GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
BÀI TIỂU LUẬN MƠN KINH TRUNG BỘ
Đề tài:SO SÁNH KINH TRUNG BỘ VÀ KINH TRUNG
A HÀM TƯƠNG ĐƯƠNG THUỘC NHÓM KINH DO
CÁC VỊ THÁNH ĐỆ TỬ TUN THUYẾT
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.Thích Giác Hồng
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Can
Pháp danh: Trí Cường
Mã sinh viên: TX 6031
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo
TP. Hồ Chí Minh, năm 2021
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
BÀI TIỂU LUẬN MƠN KINH TRUNG BỘ
Đề tài:
SO SÁNH KINH TRUNG BỘ VÀ KINH TRUNG A HÀM
TƯƠNG ĐƯƠNG THUỘC NHÓM KINH DO CÁC VỊ
THÁNH ĐỆ TỬ TUN THUYẾT
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS.Thích Giác Hồng
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Can
Pháp danh: Trí Cường
Mã sinh viên: TX 6031
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo
TP. Hồ Chí Minh, năm 2021
MỤC LỤC
Chương 1:
A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Hơn 2500 năm đã trôi qua kể từ khi Đức Phật giác ngộ chân lý , Đức Phật đã giảng
dạy ở Ấn Độ.Ngài đã đưa ra nhiều lời khuyên cho những ai quan tâm ,thuyết giảng
cho nhiều cá nhân cũng như đoàn thể khác nhau trong hơn bốn mươi năm .Sau khi
Đức Phật nhập diệt,việc ghi nhận những lời dạy của Ngài được duy trì theo hệ thống
truyền khẩu .Theo thời gian những lần đọc tụng thuộc lòng ấy được viết bằng văn
tự ,đặt nền móng cho nền văn học Phật giáo sau này.Kinh tạng Pali là một trong những
kinh văn đầu tiên được viết bằng chữ viết và là những văn bản hoàn chỉnh duy nhất
còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày nay .Mặc dù Phật giáo được truyền bá và định
hình tại nhiều quốc gia khác nhau,phát triển thành nhiều truyền thống văn học khác
nhau tùy theo khơng gian và hồn cảnh,trong quá khứ khoảng cách địa lý và những
khác biệt về ngôn ngữ đã làm giới hạn việc trao đổi thông tin.Những bài thuyết pháp
của Đức Phật được bảo tồn trong kinh tạng Pali,gọi là Sutta(kinh),theo tiếng Pali(Nam
phạm) tương đương với từ Suttra theo tiếng Sanskrit (Bắc phạm).Mặc dù kinh tạng
Pali thuộc về một trường phái Phật giáo nguyên thủy,hay còn gọi là thượng tọa bộ
-điều này hồn tồn khơng có nghĩa là những văn bản kinh điển này chỉ thuộc về Phật
giáo nguyên thủy.Những văn bản kinh điển này xuất phát từ thời kỳ đầu tiên kéo dài
khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt,trước khi phật giáo nguyên thủy phân
chia thành nhiều bộ phái khác nhau.Vì lý do những kinh điển đã tạo thành những di
sản chung của toàn bộ truyền thống Phật giáo và phật tử thuộc mọi truyền thống tìm
hiểu nguồn gốc giáo lý phật giáo cần phải ưu tiên nghiên cứu học hỏi kinh tạng này
thật sự sâu sát và cẩn trọng.Đó là lý do học viên chọn chủ đề “So sánh Kinh Trung Bộ
và Kinh trung A Hàm tương đương thuộc nhóm kinh do các vị thánh đệ tử tuyên
thuyết” làm đề tài tiểu luận của mình.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng các phương pháp: phân tích, đối chiếu, so sánh,tổng hợp
3.Nội dung nghiên cứu:
Trong hai bài kinh : Kinh Tổng thuyết và Biệt thuyết số 138 trong Trung Bộ Kinh và
Kinh Phân Biệt Quán Pháp số 164 bản tương đương trong Trung A hàm .
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung.Nội dung gồm 02 chương có 04 mục.
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo
4
B.NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN GỐC KINH PĀLI VÀ KINH TẠNG SANSKRIT
1.1. Kinh tạng Pali
Những bộ sưu tập kinh điển thuộc về hầu hết các tông phái Phật giáo Ấn Độ chính
thống nguyên thủy đã bị mất mát khi Phật giáo Ấn Độ bị phe hồi giáo tàn phá khi họ
xâm chiếm miền bắc Ấn Độ trong thế kỷ thứ mười một và mười hai.Những cuộc xâm
lăng đó đã báo hiệu cái chết của Phật giáo ngay trên mảnh đất phát sinh .Chỉ có một
bộ sưu tập kinh tạng đầy đủ thuộc về phật giáo nguyên thủy.Đó là bộ sưu tập được gìn
dữ bằng ngơn ngữ Pali sau đó được truyền sang Tích Lan trong thế kỷ thứ ba sau tây
lịch và nhờ vậy thoát khỏi nạn giáng vào Phật giáo trên đất mẹ của mình.Qua những
bến cố của lịch sử các bài kinh được sắp xếp lại bằng hệ thống mới những tuyển tập
lớn được gọi là Nikaya theo truyền thống phật giáo nguyên thủy ,hay tạng kinh A hàm
(Agama)theo trường phái bắc tông Ấn Độ.Kinh tạng Pali là bộ sưu tập những bản
kinh mà truyền thống Phật giáo ngun thủy xem chính thức là lời phật dạy,nhưng
khơng có nghĩa là tất cả bài kinh có thể xuất phát cùng một thời kỳ,và cũng cũng
khơng có nghĩa là những bản kinh cổ xưa nhất xưa hơn những bản kinh tương đồng
với những bộ phái Phật giáo khác,rất nhiều văn bản kinh vẫn còn tồn tại trong các bản
dịch bằng tiếng Trung Hoa và Tây Tạng.
1.2. Kinh tạng Sanskrit
Từ "A-hàm" (Agama) được các học giả cận đại giải thích là: Lai trước, Thú quy, Tri
thức, Thánh ngôn, Thánh huấn tập, Kinh điển. Hán dịch của từ Agama cũng rất nhiều:
Pháp quy, Pháp bản, Pháp tạng, Giáo pháp, Giáo phần, Chủng chủng thuyết, Vô tỷ
pháp, Truyền giáo, Tịnh giáo, Thú vô, Giáo, Truyền, Lai, Tạng v.v...
Thiện Kiến Luật Tỳ-Bà-Sa 2 thì cho A-hàm nghĩa là dung chứa, tụ tập. Nhưng nghĩa
này có thể là chỉ cho từ "Nikàya" trong tiếng Pàli (nghĩa là tập hội, toản tập) chứ
không phải từ Agama.
Pháp Hoa Luận Sớ có nêu lời giải thích của ngài Đạo An đời Đông Tấn rằng A-hàm
là "Thú vô", vì tất cả pháp đều hướng về pháp "Khơng" cứu cánh. Cịn ngài Tăng
Triệu thì giải thích A-hàm là Pháp quy. Thực ra, những lối giải thích trên đều khơng
đúng với chánh ý của A-hàm.
A-hàm thuộc về giáo thuyết truyền thừa, được tập đại thành sau khi Đức Phật nhập
diệt. Đây là nội dung của Kinh Tạng (Phạn: Sùtrànta-pitaka) trong 3 tạng, chia làm Tứ
A-hàm hay Ngũ A-hàm.
"Tứ A-hàm" là Trung A-hàm, Trường A-hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm (hoặc
Tương Ưng). Đây là từ ngữ được các kinh sau đây đề cập đến: Kinh Bát-nê-hoàn
quyển hạ, Hữu Bộ Tỳ-nại-da Tạp Sự 39, Luận Đại Trí Độ, Luận Du-già-sư-địa 85,
kinh Đại Bát-niết-bàn 13 (bản Bắc), Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân 2
v.v...
5
Chương 2
SO SÁNH KINH TỔNG THUYẾT VÀ BIỆN THUYẾT SỐ 138 TRONG
TRUNG BỘ KINH VÀ BÀI KINH PHÂN BIỆT QUÁN PHÁP SỐ 164 TRONG
TRUNG A HÀM
2.1.So sánh
138. Kinh Tổng thuyết và Biệt thuyết
164. Kinh Phân Biệt Quán Pháp[1]
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm,
Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ
Tơi nghe như vầy:Một thời Đức Phật du
hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng,
vườn Cấp cơ độc.Bấy giờ, Đức Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
--“Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ thuyết pháp
cho các ngươi, phần đầu thiện, phần giữa
thiện và phần cuối cũng thiện, có nghĩa,
có văn, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện phạm
hạnh. Đó là kinh ‘Phân biệt quán pháp’.
Các thầy hãy lắng nghe, khéo suy tư và
ghi nhớ.Nghe vậy, các Tỳ-kheo thưa
rằng:“Bạch Thế Tôn, chúng con xin vâng
lời”.Đức Phật bảo rằng:“Tỳ-kheo, quán
như vậy như vậy. Ngươi quán như vậy
rồi, Tỳ kheo, tâm hướng về bên ngoài, bị
phân rải, tán loạn, tâm không an trú vào
bên trong, không chấp thủ nhưng sợ hãi.
Nhưng, này các Tỳ-kheo, hãy quán như
thế nào mà sau khi các ngươi đã quán như
vậy, tâm khơng hướng về bên ngồi,
khơng bị phân rải, tán loạn, tâm trú bên
trong, không chấp thủ, không sợ hãi. Như
vậy các ngươi khơng cịn sanh, lão, bệnh,
tử nữa. Đó là tận cùng sự khổ”.
- Đức Phật nói như thế, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, vào thất tĩnh tọa.Khi ấy, các
Tỳ-kheo nghĩ rằng: “Chư Hiền nên biết,
Đức Thế Tơn nói lên điều đó một cách
tóm tắt, khơng phân biệt rộng rãi, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy vào thất tĩnh tọa. Thế
Tôn chỉ nói:‘Tỳ-kheo, quán như vậy như
vậy. Ngươi quán như vậy rồi, Tỷ kheo,
tâm hướng về bên ngoài, bị phân rải, tán
loạn, tâm khơng an trú vào bên trong,
Hịa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Như vầy tôi nghe.Một thời, Thế Tôn ở
Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm),
tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô
Ðộc).Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế Tôn".
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tơn nói như sau:-- Này các Tỷkheo, Ta sẽ giảng cho các Ông Tổng
thuyết và Biệt thuyết. Hãy nghe và suy
nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.-- Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.Các vị Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Thế Tơn. Thế Tơn nói như sau:-Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải
quán sát một cách như thế nào để thức
của vị ấy đối với ngoại trần không tán
loạn, không tản rộng (1), tâm không trú
trước nội trần (2), không bị chấp thủ
quấy rối (3). Này các Tỷ-kheo, nếu thức
đối với ngoại trần không tán loạn, không
tản rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối, sẽ khơng có
tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già,
chết trong tương lai.Thế Tơn nói như
vậy. Nói như vậy xong, Thiện Thệ từ chỗ
ngồi đứng dậy rồi bước vào tinh xá.Sau
khi Thế Tôn đi không bao lâu, các Tỷkheo ấy suy nghĩ như sau: "Chư Hiền,
sau khi đọc lên bài tổng thuyết một cách
vắn tắt, khơng có giải nghĩa một cách
rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy
và đi vào tinh xá:
-"Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải
quán sát một cách như thế nào để thức
của vị ấy đối với ngoại trần không tán
6
loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội trần, không bị chấp thủ quấy
rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với
ngoại trần không tán loạn, không tản
rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối, sẽ không có
tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già,
chết trong tương lai". Nay khơng biết ai
có thể giải nghĩa một cách rộng rãi phần
tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế
Tơn nói lên một cách vắn tắt, khơng
được giải nghĩa một cách rộng rãi?"
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau:
"Tôn giả Mahakaccana (Ðại Ca-chiêndiên) này đã được Thế Tôn tán thán và
được các vị đồng Phạm hạnh có trí kính
trọng, Tơn giả Mahakaccana có thể giải
nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này,
phần này chỉ được Thế Tơn nói lên một
cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách
rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn giả
Mahakaccana; sau khi đến, chúng ta hãy
hỏi Tôn giả Mahakaccana về ý nghĩa
này". Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả
Mahakaccana; sau khi đến, nói lên với
Tơn giả Mahakaccana những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời
chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
các vị Tỷ-kheo ấy thưa với Tôn giả
Mahakaccana:- Thưa Hiền giả Kaccana,
sau khi đọc tổng thuyết này, không giải
nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ
ngồi đứng dậy đi vào tinh xá: "Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải quán sát một
cách như thế nào để thức của vị ấy đối
với ngoại trần không tán loạn, không tản
rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷkheo, nếu thức đối với ngoại trần không
tán loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội trần, không bị chấp thủ quấy
rối, sẽ khơng có tập khởi, sanh khởi của
khổ về sanh, già, chết trong tương lai".
Nay khơng biết có ai có thể giải nghĩa
một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần
không chấp thủ nhưng sợ hãi. Nhưng, này
các Tỳ-kheo, hãy quán như thế nào mà
sau khi các ngươi đã quán như vậy, tâm
khơng hướng về bên ngồi, khơng bị phân
rải, tán loạn, tâm trú bên trong, không
chấp thủ, không sợ hãi. Như vậy các
ngươi khơng cịn sanh, lão, bệnh, tử nữa.
Đó là tận cùng sự khổ’.” vậy rồi, Tỳø
kheo, tâm hướng về bên ngồi, bị phân
rải, tán loạn, tâm khơng an trú vào bên
trong, không chấp thủ nhưng sợ hãi.
Nhưng, này các Tỳ-kheo, hãy quán như
thế nào mà sau khi các ngươi đã qn như
vậy, tâm khơng hướng về bên ngồi,
khơng bị phân rải, tán loạn, tâm trú bên
trong, không chấp thủ, khơng sợ hãi. Như
vậy các ngươi khơng cịn sanh, lão, bệnh,
tử nữa. Đó là tận cùng sự khổ“Chúng tơi
đã nghĩ rằng, ‘Chư Hiền, vị nào có thể
phân biệt được điều mà Thế Tơn đã nói
một cách tóm lược?’
Các vị ấy lại nghĩ rằng: “Chư Hiền, vị nào
có thể phân biệt rộng rãi điều mà Thế Tơn
đã nói một cách tóm lược?” Các vị ấy lại
nghĩ: “Tơn giả Đại Ca-chiên-diên thường
được Thế Tơn và các bậc phạm hạnh có
trí tán thán. Như vậy, Tơn giả Đại Cachiên-diên có thể phân biệt được điều mà
Thế Tơn đã nói một cách tóm lược. Này
chư Hiền, hãy cùng nhau đi đến nơi Tôn
giả Đại Ca-chiên-diên, nhờ Tơn giả giải
thích điều đó. Nếu Tơn giả Đại Ca-chiêndiên phân biệt cho, chúng ta sẽ khéo thọ
trì”.
Thế rồi các Tỳ-kheo cùng nhau đi đến chỗ
Tơn giả Đại Ca-chiên-diên, cùng chào hỏi
nhau rồi ngồi qua một bên thưa rằng:
“Thưa Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, nên
biết cho rằng, Đức Thế Tơn nói điều này
một cách tóm lược, khơng phân biệt rộng
7
này chỉ được Thế Tơn nói lên một cách
vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng
rãi? Rồi này Hiền giả Kaccana, chúng tôi
suy nghĩ như sau:"Tôn giả Mahakaccana
này đã được Thế Tôn tán thán và được
các vị đồng Phạm hạnh có trí kính trọng,
Tơn giả Mahakaccana có thể giải nghĩa
một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần
này chỉ được Thế Tơn nói lên một cách
vắn tắt, khơng giải nghĩa một cách rộng
rãi. Vậy chúng ta hãy hỏi Tôn giả
Mahakaccana về ý nghĩa này,
Tơn giả Mahakaccana hãy giải thích
cho". Này chư Hiền, ví như một người
cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi
tìm cầu lõi cây, đứng trước một cây lớn
có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây,
nghĩ rằng lõi cây cần phải tìm trong các
nhánh cây, lá cây... Cũng vậy là việc làm
của chư Tôn giả. Chư Tôn giả đứng
trước mặt Thế Tôn, chư Tôn giả lại vượt
qua Thế Tôn, và nghĩ rằng cần phải hỏi
tôi về ý nghĩa này. Nhưng này chư Hiền,
Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy
những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí
giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc
Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc
dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử,
bậc Pháp chủ, bậc Như Lai.
Nay đã đến thời, chư Hiền hãy đến hỏi
Thế Tôn về ý nghĩ này. Thế Tơn giải
thích cho chư Hiền như thế nào, chư
Hiền hãy như vậy thọ trì.
Thưa Hiền giả Kaccana, chắc chắn Thế
Tơn biết những gì cần biết... Nay đã đến
thời chúng tôi đến hỏi Thế Tôn về ý
nghĩa này. Thế Tơn giải thích cho chúng
tơi như thế nào, chúng tơi sẽ như vậy thọ
trì. Nhưng Tơn giả Mahakaccana được
Thế Tơn tán thán, được các vị đồng
Phạm hạnh kính trọng. Tơn giả
Mahakaccana có thể giải thích rộng rãi
tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế
Tơn nói lên một cách vắn tắt, không giải
nghĩa một cách rộng rãi.-Mong Tôn giả
Mahakaccana giải thích cho, nếu Tơn giả
rãi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vào phịng
tĩnh tọa. Thế Tơn chỉ nói rằng, ‘Tỳ-kheo,
qn như vậy như vậy. Ngươi quán như
“Chúng tôi lại nghĩ, ‘Tôn giả Đại Cachiên-diên [2]thường được Thế Tôn và
các bậc pham hạnh có trí tán thán. Như
vậy, Tơn giả Đại Ca-chiên-diên có thể
phân biệt được điều mà Thế Tơn đã nói
một cách tóm lược’. Mong Tơn giả Đại
Ca-chiên-diên thương xót mà phân biệt
rộng rãi cho”.Bấy giờ, Tôn giả Đại Cachiên-diên nói rằng:
-“Này chư Hiền, hãy nghe tơi nói thí dụ.
Người có trí nghe thí dụ thì sẽ hiểu được
nghĩa.“Này chư Hiền, cũng như người
muốn tìm lõi cây. Vì muốn tìm lõi cây
nên xách búa vào rừng. Người ấy thấy
cây đại thọ có đủ gốc, thân, cành, nhánh,
lá, hoa và lõi. Người ấy không đốn gốc,
thân, cành và lõi mà chỉ chặt nhánh và lá
thơi. Điều chư Hiền nói ra cũng lại như
vậy. Đức Thế Tơn cịn đó mà chư Hiền lại
bỏ đi tìm tơi để hỏi về điều ấy. Vì sao?
Chư Hiền nên biết, Thế Tơn là Con Mắt,
là Trí, là Nghĩa, là Pháp chủ, là Pháp
tướng Nói nghĩa chân đế, hiển hiện tất cả
các nghĩa, đều do Thế Tôn.“Này chư
Hiền, hãy đến chỗ Đức Thế Tơn mà hỏi
điều đó như thế này, ‘Bạch Thế Tơn, điều
đó thế nào? Điều đó có nghĩa gì?’ Đức
Thế Tơn dạy thế nào, chư Hiền nên khéo
léo thọ trì thế ấy”.
Nghe thế, các Tỳ-kheo thưa rằng:
“Xin vâng, thưa Tôn giả Đại Ca-chiêndiên, Đức Thế Tơn là Con Mắt, là Trí, là
Nghĩa, là Pháp chủ, là Pháp tướng. Nói
nghĩa chân đế, hiển hiện tất cả các nghĩa,
đều do Thế Tôn. Chúng tôi đáng lẽ phải
đến chỗ Thế Tơn mà hỏi về điều đó như
vầy ‘Bạch Thế Tơn, điều đó thế nào?
Điều đó có nghĩa gì?’ Đức Thế Tơn nói
như thế nào, chúng tơi sẽ khéo thọ trì thế
ấy. Nhưng Tơn giả Đại Ca-chiên-diên
thường được Thế Tơn và các bậc phạm
hạnh có tri tán tán. Như vậy, Tơn giả có
thể phân biệt được điều mà Thế Tôn đã
8
không cảm thấy phiền phức. Vậy chư
Hiền, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, tơi sẽ
nói.Thưa vâng, Hiền giảCác vị Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Tơn giả Mahakaccana. Tơn
giả Mahakaccana nói như sau:
-- Này chư Hiền, phần tổng thuyết Thế
Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải
nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi
đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá:
-"Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo cần phải
quán sát một cách như thế nào để thức
của vị ấy đối với ngoại trần không tán
loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội trần, không bị chấp thủ quấy
rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với
ngoại trần không tán loạn, không tản
rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối, sẽ khơng có
tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già,
chết trong tương lai". Này chư Hiền, lời
tổng thuyết này được Thế Tôn đọc lên
một cách vắn tắt, không giải nghĩa một
cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa một cách
rộng rãi như sau:-Chư Hiền, sao gọi là
thức đối với ngoại trần, bị tán loạn, bị
tản rộng? Ở đây, này chư Hiền, khi vị
Tỷ-kheo thấy sắc với con mắt, thức truy
cầu sắc tướng, bị trói buộc bởi vị của sắc
tướng, bị cột chặt bởi vị của sắc tướng,
bị triền phược bởi kiết sử vị của sắc
tướng, như vậy gọi là thức đối với ngoại
trần bị tán loạn, bị tản rộng. Khi vị Tỷkheo nghe tiếng với tai...ngửi hương với
mũi... nếm vị với lưỡi... cảm xúc với
thân... nhận thức pháp với ý, thức truy
cầu pháp tướng, bị trói buộc bởi vị của
pháp tướng, bị cột chặt bởi vị của pháp
tướng, bị triền phược bởi kiết sử vị của
pháp tướng; như vậy gọi là thức đối với
ngoại trần bị tán loạn, bị tản rộng.
Như vậy, này chư Hiền, gọi là thức bị
tán loạn, bị tản rộng.Chư Hiền, sao gọi
là thức đối với ngoại trần, không bị tán
loạn, không bị tản rộng? Ở đây, này chư
Hiền, khi vị Tỷ-kheo thấy sắc với con
mắt, thức không truy cầu sắc tướng,
nói một cách tóm lược. Mong Tơn giả Đại
Ca-chiên-diên thương xót mà giải thích
rộng rãi cho”.Tơn giả Đại Ca-chiên-diên
nói:
“Này chư Hiền, vậy hãy nghe tơi
nói.“Này chư Hiền, thế nào là tâm Tỳkheo hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán
loạn? –Chư Hiền, với con mắt, Tỳ-kheo
con mắt thấy sắc, thức ăn tướng của sắc,
thắc đắm trước vị lạc của tướng của sắc,
thức bị trói buộc bởi vị lạc của tướng của
sắc; vị ấy bị vị ngọt của sắc tướng cột
chặt tâm nên hướng ra ngoài, bị phân rải,
tán loạn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
với ý vị ấy nhận thức pháp, thức chạy
theo pháp tướng, thức đắm trước vị lạc
của pháp tướng, thức bị trói buộc bởi vị
lạc của pháp tướng, vị ấy bị vị của vị ngọt
của pháp tướng cột chặt tâm nên hướng ra
bên ngoài, bị phân rải, tán loạn.
-“Này Chư Hiền, như vậy gọi là tâm Tỳkheo hướng ra bên ngoài, bị phân rải, tán
loạn.“Này chư Hiền, thế nào gọi là tâm
Tỳ-kheo không hướng ra ngồi, khơng bị
phân rải, tán loạn?-“Này chư Hiền, với
con mắt, Tỳ-kheo thấy sắc, thức không
chạy theo sắc tướng, thức khơng đắm
trước lạc của sắc tướng, thức khơng bị
trói buộc bởi lạc của sắc tướng, vị ấy
không bị vị ngọt của sắc tướng cột chặt
tâm nên không hướng ra ngồi, khơng bị
phân rải, tán loạn. Cũng vậy, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý; với ý Tỳ-kheo nhận thức
pháp, thức không chạy theo pháp tướng,
thức không đắm trước lạc của pháp
tướng, thức khơng bị trói buộc bởi lạc của
pháp tướng.Vị ấy khơng bị vị ngọt của
pháp tướng cột chặt tâm nên không
hướng ra ngồi, khơng bị chi phối, tán
loạn.
-Này Chư Hiền, như vậy gọi là tâm Tỳkheo khơng hướng ra ngồi, khơng bị
phân rải, tán loạn.“Này chư Hiền, thế nào
là tâm Tỳ-kheo không trú vào bên trong?
“Này chư Hiền, Tỳ-kheo ly dục, ly pháp
9
khơng bị trói buộc bởi vị của sắc tướng,
khơng bị cột chặt bởi vị của sắc tướng;
không bị triền phược bởi kiết sử vị của
sắc tướng; như vậy gọi là thức đối với
ngoại trần không bị tán loạn, không bị
tản rộng. Khi vị Tỷ-kheo nghe tiếng với
tai... ngửi hương với mũi... nếm vị với
lưỡi.. cảm xúc với thân.... nhận thức
pháp với ý, thức khơng truy cầu pháp
tướng, khơng bị trói buộc bởi vị của
pháp tướng, không bị cột chặt bởi vị của
pháp tướng, không bị triền phược bởi
kiết sử vị của pháp tướng; như vậy gọi là
thức đối với ngoại trần không bị tán
loạn, không bị tản rộng. Như vậy, này
chư Hiền, gọi là thức không bị tán loạn,
không bị tản rộng.Và này chư Hiền, thế
nào gọi là tâm trú trước nội trần?
Ở đây, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú
Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm có tứ. Thức vị ấy
truy tìm hỷ lạc do ly dục sanh, bị trói
buộc bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, bị cột
chặt bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh, bị triền
phược bởi kiết sử hỷ lạc do ly dục sanh;
như vậy gọi là tâm trú trước nội trần.
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo đình
chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhứt tâm. Thức của vị ấy truy tìm hỷ lạc
do định sanh, bị trói buộc bởi vị hỷ lạc
do định sanh, bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do
định sanh; bị triền phược bởi kiết sử hỷ
lạc do định sanh; như vậy gọi là tâm trú
trước nội trần.
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly hỷ
trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm
sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền
thứ ba. Thức của vị ấy truy tìm xả, bị
trói buộc bởi vị xả và lạc, bị cột chặt bởi
vị xả và lạc, bị triền phược bởi vị xả và
lạc; như vậy gọi là tâm trú trước nội trần.
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo xả lạc
ác bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc do
ly dục phát sanh, chứng đắc thiền thứ
nhất, thành tựu an trụ. Nhưng thức của
vị ấy đắm trước ở vị ngọt của ly dục, y
nơi đó, trú nơi đó, duyên nơi đó, gắn chặt
nơi đó, nên thức khơng trú vào bên trong.
“Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-kheo giác
quán đã dứt, nội tĩnh nhất tâm, khơng giác
khơng qn, có hỷ lạc do định phát sanh,
đắc thiền thứ hai, thành tựu an trú.
Nhưng thức của vị ấy đắm trước nơi vị
ngọt của định, y vào đó, trú vào đó, duyên
vào đó, gắn chặt vào đó, nên thức của vị
ấy không trú vào bên trong.
“Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-kheo ly hỷ
dục, an trú xả, vô cầu, với chánh niệm
chánh trí, thân cảm giác lạc, điều được
Thánh nói là được Thánh xả, niệm, an trú
lạc đắc thiền thứ ba, thành tựu an trú.
Nhưng thức của vị ấy trú trước vào vị
ngọt của ly hỷ, y vào đó, trú vào đó,
duyên vào đó, gắn chặt vào đó, nên thức
của vị ấy không trú vào bên trong.
“Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-kheo diệt lạc,
diệt khổ, diệt ưu hỷ trước kia, không khổ,
không lạc, xả niệm thanh tịnh, đắc thiền
thứ tư, thành tựu an trú. Nhưng thức
của vị ấy trú trước vào vị của xả và của
niệm, y vào đó, trú vào đó, duyên vào đó,
gắn chặt vào đó, nên thức của vị ấy không
trú vào bên trong.
“Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-kheo vượt
qua mọi sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng,
không tư duy đến các loại tưởng sai khác,
nhập vô lượng không, thành vô lượng
không xứ, thành tựu và an trú. Nhưng
thức của vị ấy trú trước vào vị ngọt của
khơng trí, y vào đó, trú vào đó, dun vào
đó, gắn chặt vào đó, nên thức của vị ấy
khơng trú vào bên trong.
“Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-kheo vượt
qua tất cả vô lượng không xứ, nhập vô
lượng thức, vô lượng thức xứ, thành tựu
an trú. Nhưng thức của vị ấy trú trước vào
vị của thức trí, y vào đó, trú vào đó,
10
xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không
khổ không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Thức
của vị ấy truy tìm khơng khổ khơng lạc,
bị trói buộc bởi vị khơng khổ khơng lạc,
bị cột chặt bởi vị không khổ không lạc,
bị triền phược bởi kiết sử vị không khổ
không lạc; như vậy gọi là tâm trú trước
nội trần. Như vậy gọi là tâm trú trước
nội trần.Và này chư Hiền, thế nào gọi là
tâm không bị trú trước nội trần? Ở đây,
này chư Hiền, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất
thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ. Thức của vị ấy khơng
truy tìm hỷ lạc do ly dục sanh, khơng bị
trói buộc bởi vị hỷ lạc do ly dục sanh,
không bị cột chặt bởi vị hỷ lạc do ly dục
sanh, không bị triền phược bởi kiết sử hỷ
lạc do ly dục sanh, như vậy gọi là tâm
không trú trước nội trần.
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo đình
chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất
tâm. Thức của vị ấy khơng truy tìm hỷ
lạc do định sanh, khơng bị trói buộc bởi
vị hỷ lạc do định sanh, không bị cột chặt
bởi vị hỷ lạc do định sanh, không bị triền
phược bởi kiết sử hỷ lạc do định sanh;
như vậy gọi là tâm không trú trước nội
trần.Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo
ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú
Thiền thứ ba. Thức của vị ấy khơng truy
tìm xả, khơng bị trói buộc bởi vị xả và
lạc, khơng bị cột chặt bởi vị xả và lạc,
không bị triền phược bởi vị xả và lạc,
như vậy được gọi là tâm không trú trước
nội trần.
Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo xả lạc
xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không
khổ không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Thức
của vị ấy không truy tìm khơng khổ
dun vào đó, gắn chặt vào đó, nên thức
của vị ấy không trú vào bên trong.
“Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-kheo vượt
qua tất cả vô lượng thức xứ, nhập vô sở
hữu xứ, thành tựu an trú. Nhưng thức
của vị ấy trú trước vào vị của vơ sở hữu
trí, y vào đó, trú vào đó, duyên vào đó,
gắn chặt vào đó, nên thức của vị ấy khơng
trú vào bên trong.“Lại nữa, này chư Hiền,
Tỳ-kheo vượt qua tất cả vô sở hữu xứ,
nhập Phi hữu tưởng phi vô tưởng,
thành tựu an trú. Nhưng thức của vị ấy trú
trước vào vị của tưởng trí, y vào đó, trú
vào đó, dun vào đó, gắn chặt vào đó,
nên thức của vị ấy khơng trú vào bên
trong.“Này chư Hiền, như vậy gọi là tâm
Tỳ-kheo không trú vào bên trong.“Này
chư Hiền, thế nào là tâm[3] Tỳ-kheo an
trú vào bên trong?“Chư Hiền, Tỳ-kheo ly
dục, ly pháp ác bất thiện, có giác có quán,
có hỷ lạc do ly dục sanh, đắc Thiền thứ
nhất, thành tựu an trú. Thức của vị ấy
không trú trước vào vị ngọt của ly dục,
khơng y vào đó, khơng trú vào đó, khơng
dun vào đó, khơng gắn chặt vào đó, nên
thức trú vào bên trong.“Lại nữa, chư
Hiền, Tỳ-kheo giác quán đã dứt, nội tĩnh
nhất tâm, khơng giác khơng qn, có hỷ
lạc do định sanh, đắc đệ Nhị thiền, thành
tựu an trú. Thức của vị ấy không trú trước
vào vị ngọt của định, không y vào đó,
khơng trú vào đó, khơng dun vào đó,
khơng gắn chặt vào đó, nên thức trú vào
bên trong.“Lại nữa, chư Hiền, Tỳ-kheo ly
hỷ dục, an trụ, vô cầu, chánh niệm chánh
trí, thân cảm giác lạc, điều được Thánh
nói là được Thánh xả, niệm, an trú lạc,[4]
đắc Thiền thứ ba, thành tựu an trụ. Thức
của vị ấy không trú trước vào vị của ly
hỷ, khơng y vào đó, khơng trú vào đó,
khơng dun vào đó, khơng gắn chặt vào
đó, nên thức trú vào bên trong.
“Lại nữa, chư Hiền, Tỳ-kheo diệt khổ,
diệt dục, diệt hỷ và ưu có trước kia,
khơng khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh,
đắc Thiền thứ tư, thành tựu an trụ. Thức
11
khơng lạc, khơng bị trói buộc bởi vị của
khơng khổ không lạc, không bị cột chặt
bởi vị của không khổ không lạc, không
bị triền phược bởi kiết sử vị không khổ
không lạc; như vậy gọi là tâm không trú
trước nội trần. Như vậy gọi là tâm không
trú trước nội trần.Và thế nào, này chư
Hiền, là bị chấp thủ quấy rối?
Ở đây, này chư Hiền, kẻ vô văn phàm
phu không thấy rõ các bậc Thánh, không
thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu
tập pháp các bậc Thánh, không yết kiến
các bậc Chân nhân, không thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, không tu tập
pháp các bậc Chân nhân, thấy sắc như là
tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay
thấy sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là
có sắc. Sắc pháp ấy của nó có biến hoại,
đổi khác. Với sự biến hoại và đổi khác
trong sắc pháp ấy của nó, thức của vị ấy
bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong sắc
pháp của vị ấy. Do thức bị tùy chuyển
bởi sự biến hoại trong sắc pháp, nên
pháp quấy rối khởi lên, xâm nhập tâm và
tồn tại. Vì tâm bị xâm nhập, vị ấy sợ hãi,
bực phiền và đầy những khao khát. Và vị
ấy bị chấp thủ quấy rối.Vị ấy xem cảm
thọ.. tưởng... các hành... thức như là tự
ngã hay tự ngã, như là có thức, hay thức
như là trong tự ngã, hay tự ngã như là
trong thức. Thức ấy của vị ấy biến hoại
và đổi khác. Với sự biến hoại và đổi
khác trong thức ấy của vị ấy, thức của vị
ấy bị tùy chuyển bởi sự biến hoại trong
thức của vị ấy. Do thức bị tùy chuyển
bởi sự biến hoại trong pháp, nên các
pháp quấy rối khởi lên, xâm nhập tâm và
tồn tại. Vì tâm bị xâm nhập, vị ấy sợ hãi,
bực phiền và đầy những khao khát. Và vị
ấy bị chấp thủ quấy rối.
-Như vậy, này chư Hiền, là bị chấp thủ
quấy rối.Và thế nào, này chư Hiền, là
không bị chấp thủ quấy rối? Ở đây, này
chư Hiền, có Ða văn Thánh đệ tử yết
kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các
bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh;
của vị ấy không trú trước vào vị ngọt của
xả và vị của niệm thanh tịnh, khơng y vào
đó, khơng trú vào đó, khơng dun vào
đó, khơng gắn chặt vào đó, nên thức trú
vào bên trong.“Lại nữa, chư Hiền, Tỳkheo vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu
đối tưởng, không tư duy đến các loại
tưởng sai biệt, nhập vô lượng không xứ,
thành tựu an trụ. Thức của vị ấy không trú
trước vào vị của khơng trí, khơng y vào
đó, khơng trú vào đó, khơng dun vào
đó, khơng gắn chặt vào đó, nên thức trú
vào bên trong.“Lại nữa, chư Hiền, Tỳkheo vượt qua tất cả vô lượng không xứ,
nhập vô lượng thức xứ, thành tựu an trụ.
Thức của vị ấy không trú trước vào vị
ngọt của thức trí, khơng y vào đó, khơng
trú vào đó, khơng dun vào đó, khơng
gắn chặt vào đó, nên thức trú vào bên
trong.“Lại nữa, chư Hiền, Tỳ-kheo vượt
qua tất cả vô lượng thức xứ, nhập vô sở
hữu xứ, thành tựu an trụ. Thức của vị ấy
không trú trước vào vị ngọt của vơ sở hữu
trí, khơng y vào đó, khơng trú vào đó,
khơng dun vào đó, khơng gắn chặt vào
đó, nên thức trú vào bên trong.“Lại nữa,
chư Hiền, Tỳ-kheo vượt qua tất cả vô sở
hữu xứ, nhập phi hữu tưởng phi vô tưởng
xứ, thành tựu an trụ. Thức của vị ấy
không trú trước vào vị ngọt của vơ tưởng
trí, khơng y vào đó, khơng trú vào đó,
khơng dun vào đó, khơng gắn chặt vào
đó, nên thức trú vào bên trong.“Này chư
Hiền, như vậy gọi là tâm Tỳ-kheo trú vào
bên trong.
“Này chư Hiền, thế nào là Tỳ-kheo không
chấp thủ mà sợ hãi?“Chư Hiền, Tỳ-kheo
không ly sắc nhiễm, không ly sắc dục,
không ly sắc ái, không ly sắc khát. Này
chư Hiền, nếu Tỳ-kheo nào không ly sắc
nhiễm, không ly sắc dục, không ly sắc ái,
không ly sắc khát, thì vị ấy muốn được
sắc, truy cầu, đắm trước sắc, trú vào sắc,
nghĩ rằng ‘Sắc là ta. Sắc là sở hữu của ta’.
Khi đã muốn được sắc, truy cầu sắc, đắm
trước sắc, trú vào sắc, nghĩ rằng ‘Sắc là
12
yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các
bậc Chân nhân; không thấy sắc như là tự
ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay không
thấy sắc như là trong tự ngã, hay tự ngã
như là trong sắc. Sắc pháp của vị ấy biến
hoại, đổi khác. Với sự biến hoại và đổi
khác trong sắc pháp của vị ấy, thức của
vị ấy không bị tùy chuyển bởi sự biến
hoại trong sắc pháp của vị ấy. Do thức
không bị tùy chuyển bởi sự biến hoại
trong sắc pháp, nên các pháp quấy rối
không khởi lên, không xâm nhập tâm và
tồn tại. Vì tâm khơng bị xâm nhập, vị ấy
không sợ hãi, không bực phiền và không
đầy những khao khát. Và vị ấy không bị
chấp thủ quấy rối.Vị ấy không xem cảm
thọ.. tưởng... các hành.. thức như là tự
ngã hay tự ngã là có thức, hay khơng
thấy thức như là trong tự ngã hay tự ngã
như là trong thức. Thức của vị ấy biến
hoại và đổi khác. Với sự biến hoại và đổi
khác trong thức của vị ấy, thức không bị
tùy chuyển bởi sự biến hoại trong thức
của vị ấy. Do thức không bị tùy chuyển
bởi sự biến hoại trong thức, nên các
pháp quấy rối không khởi lên, khơng
xâm nhập tâm và tồn tại. Vì tâm khơng
bị xâm nhập, vị ấy không sợ hãi, không
bực phiền và không đầy những khao
khát. Và vị ấy không bị chấp thủ quấy
rối. Như vậy, này chư Hiền, là không bị
chấp thủ quấy rối.-Này chư Hiền, phần
tổng thuyết Thế Tôn đọc lên một cách
vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng
rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào
trong tinh xá: "Này các Tỷ-kheo, vị Tỷkheo cần phải quán sát một cách như thế
nào để thức của vị ấy đối với ngoại trần
không tán loạn, không tản rộng, tâm
không trú trước nội trần, không bị chấp
thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức
đối với ngoại trần không tán loạn, không
tản rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối, sẽ khơng có
tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già,
ta. Sắc là sở hữu của ta’, thì thức nắm bắt
sắc. Sau khi thức nắm bắt sắc, lúc ấy sắc
biến dịch thì thức cũng bị chuyển theo
sắc. Khi thức đã bị chuyển theo sắc thì
Tỳ-kheo ấy sanh sợ hãi, tâm trú vào trong
đó. Nhơn vì tâm khơng biết nên sanh
khiếp sợ, lao nhọc, không chấp thủ mà sợ
hãi.“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức;
Tỳ-kheo không ly thức nhiễm, không ly
thức dục, không ly thức ái, không ly thức
khát.“Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo nào
không ly thức nhiễm, không ly thức dục,
khơng ly thức ái, khơng ly thức khát, thì
vị ấy muốn được thức, truy cầu thức, đắm
trước thức, trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức
là ta. Thức là sở hữu của ta’. Vị ấy khi đã
muốn đượïc thức, truy cầu thức, đắm
trước thức, trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức
là ta. Thức là sở hữu của ta’ thì thức nắm
bắt thức. Sau khi thức nắm bắt thức, lúc
thức ấy biến dịch thì thức cũng bị chuyển
theo thức. Sau khi thức đã bị chuyển theo
thức, Tỳ-kheo ấy sanh sợ hãi, tâm trú vào
trong đó. Nhơn vì tâm khơng biết nên
sanh khiếp hãi, lao nhọc, không chấp thọ
mà sợ hãi.-“Này chư Hiền, như vậy gọi là
Tỳ-kheo không chấp thọ mà sợ hãi.
-“Này chư Hiền, thế nào gọi là Tỳ-kheo
không chấp thủ, không sợ hãi?“Chư Hiền,
là Tỳ-kheo ly sắc nhiễm, ly sắc dục, ly
sắc ái, ly sắc khát.
“Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo nào ly sắc
nhiễm, ly sắc dục, ly sắc ái, ly sắc khát,
thì vị ấy không muốn được sắc, không
truy cầu sắc, không đắm trước sắc, không
trú vào sắc nghĩ rằng ‘Sắc không phải là
ta. Sắc không phải là sở hữu của ta’. Vị
ấy đã không muốn được sắc, không truy
cầu sắc, không đắm trước sắc, không trú
vào sắc nghĩ rằng ‘Sắc không phải là ta.
Sắc khơng phải là sở hữu của ta’ thì thức
không nắm bắt sắc. Khi thức đã không
nắm bắt sắc, lúc ấy sắc biến dịch, thức
không bị chuyển theo sắc. Thức đã khơng
bị chuyển theo sắc thì vị ấy khơng sanh
sợ hãi, tâm khơng trú vào trong đó. Nhơn
13
chết trong tương lai". Phần tổng thuyết
này, này chư Hiền, được Thế Tôn đọc
lên một cách vắn tắt, không được giải
nghĩa một cách rộng rãi; này chư Hiền,
tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như
vậy. Và nếu như chư Hiền muốn, hãy đi
đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này.-Thế
Tơn giải thích chư Hiền như thế nào, hãy
như vậy thọ trì.Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau
khi hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả
Mahakaccana giảng, từ chỗ ngồi đứng
dậy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, sau khi đọc
phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho
chúng con, khơng giải thích nghĩa một
cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng
dậy, và đi vào tịnh xá: "Này các Tỷkheo, vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một
cách như thế nào để thức của vị ấy đối
với ngoại trần không tán loạn, không tản
rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối. Này các Tỷkheo, nếu thức đối với ngoại trần không
tán loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội trần, khơng bị chấp thủ quấy
rối, sẽ khơng có tập khởi, sanh khởi của
khổ về sanh, già, chết trong tương
lai".Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi
không bao lâu, chúng con suy nghĩ như
sau: "Thế Tôn sau khi đọc phần tổng
thuyết một cách vắn tắt cho chúng ta,
không giải nghĩa một cách rộng rãi, và
đã đi vào tinh xá: "Vị Tỷ-kheo cần phải
quán sát một cách như thế nào để thức
của vị ấy đối với ngoại trần không tán
loạn, không tản rộng, tâm không trú
trước nội trần, không bị chấp thủ quấy
rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với
ngoại trần không tán loạn, không tản
rộng, tâm không trú trước nội trần,
không bị chấp thủ quấy rối, sẽ khơng có
tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già,
chết trong tương lai.". Nay khơng biết ai
có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng
vì tâm biết nên khơng khiếp sợ, khơng lao
nhọc, khơng chấp thọ, không sợ
hãi.“Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức;
Tỳ-kheo ly thức nhiễm, ly thức dục, ly
thức ái, ly thức khát. Này chư Hiền, nếu
Tỳ-kheo nào ly thức nhiễm, ly thức dục,
ly thức ái, ly thức khát thì vị ấy khơng
muốn đắc thức, không truy cầu thức,
không đắm trước thức, không trú vào
thức, nghĩ rằng ‘Thức không phải là ta.
Thức không phải là sở hữu của ta’. Tỳkheo ấy khi đã không muốn được thức,
không truy cầu thức, không đám trước
thức, không trú vào thức, nghĩ rằng ‘Thức
không phải là ta. Thức khơng phải là của
ta’, thì thức khơng nắm bắt thức. Khi thức
đã không nắm bắt thức, lúc thức kia biến
dịch, thức không bị chuyển theo thức. Khi
thức không bị chuyển theo thức, Tỳ-kheo
ấy không sanh sợ hãi, tâm không trú vào
trong đó. Nhơn vì tâm biết nên khơng
khiếp sợ, không lao nhọc, không chấp
thọ, không sợ hãi.“Này chư Hiền, như
vậy gọi là Tỳ-kheo không chấp thủ,
không sợ hãi.-“Này chư Hiền, Đức Thế
Tơn nói điều đó tóm lược, khơng phân
biệt rộng rãi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
vào phòng tĩnh tọa. Ngài chỉ nói rằng
‘Tỳ-kheo, quán như vậy như vậy. Ngươi
quán như vậy rồi, Tỳ-kheo, tâm hướng về
bên ngoài, bị phân rải, tán loạn, tâm
không an trú vào bên trong, không chấp
thủ nhưng sợ hãi. Nhưng, này các Tỳkheo, hãy quán như thế nào mà sau khi
các ngươi đã quán như vậy, tâm khơng
hướng về bên ngồi, khơng bị phân rải,
tán loạn, tâm trú bên trong, không chấp
thủ, không sợ hãi. Như vậy các ngươi
khơng cịn sanh, lão, bệnh, tử nữa. Đó là
tận cùng sự khổ’. Đức Thế Tơn đã nói
điều ấy tóm lược, khơng phân biệt rộng
rãi như vậy đó. Tơi đã dùng cú này, văn
này giải thích rộng rãi như thế. Này chư
Hiền, hãy đến trình bày với Thế Tơn đầy
đủ.
-Nếu Đức Thế Tơn nói điều đó như thế
14
thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn
đọc lên một cách vắn tắt, không được
giải nghĩa một cách rộng rãi?"Rồi bạch
Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau:
"Tôn giả Mahakaccana (Ðại Ca-chiêndiên) này đã được Thế Tôn tán thán và
được các vị đồng Phạm hạnh có trí kính
trọng, Tơn giả Mahakaccana có thể giải
nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này,
phần này chỉ được Thế Tơn nói lên một
cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách
rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn giả
Mahakaccana; sau khi đến, chúng ta hãy
hỏi Tôn giả Mahakaccana về ý nghĩa
này.Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến
Tôn giả Mahakaccana, sau khi đến
chúng con hỏi Tôn giả Mahakaccana về
ý nghĩa này. Ý nghĩa của những chữ ấy
đã được Tơn giả Mahakaccana giải thích
cho chúng con với những phương pháp
(akara) này, với những câu này, với
những chữ này.
-- Này các Tỷ-kheo, Mahakaccana là bậc
Hiền giả.Nàycác Tỷ-kheo, Mahakaccana
là bậc đại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, nếu
các Ơng hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng
giải thích cho các Ơng như vậy, như
Mahakaccana đã giải thích. Thật sự ý
nghĩa ấy là vậy, và các Ơng hãy thọ trì
như vậy.Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời
Thế Tơn dạy.
nào thì chư Hiền thọ trì như thế ấy”.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo ấy nghe Tơn giả
Đại Ca-chiên-diên nói như vậy, khéo thọ
trì, đọc tụng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi
quanh Tôn giả ấy ba vịng rồi đi đến chỗ
Thế Tơn, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi qua một
bên mà thưa rằng:“Bạch Thế Tôn, sau khi
Thế Tơn nói tóm lược về điều đó mà
khơng phân biệt rộng rãi, liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, vào thất tĩnh tọa, thì Tơn giả
Đại Ca-chiên-diên với cú như thế, văn
như thế đã giải thích rộng rãi về điều đó”.
Đức Thế Tôn nghe như vậy, liền tán thán
rằng:“Lành thay! Lành thay! Trong số đệ
tử của Ta, đó là vị có mắt, có trí, có pháp,
có nghĩa. Vì sao? Vì đạo sư nói điều ấy
tóm lược, khơng phân biệt rộng rãi cho
các đệ tử, mà đệ tử ấy đã bằng cú như thế,
văn như thế để giải thích rộng rãi. Cho
nên những gì mà Ca-chiên-diên đã nói,
các ngươi hãy thọ trì như vậy. Vì sao? Vì
thuyết quán nghĩa phải như vậy.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi
nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành
Chú thích:
[01] Tương đương Pāli, M.138. Uddesavibaṅga-suttam.
[02] Đại Ca-chiên-diên . Pāli:
Mahā-Kaccāna.
[03] Trong bản Pāli: thức (viññāna) bị
phân tán.
[04] Hán: Thánh sở thuyết Thánh sở xả
niệm lạc trú . Pāli: yaṃ
taṃ āriyā ācikkhanti upekkhako satimā
sukhaviharī, điều mà các Thánh nói là xả,
an trú lạc với chánh niệm
2.2.Nhận xét:
Giống nhau:
+Người giảng: Đức Phật giảng tổng thuyết sau đó tơn giả Mahà Kaccàna phân tích và
giảng giải chi tiết
+Đối tượng: Hội chúng Tỳ-kheo.
+Địa điểm: Tại Jetavana (Kỳ-đà viên), chỗ tinh xá của ông Anathapindika (Cấp cô
độc)
+.Nội dung: Kinh đề cập đến một lời dạy của đức Phật, trong ấy tóm thâu gọn tiến
trình tu tập của một người xuất gia đưa đến thánh quả.
15
Khác nhau:
+ Bản Pali có nói đến 4 thiền sắc giới cịn bản Hán dịch nói tới 8 tầng thiền(4 sắc
giới,4 vô sắc giới).
+ Pali dịch:anupàdàya paritassati - vị ấy bị chấp thủ quấy rối hay khủng bố. Chữ
paritassati dịch là khủng bố có hơi nặng nên dùng chữ quấy rối cho nhẹ hơn, dẫu rằng
chữ khủng bố thường được kinh chữ Hán dùng. Ở đây, kinh chữ Hán tương đương
giải thích đoạn này có dùng một số danh từ sai khác nhưng nói chung cũng tương
đương với lời giải thích từ chữ chữ Pàli. Kinh Hán tạng chép: "Chư hiền, thế nào là
Tỷ-kheo không thọ mà khủng bố? Chư hiền, Tỷ-kheo không ly sắc nhiễm, không ly sắc
dục, không ly sắc ái, không ly sắc khát. Chư hiền, nếu có Tỷ-kheo khơng ly sắc nhiễm,
khơng ly sắc dục, khơng ly sắc ái, không ly sắc khát, vị ấy muốn được sắc, cầu sắc,
trước sắc, trụ sắc, sắc tức là ngã, sắc là sở hữu của ngã. Khi muốn được sắc, cầu sắc,
trú sắc, sắc tức là ngã, sắc là sở hữu của ngã, thời thức ôm ấp sắc. Khi thức ôm ấp
sắc, thời khi sắc ấy biến dị, thức chuyển theo sắc, thời nó sanh khủng bố pháp và tâm
trú trong ấy. Nhân vì tâm khơng biết, nên sanh sợ hãi phiền lao, không thọ mà khủng
bố". Ở đây, chữ Hán dịch "annupàdà aparitassanti" là "không thọ mà khủng bố".
16
C.KẾT LUẬN
Sau hơn 500 năm truyền khẩu, vào 29-17 BC, đại hội V gồm 500 tu sĩ phái
Mahavihara tập họp và biên tập Kinh, Luật và Thắng Pháp lá bối đa. Lưu truyền cho
đến ngày nay. Pali được dùng vì ngôn ngữ Tây Ấn. 200 năm Phật nhập Niết Bàn, Đại
Chúng Bộ phát triển và phân hóa thành nhiều tơng phái. Dùng kinh điển A hàm
(Agama) bằng ngôn ngữ Sanskrit, hàm chứa tư tưởng đại thừa. PG nguyên thủy sử
dụng tiếng Ma-kiệt-đà, về sau sử dụng Pali. PG Đại thừa sử dụng phương ngữ miền
Trung Ấn => "Sanskrit tạp" (Hybrid Sanskrit), gần Sanskrit cỗ, ngữ văn quý trọng của
Ấn Độ. Không được truyền thống thừa nhận là Buddhavaccana. Được dịch ra Hán cổ
và Tạng ngữ. Kinh điển Pali dùng thể văn mô ta, tường thuật, ký sự, nhiều trùng cú,
điệp từ. Đơn giản, dễ hiểu, gần gũi đời thường, chặt chẽ, thiết thực, rõ ràng và nhất
quán. Kinh Đại thừa có văn phong phân tích, âm điệu hấp dẫn, dùng các ẩn dụ, lời nói
bóng bẩy, đa nghĩa. Phật giảng kinh Đại thừa cho Bồ-tát và chư thiên ở hành tinh
khác. Kinh tạng Pali có tầm quan trọng đặc biệt nó là tài liệu có thẩm quyền,đó là bộ
sưu tập đầy đủ tất cả thuộc về một tông phái,ngôn ngữ có liên hệ gần gũi với ngơn ngữ
mà Đức Phật nói.
Nhưng dù ở thể loại văn học nào người học phật phải thấy giá trị chung của nó qua
các bài kinh đó là chân lý(sự thật),chúng ta khơng chê bái hay phê phán các trường
phái cũng như Hòa thượng Quảng Độ: “Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần
gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật
giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo, phần cành lá là Đại Thừa Phật Giáo.
Người ta không thể nào tưởng tượng được sự tồn tại của một cái cây mà không có gốc
nhưng nếu chỉ có gốc khơng thơi thì cây ấy khơng cịn sức sống; hoặc giả có gốc, có
thân cây mà khơng có cành lá thì cây ấy cũng như cây trong mùa đông không khỏi gây
cho người ta cái ấn tượng trơ trụi tiêu điều. Nếu phần gốc và thân cây giữ cho cái cây
đứng vững, thì phần cành lá sum suê, xanh tốt là sự biểu dương cho cái sức sống
mãnh liệt của toàn bộ cái cây; hơn nữa tàn cây tươi thắm tỏa ra che rợp khoảng khơng
gian có đủ sức mang lại cho người lữ hành trên con đường dài mệt mỏi những phút
giây êm mát, thoải mái giữa buổi trưa hè oi bức. Cái cây Phật Giáo cũng thế: cả ba
phần Căn Bản, Tiểu Thừa, Đại Thừa có hợp lại, có biểu lí và bổ sung cho nhau thì mới
là cái cây Phật giáo hoàn toàn.”
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Thích Chơn thiện,tìm hiểu kinh trung bộ,Hà Nội,NXB Tơn giáo ,2004.
2.Thích Minh Châu ,tóm tắt kinh trung bộ,TP.HCM,NXB văn hóa Sài Gịn,2010.
3. HT. Thích Minh Châu, "Kinh Trung Bộ", Trường CCPHVN ấn hành 1986.
4.Bhikku Bodhi,Hợp tuyển lời Phật dạy từ kinh tạng Pali,VNCPH,2015.
5. Pháp sư Thánh Nghiêm(Thích Tâm Trí dịch),Lịch sử Phật giáo Ấn Độ,NXB
Phương Đơng,1997.
6.Ấn Thuận(Thích Quảng Đại dịch), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ,NXB Hồng
Đức.
7. T. Viên Trí, Ấn Độ Phật Giáo Sử Luận, NXB Hồng Đức.
18