân người và mọi vật xung quanh.
- Nhận thức rõ Khổ- Vô thường- Vô ngã của vạn pháp.
- Nhận thức rõ tất cả chúng sanh cùng một bản thể thanh tịnh.
- Nhận thức rõ Tứ đế- Thập nhị nhân duyên, không chấp thường,chấp đoạn


Hiểu biết không chân chánh:
- Chấp Thượng đế tạo vật, không tin lý nhân quả nghiệp báo.
- Phủ nhận mọi sự vật hiện hữu, không nhận thức chúng từ nhân dun sanh.
- Chấp vào thành kiến; quan niệm khơng bình đẳng giữa người và muôn vật.
- Cố chấp vào kiến thức vọng tưởng; không tin vào những quả vị giải thóat.


Chánh kiến cũng cho thiền sinh nhận biết về cách yêu thương,chia sẻ,và tránh làm những
việc xấu ác,làm việc thiện lành đem lại hạnh phúc cho mình,cho mọi người.
3
1.2. CHÁNH TƯ DUY ĐẠO :
Kinh điển Pàli định nghĩa chánh tư duy là tất cả mọi khởi tâm,tác ý của con người,không
vướng mắc vào tư duy tham đắm,tuy duy sát hại và tư duy si mê.Ngày nay phần lớn các bộ phim
được trình chiếu trên truyền hình,rạp,mạng truyền thơng mang tính bạo lực.Những bộ phim nào
khơng có yếu đó này giới trẻ thường thờ ơ,không quan tâm.Khi tiếp xúc với những bộ phin này
người xem bị ảnh hưởng,chi phối nhận thức làm cho họ sống với tà tư duy,đi theo nó yếu tố bất
thiện như chém giết,hại mình,hại người,hại cả hai.
Những trị chơi điện tử trên máy tính,điện thoại rất hấp dẫn,phần lớn các trẻ em bị cuốn hút vào
những pha bạo lực,bắn nhau,đánh nhau để nhân vật trong game của mình trở thành những xạ
thủ,những chiến binh khát máu.Tà tư duy này vơ tình gieo giắt những nhận thức xấu,chỉ cần một
bất đồng ,hay khơng hài lịng một cái già đó các em trở thành bản sao các hành động ấy.Đất nước
ta trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh ,nếu chúng ta không học đạo lý từ,bi,hỷ,xả của Đức phật thì
hận thù khơng thể tháo gỡ,khơng chuyển hóa được những hát giống xấu trong tâm thức.
Tư duy ly tham(tham ái).Con người chúng ta có sáu căn(mắt,tai,mũi,lưỡi,thân,ý),do sáu căn này
tiếp xúc với sáu trần (sắc,thanh,hương,vị,xúc,pháp),sinh ra cảm thọ(lạc,khổ,bất lạc,bất khổ).Ở
đây ta nói thọ lạc,vì những cảm giác vui thích,sung sướng,thỏa mãn…làm chúng ta bị vướng mắt
và làm nô lệ cho cảm thọ do (nhãn xúc sanh,nhĩ xúc sanh,tỷ xúc sanh,thân xúc sanh,thiệt xúc
sanh).Con người chúng ta có thể làm mọi việc xấu khơng tốt để thỏa mãn lịng tham (lịng tham
vơ đáy) lên chúng ta cứ chạy theo nó,và đau khổ nếu những tham ái đó khơng như ý.Đức phật
dậy chúng ta phải phòng hộ sáu căn, trong kinh “tứ niệm xứ”,chúng ta phải quán (thân
,thọ,tâm,pháp),để chế ngự tham ái và sầu bi ,để khơng cịn tham ái bất cứ cái gì trên thế gian này.
Nói tóm lại,bốn nội dung của tà tư duy cần được chúng ta chuyển hóa bao gồm tư duy giết
hại,tư duy sân hận,tư duy si mê và tư duy tham ái.Ai nỗ lực để chuyển hóa bốn tà tư duy được gọi
là chánh tư duy.
1.3.CHÁNH NGỮ
Chánh ngữ là lời nói phải chân thật, đúng với lẽ phải, bởi vì lời nói có một sức mạnh có thể gây

nên điều tốt cũng có thể gây nên sự hảm hại cho người nghe. Con người thường nói những điều
mình nghĩ nên Chánh ngữ phải theo sau Chánh tư duy; như vậy phải suy nghĩ cẩn thận trước khi
nói ra: "Lời nói chẳng mất tiền mua /Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau."
Theo Đức Phật, muốn thực hành Chánh ngữ thì hành giả phải thực hiện các điều sau:
-Khơng nói dối.
-Khơng nói đâm thọc.
-Khơng nói thêu dệt hai chiều để gây tình cảm thù hận người khác.
-Khơng nói điều độc ác.
-Khơng nên nói nhiều q.
1.4.CHÁNH NGHIỆP ĐẠO :
Chánh nghiệp là hành động nào cũng phải phù hợp với lẽ phải, đừng hãm hại bất cứ loài vật nào,
bất cứ một người nào, ngay cả đừng có một ý định làm hảm hại người nào.
Chánh tư duy cũng diễn tả, cũng suy nghĩ về chánh nghiệp. Nói khác người có chánh nghiệp là
ln ln có hành vi đạo đức tốt, tránh gây tổn thương quyền lợi và danh dự của kẻ khác. Đức
Phật khuyên rằng để thực hành chánh nghiệp thì cần phải làm những điều sau đây:
-Khơng sát sanh.


-Không trộm cắp, cướp của.
-Không tà dâm.
-Không uống rượu.

4
Hành động chân chánh:
- Hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống chung của mọi người, mọi loài.
- Hành động có thận trọng khơng tổn hại đến nghề nghiệp, tài sản, danh giá và địa vị của kẻ
khác.
- Hành động chân chánh là hành động có lương tâm, đạo đức trong địa vị của mình, biết gìn
giữ tánh hạnh.


1.5.CHÁNH MẠNG
Chánh mạng là làm một nghề để sinh sống phải tránh làm hảm hại kẻ khác.Phật giáo thường
khuyến khích con người loại bớt các tài sản vì nó ràng buộc mình. Thực ra thì cũng khơng có
điều nào cấm cản việc tích trử tiền bạc và sắm các nữ trang quý giá.Tất cả tùy thuộc vào sự liên
hệ của tài sản này do đâu mà có.Theo truyền thống thơng thường thì sự giàu sang có thể là dấu
hiệu của một nghiệp tốt lành.Tài sản dồi dào cũng có thể giúp hành giả một cơ hội giúp đỡ người
khác qua lòng từ bi của hành giả..Chánh nghiệp cịn có nghĩa là khuyến khích chúng ta,làm một
nghề gì để giúp đỡ,để đem lợi ích cho người khác.Đức Phật đã đưa ra các nghề phải tránh như:
-Khơng bán vũ khí.
-Khơng bán ma túy.
-Khơng làm nghề đồ tể.
-Khơng sản xuất đồ uống có độc hại.
1.6.CHÁNH TINH TẤN :
Chánh tinh tấn là kỷ luật tinh thần nhằm chú tâm cố gắng, siêng năng, kiên nhẫn để sử dụng sự
cố gắng thích hợp giữa hai cực đoan: một bên là lười biếng, một bên là làm quá sức.Chánh tinh
tấn là loại bỏ những thái độ, những tư tưởng không đúng đắn.
- Quyết tâm lọai bỏ các việc ác đã sanh, ngăn ngừa những việc ác chưa sanh.
- Chuyên làm các việc lành việc tốt.
- Chuyên cần trau dồi phước đức và trí tuệ.
Chun cần khơng chân chánh:
- Là người say sưa với ngũ dục và khóai lạc.
- Là kẻ say sưa lạc thú làm tổn hại đến người khác, không tiết chế bản thân.
1.7.CHÁNH NIỆM ĐẠO :
Chánh niệm có nghĩa là phải làm cho đời sống của chúng ta gắn liền với những gì mà ta đang làm
trong hiện tại.Ví dụ:khi ăn thì ta chú tâm ăn,khi đọc sách thì ta chú tâm đọc,khi đọc Kinh Phật thì
ta chú tâm và kinh Phật,khi đang lái xe thì chú tâm vào việc lái xe,khi rửa chén thì chú tâm vào
việc rửa chén.
Đức Phật đã thực hành chánh niệm khi Ngài quan sát lại tư tưởng của Ngài,những tình cảm của
Ngài,tình trạng sức khỏe của thân xác Ngài và tâm thức của Ngài.Rồi sau đó Ngài tìm "con
đường tu hành" thích hợp.Như vậy, điểm chính của Chánh niệm là không phê phán những trải

nghiệm tinh thần như là điều tốt hay như là điều xấu,như là điều muốn làm hay như là điều không
muốn làm,như là một điều phải làm hay như là một điều khơng nên làm. Nói khác,Chánh
niệm giúp ta nhận thức "sự vật như là nó có.".Rồi nhờ Chánh tinh tấn trợ lực Chánh niệm có
thể thúc đẩy những ý niệm tốt lành được hướng về con đường từ bi hơn.Trong các tơn giáo khác
cũng có những giờ phút suy niệm, nhưng cách thực hành thì khác chánh niệm của Phật giáo.Ngày
nay, Chánh niệm đã được khoa tâm lý trị liệu áp dụng.Các trường Đại học Y khoa ở Âu Mỹ đã


dùng "con đường Chánh niệm"để trị các bệnh tâm thần như căng thẳng (stress),trầm
cảm (depression),âu lo (anxiety)
- Quán niệm Từ bi: Thấy nỗi khổ của chúng sanh trong luân hồi sanh lịng thương xót, tìm
nhiều phương tiện để giúp đở họ. Thấy sự mê lầm của mình và người dẫn đến sầu, bi , khổ, ưu và
não, thực hành lời Phật dạy để chấm dứt mê lầm.
- Quán niệm Trí huệ: Quán niệm nguyên nhân sanh hóa vũ trụ, óan thân, tốt xấu, cao thấp; quán
niệm thực tướng của các pháp để vững tiến trên con đường giải thoát.
5
1.8. CHÁNH ĐỊNH ĐẠO :
Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì tốt lành như lịng từ bi,như sự vô
thường của cuộc đời.Tâm thần của chúng ta được coi như là một tấm gương dính bụi,Chánh
định coi như lau chùi tấm gương để tấm gương được sáng tỏ.Nói khác,Chánh định giúp cho tâm
thần được sáng sủa để nhìn sự vật như là nó hiện hữu trong thực tại.
Chánh định giúp chúng ta nhìn thấu triệt tính vơ thường,tính duyên khởi của mọi sự vật,
mọi hoàn cảnh ở đời để giúp chúng ta làm giảm những lo lắng,sợ sệt,nghi ngờ,tham luyến, giận
dữ và ảo tưởng về một việc hay một vấn đề nào đó;và nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ bình
an hơn,sẽ khéo léo hơn,và sẽ từ bi hơn để đem lợi ích cho chính chúng ta và cho người khác.
Thiền định chân chánh:
- Bất tịnh quán: quán các pháp không thanh tịnh, để trừ tham dục, si ái v.v…….
-Từ Bi Quán : Quán sát tất cả chúng sanh đồng thể tánh thanh tịnh, không hơn không kém để tơn
trọng, kính q và đọan trừ tâm hận thù
- Nhân duyên quán: Quán tất cả pháp đều do nhân dun mà thành, khơng có một pháp nào riêng

biệt trong thế giới tương tức tương nhập ( Kinh hoa nghiêm), không chân thật, không trường tồn,
để đọan trừ ngu si thiên chấp.
- Giới phân biệt quán: Nghĩa là phân biệt và quán sát sự giả hợp của 18 giới ( 6 căn, 6 trần, 6
thức) để thấy không thật có ngã pháp và diệt trừ ngu si cố chấp.
- Sổ tức quán: Nghĩa là quán hơi thở, để đối trị tâm tán lọan để đi sâu vào thiền định.
Thiền định không chân chánh:
-Thiền định để cầu thác sinh các cõi trời.
-Thiền định để luyện bùa chú, thần thông, phép lạ, trường sanh bất tử.
2.Tu tập Bát Chánh Đạo:
2.1. Chánh kiến
Chánh kiến là chi phần đầu tiên trong Bát chánh đạo, thuật ngữ trong tiếng Pali là sammā-diṭṭhi,
trong tiếng Phạn được biết đến với danh từ samyag-dṛṣṭi; Chánh kiến tức là phá vỡ vô minh
nghiệp tập ngàn đời ngàn kiếp, cái thấy cái nhìn đúng với chân lý, đúng với sự thật y như chúng
là, hành giả ứng dụng Chánh kiến, tức là người đã có cái thấy, cái biết chân chánh bằng trí tuệ
vượt qua khơng gian và thời gian; hành giả đó đạt được cái nhìn trung đạo (Majjhimà patipadà),
không vướng kẹt trong bất kỳ lý luận nào, khơng vướng vào tri thức hiểu biết để vượt thốt khỏi
ngã và pháp.
Chánh kiến là điểm cốt lõi, trọng tâm của Bát chánh đạo. Trong tám chi phần thì chúng tương
quan và tương duyên lẫn nhau, thực hành thiền định hay tu tập Tứ niệm xứ ở cấp độ cao nhất thì
hành giả cần phải biết rằng chúng vận hành đồng thời chứ không phải bước đi theo từng bước
hoặc thực hành hết chi phần này đến chi phần khác theo số thứ tự. Dù cho ngay cả ở mức độ bắt
đầu và thấp nhất cũng vậy, mỗi chi phần trong Bát chánh đạo đều được tác động với một mức độ
nào đó của chánh kiến.
2.2. Chánh tư duy
Chánh tư duy là chi phần thứ hai trong Bát chánh đạo, tức là suy nghĩ chơn chánh, thuật ngữ
trong tiếng Pali là sammā-saṅkappa, luôn dùng tư duy chân chánh để tu đạo, thực hành đạo và
hướng đạo, giúp cho mọi người ứng dụng và tu tập đúng với con đường Bát chánh để ra khỏi
sanh tử luân hồi.Khi hành giả và thiền sinh đã làm chủ tâm, không để cho tâm làm chủ mình, thì
lúc ấy hành giả tu tập chánh trí bao gồm hai chi đầu, đó là Chánh kiến và Chánh tư duy.



Chánh tư duy có nghĩa là hành giả và thiền sinh thực hành pháp hành Tứ niệm xứ trong đời
sống hằng ngày để ln có định niệm và tư duy chân chánh; tức là trong quá trình hành pháp và
hoằng pháp giúp đời giúp người, hành giả ln có những tư duy liên quan đến các cách tư duy
như sau:
1.Tư duy sự xuất ly, trong Kinh Tạng đức Phật thường dùng cụm từ: Nekkhamma-samkappa để
chỉ cho trạng thái tư duy chân chánh này;
6
2.Tư duy vơ sân để ni dưỡng lịng từ ái mà trong Kinh Tạng đức Phật thường dùng cụm từ:
Avyàpàda samkappa;
3.Tư duy vô hại để nuôi dưỡng và phát triển lòng bi mẫn như trong Kinh Tạng đức Phật thường
dùng cụm từ: Avihimsà-samkappa.
Trong quá trình tu tập Bốn niệm xứ và thực hành Tứ vô lượng tâm, hành giả và Thiền sinh cần
phải phát triển đồng thời những tư duy này, vì chúng cần được tu tập và mở rộng đến mn lồi
chúng sanh khơng phân biệt chủng tộc, giai cấp, dịng dõi hay tín ngưỡng nào, hay lồi vật nào…
Cũng như trong q trình tu tập và làm đạo, hoặc chia sẻ kinh nghiệm học hỏi hành pháp v.v…
thiền sinh tuyệt nhiên không được nghĩ và xem rằng mình ban phát lịng từ, lịng bi mẫn đến cho
ai đó hoặc lồi nào đó, vì như thế là đã thể hiện bản ngã và tự ngã trong cái tơi, cùng tự coi mình
là trung tâm và ích kỷ thì đó khơng phải là tư duy hành pháp chân chánh, nó khơng phải là tư duy
chân chánh.Hành giả ứng dụng và tu tập Bát chánh đạo trong chi phần Chánh kiến, tức trí tuệ thì
cũng tương dun đang thấm nhuần Chánh tư duy; Chánh kiến và Chánh tư duy đi đôi với nhau
và không bao giờ mất chúng trong tu tập niệm xứ và cách sống trong đời sống của mình; cái đó
gọi là tuệ giác đi đơi với lòng bi mẫn. Ứng dụng và thực hành Bát chánh trong hai chi phần này
như thế chúng ta sẽ thấy đâu là người có trí giàu lịng bi mẫn, vị tha và vô ngã, và đâu là người vô
minh, chấp thủ với bản ngã, và lòng tham muốn, vị kỷ, thù hận và bạo hành thì khơng thể nào đi
chung cùng với trí tuệ. Nghệ thuật của an vui, hạnh phúc và giải thốt, tức là nghệ thuật phát triển
lịng bi mẫn đi đôi với tuệ giác trong đời sống.Nghệ thuật ứng dụng và tu tập Bát chánh đạo nằm
ở chỗ mời người có mắt (trí tuệ) đến để thấy và thực hành chứ khơng phải đến để tin. Chính việc
đến để thấy, hiểu và thực hành không phải để tin một cách mù quáng, đây là điều cốt lõi của Bát
chánh đạo được đức Phật thuyết giảng và tán thành.

2.3. Chánh ngữ
Chánh ngữ là lời nói chân chánh, hành giả Khất sĩ cùng nam nữ cư sĩ thực hành và ứng dụng
giáo pháp sẽ nhận thấy trong thuật ngữ Phật học Pali là cụm từ sammā-vācā, trong tiếng Phạn là
samyag-vāk; tức là những lời nói thể hiện chân lý ngay tại đây và bây giờ, những lời nói về Tứ
diệu đế để cho người nghe thấu hiểu được chân lý.
Thực hành và ứng dụng Chánh ngữ tức là:
- Không nói dối, đồng thời phải ln ln nói sự thật.
- Khơng nói lời ly gián gây sự bất hịa và chia rẽ, đồng thời phải nói những lời nào đưa đến sự
hịa hợp và đồn kết.
- Khơng nói những lời thơ ác, cộc cằn, thay vào đó phải nói những lời từ ái, tế nhị.
- Khơng nói những lời vơ ích, ngồi lê đơi mách, thay vào đó phải nói những lời có ý nghĩa và
khơng bị bậc trí khiển trách.Nếu khơng nương vào sự áp dụng ngơn từ thì hiện thực tối cao của
chân lý khơng được trình bày; và khơng đến chỗ hiện thực tối cao thì khơng thể trực chứng được
chân lý; nghệ thuật của sự chân thật chính là ngơn từ thể hiện chân lý ngay tại đây và bây giờ
bằng cái nhìn chánh kiến.


2.4. Chánh nghiệp
Chánh nghiệp là những hành nghiệp chân chánh; có nghĩa là suy nghĩ, lời nói và hành động
tương tầm tương tức với Chánh kiến, thuật ngữ trong tiếng Pali là sammā-kammanta; khi một
người có Chánh kiến rồi thì suy nghĩ và hành động đều là chân chính.
7
Chánh nghiệp là cách ứng dụng trong hành động và ngôn từ đều thể hiện đạo lý chánh trí để
người khác khi nghe hoặc nhìn thấy là nhận được đạo lý, nhờ đó có thể khai mở chân lý nơi chính
mình, những hành động được xuất phát từ nơi thân của mình, nơi lời nói của mình được thể hiện
trọn vẹn và nhất quán với cái đạo lý giác ngộ giải thoát, và khai mở trí tuệ cho mọi người để họ
nhận chân ra được chân lý nhiệm mầu, đó được gọi là chánh nghiệp.
Về mặt ứng dụng và thực hành của Chánh nghiệp đối với nam nữ cư sĩ và thiền sinh, tức là tránh:
Không sát sanh
Không trộm cắp

Không tà hạnh (ngoại tình, dan díu).
Khi thực tập chánh nghiệp là khi đó hành giả đồng thời cũng phải trau dồi lịng bi mẫn, sự rộng
lượng và đời sống đơn giản trong sạch. Nghệ thuật của sự hài hòa giữa nội dung và hình thức
chính là sự ni dưỡng và phát triển lòng từ bi trong một đời sống rộng lượng và đơn giản.

2.5. Chánh mạng
Chánh mạng tức là có một đời sống chơn chính, khơng bao giờ bị chi phối bởi cái thân mạng luôn
thay đổi giữa cũ và mới trong mỗi giây phút trôi qua, trong kiếp sống này, nhận diện chính mạng
ngay bây giờ và ở đây. Người sống đúng chính mạng là người hịa nhập cái chỗ bất sanh bất diệt,
sáng suốt nhiệm mầu trong mỗi một phút giây đều mới mẻ của hiện tiền này, tức là người đó đã
có đủ chính mạng, thuật ngữ trong tiếng Pali sammā-ājīva mà đức Phật đề cập đến trong Chánh
mạng chính là nghĩa này vậy.
Đối với các hành giả Khất sĩ, và nam nữ cư sĩ thiền sinh ứng dụng Chánh mạng tức là từ bỏ
những lối làm ăn sinh sống tà vạy, bất chính, từ bỏ cách làm ăn đem lại sự tai hại, khổ đau cho
mình và cho người khác, theo những chỉ bày trong Luật tạng và lời răn dạy của đức Phật và bậc
thiện tri thức thì đời sống chánh mạng là nên từ bỏ bn bán:
- Vũ khí (từ bỏ),
- Súc vật để giết thịt (từ bỏ),
- Người, ở đây muốn nói đến tình trạng mua bán nô lệ rất thịnh hành vào thời xưa và thời đức
Phật (từ bỏ), ngày nay trong thời hiện đại nạn bn người cũng cịn diễn ra (từ bỏ).
- Các loại thức uống có men gây nghiện, say (từ bỏ),
- Các loại độc dược (từ bỏ).
Một sự nghiệp giàu mạnh đáng trân quý và thưởng thức chính là một sự nghiệp được đặt trên nền
của những thiện ý, vì an lạc và hạnh phúc của chính mình, của gia đình mình và của cả hành tinh


này. Nghệ thuật của sự xây dựng và phát triển sự cơng bằng xã hội chính là những ngun tắc đạo
đức được nhắm vào việc làm cho xã hội an ổn bằng cách thúc đẩy sự hợp tác, hòa hợp và những
quan hệ chính đáng giữa con người với nhau.Một thiền sinh có lối sống lành mạnh và đạo đức thì
nó là nền tảng cho sự phát triển tinh thần, sự an lạc trong

8
thiền định, là nguồn năng lượng nuôi dưỡng đời sống tâm linh và làm cho tâm được vững vàng,
an tịnh. Khơng có một đời sống an lạc trong một lối sống dục lạc vô độ, tham lam và ích kỷ; nghệ
thuật của cuộc sống thảnh thơi trong đời sống và trong thiền vị chính là sự nhận diện, từ bỏ và
chuyển hóa cuộc sống vơ độ, tham lam và ích kỷ.Nghệ thuật của sự nhận diện cái đẹp, tức là nhận
thấy rằng thân mạng này luôn cũ đi và luôn mới ra trong từng giây, từng phút; nhận diện và nuôi
dưỡng năng lượng như vậy chúng ta sẽ nhận thấy chúng ta ln đẹp, vì chúng ta nhận thấy vơ
thường và có năng lượng chánh niệm.
2.6. Chánh tinh tấn
Chánh tinh tấn là người luôn luôn nhiệt tâm, chuyên cần an trú ở nơi chánh niệm, nuôi dưỡng
định niệm để người đó sống trong từng khoảnh khắc mới mẻ của hiện tiền, không lầm lẫn, không
bao giờ bị mê mờ giữa vọng niệm và chánh niệm. Luôn nhận biết chúng một cách rõ ràng có tuệ
tri chân chánh, chính vì vậy mà thuật ngữ trong tiếng Pali mà thiền sinh có thể nhận thấy là
sammā-vāyāma, tức là đức Phật đề cập đến trạng thái thức tỉnh tinh tấn, tinh tấn tức là thức tỉnh –
thức tỉnh chính là tinh tấn.
Thiền sinh thực hành và ứng dụng Bát chánh đạo trong chi phần này tạm hiểu là sự cố gắng kiên
trì trong tỉnh thức và có niệm lực. Để ngăn ngừa những tư duy ác, bất thiện chưa sanh, không cho
sanh khởi trong tâm hành giả, và đoạn trừ những tư duy ác đã sanh. Hành giả và Thiền sinh làm
cho sanh khởi và phát triển những tư duy thiện chưa sanh. Từ đó thúc đẩy và duy trì những tư duy
thiện đã sanh càng thêm tăng trưởng và dồi dào.
Một tâm hồn trong sáng và tĩnh lặng là nhờ siêng năng định chỉ và đoạn trừ những tư duy ác, bất
thiện. Luôn cảnh giác và chặn đứng những tư duy không lành mạnh, đồng thời tu tập, thúc đẩy,
duy trì những tư duy thiện lành và trong sáng đang sanh trong tâm hành giả và trong đời sống
hằng ngày. Một đời sống an bình và một thế giới hịa bình nhờ sự ni dưỡng và phát triển tư duy
lành mạnh và trong sáng. Nghệ thuật của sự phát triển an lạc và hịa bình chính là sự làm chủ lời
nói và hành động của mình, nhìn một cách tồn diện trong óc tư duy của mình bằng những tư duy
chân chánh, và tránh những ý nghĩ điên đảo thì con người và thế giới bên ngồi sẽ an bình.
2.7. Chánh niệm
Chánh niệm là một danh từ có nguồn gốc từ chữ Pali là sammā-sati, trong tiếng Phạn là samyaksmṛti; là thuật ngữ mà các hành giả Khất sĩ và Thiền sinh thực tập chánh niệm ngày nay thường
nhận thấy trong hầu hết các Kinh điển cốt lõi trong đạo Phật. Chánh niệm tức là sự tỉnh giác,

không quên niệm, biết rõ các pháp một cách trọn vẹn, biết rõ những gì phát sanh ngay trong mỗi
giây phút của hiện tại, bây giờ và ở đây. Chánh niệm là sự tuệ tri được
Thiền sinh thực hành và ứng dụng Bát chánh đạo trong chi phần Chánh niệm, tức là phát khởi
niệm hay gán sự chú tâm vào các hoạt động của Thân, Thọ, Tâm, Pháp; mà đức Phật đã đề cập
trong Tứ niệm xứ chính là “Thân hành niệm: Kàyanupassanà”. Niệm và nhận diện “Các cảm thọ:
Vedanànupassanà”, tức là niệm Thọ trong Tứ niệm xứ. Niệm và nhận diện “những hoạt động của
tâm: Cittanupassanà”, tức là Tâm hành niệm trong Tứ niệm xứ. Niệm và quán “Các pháp:
Dhammànupassanà”, tức là niệm Pháp trong Tứ niệm xứ.Khi một hành giả và thiền sinh có niệm
lực chính là thực hành một cách thiện xảo và khéo léo trong tương tác lẫn nhau với Chánh tinh
tấn, nhờ có năng lượng chánh niệm và luôn tinh tấn niệm lực định niệm trong hành thiền mà có


thể chặn đứng sự khởi sanh của những tư duy bất thiện, đồng thời phát triển những tư duy thiện
đã có mặt.

9
Nghệ thuật của sự chánh niệm chính là sự thận trọng đối với những hành động thân, khẩu, ý của
chính mình; một tâm hồn tích cực và tĩnh lặng phát sinh theo sau năng lực chánh niệm, ngăn ngừa
và tiêu trừ sự tổn hại nhàu nát của tâm, tạo động lực cho một sự tiến bộ của tâm và nuôi dưỡng
một tâm hồn lành mạnh trong đời sống. Nghệ thuật của sức mạnh chính là sự bng xả những
tâm hồn nặng trĩu ngàn đời trong đời sống, thân và tâm khỏe không phải là nhấc chúng lên mạnh
mà là đặt chúng xuống một cách nhẹ nhàng.
2.8. Chánh định
Muốn nhập định và có chánh định thì phải loại bỏ vọng tưởng, tức là loại bỏ những suy nghĩ lung
tung tự động khởi niệm trong đầu và trong tâm khơng có vọng niệm, sau một thời gian thực hành
và tu tập thiền, hành giả và thiền sinh đạt được Chánh niệm tỉnh giác, nghĩa là tâm không loạn
động như trước, những suy nghĩ vẩn vơ vừa mới manh nha nổi lên đã bị phát hiện và loại bỏ ngay
khi đó.
Chánh định là sự an định vững chắc của tâm, chính sự tập trung đã làm cho tâm an trú và khiến
cho nó khơng bị dao động, xáo trộn. Trong thiền ta có Tứ thiền, nghĩa là bốn cấp độ nhập định

được chia ra từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền, như vậy xét về công phu tu thiền
chúng ta có Tứ thiền. Cịn để thành tựu những tính chất và trạng thái của Định, khi tu tập hành giả
phải buông tâm không trú vào đâu cả, và như thế, tâm dễ mở rộng thênh thang.
Hành giả và thiền sinh hành thiền với bốn mức thiền này đều có nhập và xuất theo đúng cách
(đúng cách như Tứ niệm xứ), nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, ta phải có thời gian dụng
cơng chứ khơng phải đó là những trạng thái thường xuyên. Rồi khi muốn trở lại trạng thái như cũ,
ta cũng phải mất cơng thốt ra chứ khơng phải tức thì là được. Trong đời sống hằng ngày, bình
thường khi khơng nhập thiền, một hành giả an trú trong nội tâm tỉnh giác vắng lặng nhưng không
phải là bốn mức thiền này.
Bốn mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động tọa thiền mà thơi. Tuy nhiên, cũng
có khi một hành giả vừa đi vừa nhập thiền rất sâu, ví dụ như ngài Tôn giả Mục-kiền-liên, tham
khảo trong kinh Sa-môn quả thuộc Trường bộ kinh thiền sinh sẽ thấy lúc đó ngài Mục-kiền-liên
vừa đi vừa nhập thiền phát khởi thần thơng, vì thần thơng có nghĩa là vừa vào định vừa hành
động. Sẽ trình bày trong một bài pháp khác về chủ đề Thiền định theo bài kinh Sa Môn Quả trong
Trường Bộ kinh do đức Phật giảng.
Chánh định là sự an định vững chắc của tâm, có thể so sánh với ngọn đèn cháy sáng khơng dao
động ở nơi kín gió. Chính sự tập trung đã làm cho tâm an trú và khiến cho nó khơng bị dao động,
xáo trộn. Việc thực hành định tâm (Samàdhi) đúng đắn sẽ duy trì tâm và các tâm sở ở trạng thái
quân bình, vì vậy trong thuật ngữ Pali được đức Phật đã đề cập bằng cụm từ sammā-samādhi,
chính là nghĩa này.
Chánh định phát triển và có mặt nhờ có Chánh tinh tấn và Chánh niệm, chúng sẽ giúp cho tâm
định vững vàng, có khả năng đẩy lùi những chướng ngại, những tham dục đang khuấy động tâm
hành giả. Nghệ thuật của sự an cư, an định chính là sự hịa nhập vào đời sống hiện tại một cách
tinh tế không đối kháng.


Bát chánh đạo chính là ba mơn học Giới – Định – Tuệ, tức là Tam học (tividhàsikkhà). Khi hành
giả và thiền sinh ứng dụng Bát chánh đạo thì khơng nên hiểu là những “con đường: maggo” riêng
biệt.


10
Theo kinh nghiệm của đức Phật dựa vào Tam học, hành giả phải thực hành:

1. Giới: sīla, tức là thực hành các chi phần chánh đạo: Chánh ngữ (Sammà-vàca), Chánh
nghiệp (Sammà - kammanta), Chánh mạng (Sammà àjiva).

1. Sau đó là Định: samādhi, tức là thực hành các chi phần chánh đạo: Chánh tinh tấn
(Sammà-vayama), Chánh niệm (Sammà-sati), Chánh định (Sammà-samàdhi).

2. Cuối cùng là Huệ: paññā, tức là thực hành các chi phần các chánh đạo: Chánh kiến
(Sammà-ditthi), Chánh tư duy (Sammà-samkappa).
Con đường đó được gọi là con đường Trung đạo (Majjhimà patipadà); tức là tránh xa hai cực
đoan: lợi dưỡng, đắm mình trong dục lạc được xem là thấp hèn, dung tục và dẫn đến nguy hại là
cực đoan thứ nhất. Thứ hai, là tự hành hạ mình bằng các hình thức khổ hạnh nghiêm khắc dẫn
đến đau khổ, thấp hèn và nguy hại, bại liệt...
Hành giả Khất sĩ và thiền sinh thực hành và ứng dụng Tam học (tividhàsikkhà) thì khơng nên
xem và nghĩ rằng một trong ba môn học hoặc Giới hoặc Định hoặc Tuệ tự thân nó là cứu cánh;
mà mỗi môn học là một phương tiện để đi đến cứu cánh, để đạt đến trí tuệ và giải thốt. Nghĩa là,
mỗi môn học không thể tu tập độc lập với các mơn học khác, vì nó là cái kiền 3 chân không thể
thiếu một trong 3. Tam học nương tựa và hỗ trợ lẫn nhau, nhờ Giới củng cố cho Định, và Định trở
lại thúc đẩy trí tuệ; nhờ Trí tuệ giúp hành giả loại trừ tà kiến, thấy các pháp (sự vật hiện tượng)
như chúng thực sự là, đó là thấy cuộc sống và tất cả pháp liên quan đến cuộc sống đều phải chịu
sanh, diệt, vô thường, chúng khơng có một tự ngã, khơng có một tự tính tự tồn tại mà là mọi hiện
tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, chúng là nguyên
nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác.


11

KẾT LUẬN

Trong bài giảng pháp đầu tiên của Đức Phật tại vườn Lộc Uyển, ngài đã nhắc đến Đạo đế – một
trong bốn chân lý của Tứ Diệu đế. Theo đó, để chứng ngộ được Đạo đế, giải thốt khỏi kiếp luân
hồi và bước từng bước đến cõi niết bàn thì cần phải tu tập theo Bát Chánh
Đạo.Bát Chánh đạo
hay Bát Chính đạo, Bát Thánh đạo (tiếng Phạn là: āryāstāngika – mārga) có nghĩa là con đường
chân chính chia làm tám chi, là giáo lý căn bản được đề cập trong Đạo đế. Con đường tám chi đó
bao gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm và Chánh định.Trong Phật giáo, con đường tám chi trong bát chánh đạo thường được
biểu tượng bằng hình vẽ một chiếc bánh xe có 8 nan hoa.
Bát chánh đạo được nhắc tới trong kinh Trung bộ như sau: ““Do có chánh kiến, chánh tư duy
khởi lên; Do có chánh tư duy, chánh ngữ khởi lên; Do có chánh ngữ, chánh nghiệp khởi lên; Do
có chánh nghiệp, chánh mạng khởi lên; Do có chánh mạng, chánh tinh tấn khởi lên; do có chánh
tinh tấn, chánh niệm khởi lên; do có chánh niệm, chánh định khởi lên; do có chánh định, chánh trí
khởi lên; Do có chánh trí, chánh giải thoát khởi lên. Như vậy, này các Tỳ-kheo, đạo lộ của vị hữu
học gồm có tám chi phần, và đạo lộ của vị A-la-hán gồm có mười chi phần”.
Như vậy, 8 chi nhánh của con đường Bát chánh đạo có mối liên quan mật thiết với nhau. Trên
con đường hướng tới niềm an lạc, hạnh phúc thì ta cần thực hành Bát chánh đạo, cốt là để rèn
thân – khẩu – ý của chính mình.


12

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Minh Châu-Thiên Ân - Chơn Trí - Đức Tâm, Phật pháp. Thành hội Phật giáo Tp Hồ Chí
Minh. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1997.
2.Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận. Nxb TP. Hồ Chí Minh,1999.
3.Minh Châu-Thiên Ân - Chơn Trí - Đức Tâm, Phật pháp. Thành hội Phật giáo Tp Hồ Chí
Minh. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1997.
4.H.T.Thích Thiện hoa, Phật học phổ thơng, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí minh ấn
hành, quyển I_II_III. 1992.

5.Thích Nhất hạnh, Trái tim của Bụt, NXB. Lá bối, California, USA.1997.
6.Narada Thera, Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật pháp, Thành hội Phật giáo Tp.
Hồ Chí Minh, 1993.


13



×