Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

CUỘC SỐNG QUAN điểm TRIẾT THUYẾT của NGOẠI đạo SO SÁNH TRONG KINH TRUNG bộ và KINH TRUNG a hàm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.54 KB, 16 trang )

DDttt

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

-----------------------------------------------------

LÊ VĂN CAN

CUỘC SỐNG QUAN ĐIỂM TRIẾT THUYẾT CỦA
NGOẠI ĐẠO SO SÁNH TRONG KINH TRUNG BỘ
VÀ KINH TRUNG A HÀM

Tiểu luận học kỳ III : Môn Kinh Trung Bộ
Người hướng dẫn khoa học: TT.TS. Thích Giác Hồng

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC
VIỆN
PHẬT
GIÁOVIỆT
VIỆT NAM
NAM TẠI
CHÍCHÍ
MINH
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO
TẠITP.HỒ
TP. HỒ


MINH

-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ: LÊ VĂN CAN
PHÁP DANH: TRÍ CƯỜNG
LỚP ĐTTX: KHÓA VI
MSSV: TX 6031

BÀI TIỂU LUẬN
CUỘC SỐNG QUAN ĐIỂM TRIẾT THUYẾT CỦA NGOẠI ĐẠO SO
SÁNH TRONG KINH TRUNG BỘ VÀ KINH TRUNG A HÀM

Tiểu luận học kỳ III : Mơn Kinh Trung Bộ

Người hướng dẫn khoa học: TT.TS. Thích Giác Hồng

TP.Hồ Chí Minh , Năm 2020.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Phạm vi đề tài.............................................................................................................1
3. Cơ sở dữ liệu..............................................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................1
5. Bố cục tiểu luận.........................................................................................................1
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : Giới thiệu về kinh trung bộ.................………………………………………..2
1.1.Nghiên cứu về kinh trung bộ...............................................................................................2

1.2.Nội dung người nghe,người giảng,địa điểm giảng kinh......................................................2
1.2.1.Nội dung ......……………………………………………………………………………3
1.1.2. Đối tượng nghe …………………………………………………………………….......3
1.1.3. Người giảng………………………………………………………………….................3
1.1.4. Địa điểm giảng................................................................................................................3
CHƯƠNG 2: Nhân sinh quan,thế giới quan phật giáo trong kinh trung bộ..............................3
2.1. Quan điểm về nguồn gốc con người...................................................................................3
2.1.1. Giáo lý duyên khởi……………………………………………………………...............3
2.1.2. Ngũ uẩn……………………………………………………............................................4
2.2. Quan điểm về sự giải thoát ................................................................................................4
2.2.1.Thiền định và thiền qn..................................................................................................4
2.2.2.Tiến trình giải thốt..........................................................................................................4
CHƯƠNG 3:So sánh kinh có nội dung đến cuộc sống quan điểm triết thuyết của ngoại đạo
3.1.1.Quan điểm về thế giới quan.............................................................................................5
3.1.2. Quan điểm về nghiệp báo............................................................................................6-12
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................12


A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Phật giáo là một trào lưu tư tưởng lớn ở ẤN ĐỘ cổ đại .Ra đời vào thế kỷ thứ VI trước công
nguyên, phật giáo đã nhanh chóng phổ biến và ảnh hưởng xâu sắc tới xã hội ẤN ĐỘ cổ đại
lúc bấy giờ.Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử phật giáo trở thành tôn giáo thế
giới và đã đang ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc trên thế
giới.Với mục đích nhằm giải phóng cón người ra khỏi mọi nỗi khổ niền đau bằng chính lối
sống đạo đức của con người,phật giáo đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và lịng tin của
đơng đảo tầng lớp lao động .Nó trở thành biểu tượng của lòng từ bi,bác ái trong đạo đức
truyền thống của các dân tộc châu Á.Trong sự phát triển của mình,lịch sử tư tưởng của triết
học phật giáo luôn diễn ra các cuộc đấu tranh,tranh luận quyết liệt giữa thế giới quan duy vật

vô thần với chủ nghĩa duy tâm ,tôn giáo,giữa tinh thần lạc quan với thái độ bi quán yếm
thế,giữa những quan điểm mang tính chất nhất nguyên với tính chất đa nguyên...
Xuất phát từ thực tế đó, học viên chọn đề tài “So sánh cuộc sống ,quan điểm,triết thuyết
của ngoại đạo trong kinh Trung Bộ và Kinh Trung A Hàm ” làm đề tài tiểu luận.
2.Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu, tiểu luận khái quát một cách hệ thống những nội dung cơ bản của
kinh Trung Bộ, nêu ra vấn đề chính liên quan tới đề tài trong kinh Trung Bộ và so sánh với
Kinh Trung A Hàm ,từ đó học viên rút ra nhận định và ứng dụng với đời sống ,nhận thức của
học viên.
Với mục tiêu đặt ra, tiểu luận có những nhiệm vụ sau: phân tích, khái quát những nội dung về
quan điểm,triết thuyết của ngoại đạo của Phật giáo trong kinh Trung Bộ và kinh trung A
Hàm,từ đó nêu ra những giá trị lý luận, thực tiễn của nó đối với đời sống học viên.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cuộc sống, quan
điểm,triết thuyết của ngoại đạo trong kinh Trung Bộ và kinh Trung A Hàm, phân tích và
đánh giá những giá trị và ảnh hưởng của nó đối với các phương diện của đời sống tinh thần
người viết.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn tìm hiểu những tư tưởng nhân sinh quan ,quan
điểm,triết thuyết của ngoại đạo trong kinh Trung Bộ qua văn bản đã được dịch sang tiếng
Việt của hịa thượng Thích Minh Châu (Đại tạng kinh Việt Nam – Kinh Trung Bộ, ba tập,
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành,1992), đồng thời, tham khảo một số tác phẩm
nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa, triết học Việt Nam và phương Đơng nói chung qua đó so
sánh với những bản kinh tương đương với kinh trung A Hàm để làm sáng tỏ vấn đề.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng các phương pháp: phân tích, đối chiếu, so sánh.
5.Bố cục của đề tài:
Tiểu luận bao gồm phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phần
Nội dung với 3 chương, 9 tiết.
1


B. NỘI DUNG


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ KINH TRUNG BỘ VÀ KINH TRUNG A HÀM
1.1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHIÊN DỊCH, PHỔ BIẾN KINH TRUNG BỘ VÀ
KINH TRUNG A HÀM TẠI VIỆT NAM:

1.1.1. Lịch sử hình thành kinh Trung Bộ và kinh Trung A Hàm:
Sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm, giáo đoàn thống nhất của Phật giáo Nguyên Thủy
chia thành Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ. Sau đó lại chia thành 20 bộ phái Tiểu thừa, mỗi
bộ phái đều có Kinh Tạng truyền thừa riêng biệt. Theo những tư liệu hiện cịn thì lúc ấy ít
nhất cũng còn tồn tại những kinh điển do Thượng Tọa Bộ (ở phương Nam), Hữu Bộ, Hóa Địa
Bộ, Pháp Tạng Bộ, Đại Chúng Bộ, Ẩm Quang Bộ và Kinh Lượng Bộ truyền. Nhưng đến nay,
chỉ có kinh điển của Thượng Tọa Bộ ở phương Nam là hoàn toàn được bảo tồn, gồm có 5 bộ :
Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng-chi Bộ, Tiểu Bộ (tức Khuất-đà-ca A-hàm) chép
bằng văn Pàli. Đây là 5 bộ A-hàm Nam truyền.Về mặt Bắc truyền, do gom góp các kinh điển
rời rạc riêng lẻ của các bộ phái mà tạo thành bốn bộ A-hàm : Trường A-hàm, Trung A-hàm,
Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm. Bốn bộ kinh này được ghi bằng Phạn văn. Đây là bốn bộ
A-hàm Bắc truyền. Trong đó Trường Bộ, Trung Bộ của Nam truyền tương đương với Trường
A-hàm của Bắc truyền; còn Tương Ưng Bộ tương đương với Tạp A-hàm, Tăng-chi Bộ tương
đương với Tăng Nhất A-hàm.Năm bộ Nam truyền được ghi bằng văn Pàli, gần với ngôn ngữ
thường dùng ở thời Phật, cho nên các học giả thường cho rằng Nam truyền giàu sắc thái
nguyên thủy hơn Bắc truyền.
Về Tam tạng kinh điển: Tam tạng kinh điển (Nguyên thủy) là tồn bộ những lời dạy của đức
Phật nói ra trong 45 năm, từ sau khi thành đạo cho đến khi Niết-bàn, cùng với đó là những
bài giảng do các đệ tử giảng giải và được Phật xác chứng, bao gồm: tạng Kinh, tạng Luật và
tạng Luận. Tam tạng kinh điển có ba phiên bản được chấp nhận bởi ba trường phái Phật Giáo
và hiện hành đến ngày nay:
Tam tạng kinh điển bằng tiếng Pàli của trường phái Phật giáo nguyên thủy.

Đại Tam tạng kinh điển bằng chữ Hán của trường phái Phật giáo đại thừa, vốn là bản
dịch từ kinh điển tiếng Phạn.
Tam tạng kinh điển Tây Tạng (ngôn ngữ Tây Tạng), gồm bản dịch từ kinh điển tiếng
Phạn và bốn bộ kinh Mật thừa Tây Tạng.
-Về bộ kinh Trung bộ: Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya) là bộ kinh thứ hai trong năm bộ
kinh của Kinh tạng Nikaya trong văn hệ Pàli: Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng
Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh và Tiểu Bộ Kinh.
-Kinh Trung Bộ là những pháp thoại mà phần lớn được đức Phật trực tiếp truyền dạy cho tăng
ni trong sinh hoạt hàng ngày của Ngài. Vì thời lượng vừa phải, nên những bài kinh trong kinh
Trung Bộ chuyên chở những đề tài như những bài tiểu luận rất phong phú và sâu sắc. Kinh
Trung Bộ gồm có 152 kinh, được chia làm ba tập, mỗi tập 50 kinh, riêng tập thứ ba gồm 52
kinh.Kinh Trung Bộ cũng như các bộ kinh nêu trên đều là những bộ kinh sơ khai và chính
thống nhất trong hệ thống kinh điển của Phật giáo được kết tập. Đây là nguồn tư liệu quý báu
và đáng tin cậy để chúng ta tìm hiểu lịch sử, đời sống sinh hoạt, cũng như những giáo lý, tư
tưởng của đức Phật và tăng đoàn.
-Kinh Trung A hàm là một trong 4 bô kinh thuộc hệ A hàm của Phật giáo Bắc truyền. Bản
kinh này được Ngài Phật Đà Da Xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm dịch sang Hán văn,
Thích Tuệ Sỹ dịch sang Việt văn, được phân thành 18 phẩm, tổng cộng có 222 kinh.
2
Theo một số học giả cho rằng bản “Trung A hàm” và “Kinh Tạp A hàm” là bản kinh của phái
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvàstvàdin). trong 4 bộ A hàm, “Kinh Trung A hàm” là bộ kinh


quan trọng nhất, vì nội dung của từng bài kinh trong Trung A Hàm không quá giản lược như
các bài kinh trong “Tạp A hàm” cũng không quá dài như kinh “Trường A hàm”, và cũng là
bản kinh thể hiện quan điểm khá rõ ràng của đức Phật, và là bản kinh ghi lại toàn bộ những
quan điểm tư tưởng đã được đức Phật (và) cùng các đại đệ tử của Ngài thuyết giảng cho mọi
thành phần trong xã hội, chủ yếu là người xuất gia, với những bài pháp có nội dung thật sâu
sắc, mang tính thực tiễn và khoa học, ngược lại những quan điểm truyền thống và phi truyền
thống ở Ấn độ lúc bấy giờ.

1.1.2. Quá trình phiên dịch và phổ biến kinh Trung Bộ và kinh Trung A Hàm tại Việt Nam:
-Kinh Trung Bộ được hòa thượng Thích Minh Châu (1918 – 2012) khởi sự nghiên cứu và
chuyển ngữ vào năm 1952, in lần đầu tiên năm 1973, gồm ba tập, tái bản vào năm 1986, và
được đưa vào Đại tạng kinh Việt Nam năm 1992. Bộ mới nhất được Viện nghiên cứu Phật
học Việt Nam cho tái bản năm 2012, in thành hai tập. Hiện nay, kinh Trung Bộ được phổ biến
giảng dạy trong hầu hết các trường Phật học tại Việt Nam.
-Từ nguồn Kinh tạng bằng Việt ngữ cho thấy, trước năm 1975, 4 bộ A hàm đã được Hoà
thượng Thiện Siêu, Thanh Từ, và các Tăng sinh của hai viện Hải Đức Nha Trang và Huê
Nghiêm Sài gòn đã dịch sang Việt ngữ, nhưng khơng biết vì lý do gì những bản kinh này vẫn
chưa xuất bản vào thời đó, chỉ lưu truyền với nhau bằng bản quây Roneo.
1.2.KHÁI QUÁT NỘI DUNG KINH TRUNG BỘ ,KINH TRUNG A HÀM VÀ VỊ TRÍ
KINH TRUNG BỘ ,KINH TRUNG A HÀM TRONG HỆ THỐNG KINH ĐIỂN PHẬT
GIÁO:
1.2.1. Khái quát nội dung kinh Trung Bộ và kinh Trung A Hàm:
-Kinh Trung Bộ bao gồm 152 kinh, được chia thành ba tập:Kinh Trung Bộ, tập I, (từ kinh số1
đến kinh số50): Trong tập này, bao gồm 50 bài kinh với những chủ đề khác nhau. Qua đó,
đức Phật giới thiệu những nội dung cơ bản nhất của giáo lý Phật giáo: duyên khởi, vô thường,
vô ngã, nghiệp báo, luân hồi, tứ diệu đế. Nói chung, con đường nhận thức, tu tập của Phật
giáo đã được giới thiệu đầy đủ.Kinh Trung Bộ, tập II, gồm 50 kinh, kiết tập năm phần dựa
theo các đối tượng nghe pháp: đối tượng là gia chủ, tỷ kheo, vua chúa hoàng tộc, các du sĩ
ngoại đạo và các Bà-la-mơn. Tùy vào lợi ích giải thoát của từng đối tượng mà đức Phật dạy
pháp thích ứng.Kinh Trung Bộ tập III, gồm 52 bài: tiếp tục giới thiệu và làm sáng tỏ thêm
những nội dung giáo lý cơ bản: vô thường, vô ngã, duyên sinh, nghiệp, ngũ uẩn, bát chánh
đạo, giải thoát; giới thiệu những pháp tu tập thiền quán, những pháp tu tập nhằm nhận thức rõ
về sự thật cuộc đời, con người, hạnh phúc, khổ đau và hướng đến sự giải thốt. Ngồi ra,
trong tập III này, một số nét về giáo lý ngoại đạo, được thể hiện khá rõ; những mối quan hệ
giữa giáo hội của Phật và các giáo hội ngoại đạo, cả hai bên đều có chủ động trao đổi.
- Kinh Trung A-hàm, 60 quyển, do Sa-môn người nước Kế Tân là Tăng-già-đề-bà và Tănggià-la-xoa dịch vào đời Đông Tấn, niên hiệu Long An thứ 2 (398). Kinh này là một bộ trong
bốn Kinh A-hàm của Phật giáo Bắc truyền. Vì kinh này tập hợp các kinh khơng dài khơng
ngắn, ở dạng trung bình nên được đặt tên là Trung A-hàm (Xem DI-SA-TẮC NGŨ PHẦN

LUẬT 30, LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC, quyển thượng). Bản Hán dịch đầu tiên của
kinh này do ngài Đàm-ma-nan-đề thực hiện vào đời Phù Tần, niên hiệu Kiến Nguyên thứ 20
(384), gồm 59 quyển (hiện nay đã thất lạc, chỉ cịn một ít bản lẻ). Vì bản dịch này chưa phù
hợp với nguyên ý, nên hơn 10 năm sau, ngài Tăng-già-đề-bà dịch lại. Nội dung của bản dịch
kinh này gồm 5 tụng, 18 phẩm, 222 kinh, khoảng 514.825 chữ (Xem bài tựa của Đạo
Từ trong XUẤT TAM TẠNG KÝ TẬP quyển 9).
1.2.2. Vị trí kinh Trung Bộ,kinh Trung A Hàm trong hệ thống kinh điển Phật giáo:
-Kinh Trung Bộ chứa đựng những lời dạy trực tiếp của đức Phật, được kết tập một cách chu
đáo, khoa học và lưu truyền rất sớm trong hệ thống kinh điển đồ sộ của Phật giáo.
3
Từ những yếu tố đó, bộ kinh luôn giữ nguyên giá trị nguyên thủy của nó.


Kinh Trung Bộ có một vị trí vơ cùng quan trọng và được coi như là nền tảng, là kim chỉ nam
cho toàn bộ hệ thống kinh điển phát triển sau này của Phật giáo.
Cho đến nay, kinh Trung Bộ vẫn nguyên là nguồn tài liệu quý báu cho các đệ tử Phật, cũng
như giới học giả học khi nghiên cứu về Phật giáo nói chung.
-Trong 4 bộ A hàm, “Kinh Trung A hàm” là bộ kinh quan trọng nhất, vì nội dung của từng bài
kinh trong Trung A Hàm không quá giản lược như các bài kinh trong “Tạp A hàm” cũng
không quá dài như kinh “Trường A hàm”, và cũng là bản kinh thể hiện quan điểm khá rõ ràng
của đức Phật, và là bản kinh ghi lại toàn bộ những quan điểm tư tưởng đã được đức Phật (và)
cùng các đại đệ tử của Ngài thuyết giảng cho mọi thành phần trong xã hội, chủ yếu là người
xuất gia, với những bài pháp có nội dung thật sâu sắc, mang tính thực tiễn và khoa học,
ngược lại những quan điểm truyền thống và phi truyền thống ở Ấn độ lúc bấy giờ.
CHƯƠNG 2
KHÁI NIỆM VỀ CUỘC SỐNG QUAN ĐIỂM TRIẾT THUYẾT NGOẠI ĐẠO
TRONG PHẬT GIÁO
2.1.CUỘC SỐNG :

Nếu ai hỏi chúng ta cuộc sống của bạn là gì nhỉ ?chúng ta có thể hiểu:

+ Phải chăng cuộc sống là những khoảng không gian vô tận của những nỗi buồn và sự thất
vọng đan xen sau những ảo tưởng giản đơn và lãng mạn? Là những đêm không ngủ nằm
nghe một bản nhạc trữ tình và thao thức cho đến khi có trời sáng ? Phải chăng là những sự
day dứt khơng ngi vì mình đã làm hỏng một điều gì đó, đã đánh mất một cái gì đó trên con
đường ta đã đi qua và sự dè dặt khi nhìn về con đường phía trước ta sẽ bước tới? Cuộc sống
khơng có điểm dừng lại. Nó là một con đường dài và luôn bị chồng chéo bởi vô số những con
đường khác, là một vòng quay bất tận của những niềm vui ít ỏi và nỗi buồn dài lâu mà chỉ có
cái chết mới là sự kết thúc?
+ Khơng ai có thể định nghĩa được cuộc sống khi chưa thực sự sống, yêu cuộc sống, đam mê
sống và sẵn sàng chấp nhận mọi điều có thể xảy ra.
+ Andrey Bolconsky ("Chiến tranh và Hồ bình") khi đi qua cây sồi già. Lúc ấy, chàng vừa
nghe tiếng hát và giọng nói trong trẻo của Natasha trong một đêm trăng. Andrey lúc đó đã
mất vợ, ảo tưởng và danh vọng tan vỡ sau khi bị thương trong trận Austerlitz, đang bế tắc
trong cuộc sống. Chàng bỗng cảm thấy mình như sống lại. Đi qua cây sồi mà mấy ngày trước
còn đen đủi, khẳng khiu và xác xơ dù đó đã là mùa xuân, chàng chợt nhận ra cây sồi đã tốt
tươi trở lại, như tâm hồn chàng được thắp sáng bởi nụ cười của một thiếu nữ. Chàng nghĩ:
"Không, cuộc đời không thể dừng lại ở tuổi 31. Hãy làm sao để mọi người biết ta, làm sao để
cuộc sống của ta phản ánh lên mọi người, làm sao để mọi người sống cùng ta".
-Vậy thì quan điểm về cuộc sống trong đạo phật là gì chúng ta có thể hiểu: Con người là một
hợp chất do 4 yếu tố: Đất, nước, gió lửa hợp lại mà thành hình và chỉ tồn tại trong khoảng
thời gian hữu hạn, rồi các yếu tố vật chất kia đều tan rã trở về nguyên trạng thái cũ, còn phần
thần thức đi đầu thai làm kiếp khác do một nghiệp lực dẫn dắt đến cảnh giới an vui hay khổ
đau. Cuộc sống xuất gia phóng khống như hư khơng, thong dong tự tại như những cánh
chim bay vút trên trời cao đang tìm về những bến bờ của chân hạnh phúc. Ca ngợi về cơng
hạnh của người xuất gia, đức Điều Ngự Giác Hồng có lời kệ:
“Phù thế gian tối quý giả
Bất như xả tục xuất gia
Nhược đắc vi tăng,
4
Tiện thọ nhân thiên cúng dường



Tác Như Lai chi sứ giả
Dữ Hiền Thánh chi tôn thân”.
Tạm dịch:
“Thế gian, cao quý hơn người
Sao bằng xả tục, sống đời xuất gia
Làm Tăng, sứ giả Phật Đà
Trời người cung dưỡng, Thánh là tơn thân”.
Xuất gia (Nekkhamma) có nghĩa là khước từ những điều mơ ước của thế gian để chọn lấy đời
sống tu sĩ, cũng có nghĩa là tạm thời vượt qua khỏi các pháp ngăn che tới Niết Bàn bằng cách
thực nghiệm con đường Giới-Định-Tuệ. Kinh tạng Nikàya thường mơ tả: Xuất gia là cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà sa, từ bỏ gia đình sống khơng gia đình, sống trong pháp và luật của đức Thế
Tơn. Đời sống xuất gia còn được gọi là đời sống phạm hạnh. Phạm hạnh ở đây chỉ cho sự cố
gắng liên tục để hướng đến sự thanh tịnh tối thượng, sự đoạn tận mọi thứ bất tịnh nhiễm ô, sự
chế phục đối với nhũng nhu cầu khát vọng của cuộc sống thế tục…
-Nói đến sinh hoạt của người xuất gia, đầu tiên chúng ta phải liên tưởng ngay đến giới luật.
Bởi vì: “Giới luật là thọ mạng của Phật Pháp; giới luật cịn, Phật Pháp cịn”. Thiếu giới luật,
tăng đồn khó mong được hịa hợp thanh tịnh. Đồn thể xuất gia đều phải tuân thủ theo giới
luật, tôn trọng giới luật như bậc Đại Đạo Sư (theo lời Phật Di giáo). Tuy nhiên, vì trong khi
hành trì có sự bất đồng ý kiến, các tơng phái lần lượt hình thành: lại tuỳ theo phong tục quốc
độ nên các văn bản về giới luật có phần sai khác hoặc chênh lệch về số lượng.Đã thọ giới rồi
thì phải nương theo các giới điều trong giới bổn mà hành trì, lấy đó làm mực thước trong sinh
hoạt hằng ngày, dè dặt chẳng để trái phạm. Riêng đối với “Lục hòa kỉnh pháp”, người nào trái
phạm bị xem như phá hòa hợp tăng, nếu nặng có thể bị tẩn xuất.
-Về sinh hoạt cá nhân, mỗi người tự tạo cho mình một nếp sống thiểu dục tri túc, không
mong cầu, không chất chứa, không chú trọng vào vật chất, chỉ lấy sự thanh đạm làm mãn
nguyện “an bần thủ đạo”.
2.2.QUAN ĐIỂM :
quan điểm theo từ điển tiếng Việt:

+Điểm xuất phát quy định phương hướng suy nghĩ, cách xem xét và hiểu các hiện tượng, các
vấn đề. Quan điểm giai cấp. Quan điểm luyến ái. Có quan điểm đúng đắn.
+Cách nhìn, cách suy nghĩ; ý kiến. Trình bày quan điểm về vấn đề nêu ra.
Quan điểm trong phật giáo chúng ta có thể hiểu như sau: Quan điểm phủ nhận về một đấng
toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pàli cũng như kinh tạng
Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng
thế được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không
phù hợp với giáo lý của Đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải
quyết những nỗi khổ niềm đau đang hiện hữu.Trong văn học Phật giáo, qua giáo lý Vơ ngã,
khơng có một thực thể cố định thì hẳn nhiên niềm tin vào một vị thần sáng tạo luôn luôn bị
phản bác và từ chối, bởi vì Phật giáo là sự phủ định về sự vĩnh hằng và bất biến trong việc
giải thích nguồn gốc của thế giới như vũ trụ, linh hồn, thời gian vv… Niềm tin về một đấng
sáng thế được đặt trong cùng thể loại như những quan điểm sai lầm về mặt đạo đức, đặt thân
phận con người dưới sự an bài của đấng vơ hình như là định mệnh tuyệt đối và không thể
thay đổi, dẫn đến sự nguy hại lâu dài cho nền móng xã hội do tác động đến những giá trị nhân
bản của đạo đức.
2.3.TRIẾT THUYẾT :
Triết
Từ điển phổ thơng
1. khơn, trí tuệ
5
2. triết học


Từ điển Thiều Chửu
Thuyết
Từ điển phổ thơng
nói, giảng
-Phật giáo, xét một cách nghiêm túc, không phải là một hệ thống triết học. Tuy nhiên, khi
nghiên cứu, các nhà triết học vẫn có thể tìm thấy những quan điểm, học thuyết thể hiện tính

triết học ở Phật giáo Dưới đây là một số các quan điểm, học thuyết tuyệt vời trong hệ thống
giáo lý của đạo Phật.
+Học thuyết vô thường:
Vô thường là đặc tính phổ quát của tất cả các sự vật, hiện tượng thuộc các pháp hữu vi. Trong
kinh điển của Phật giáo Ngun thủy, khi nói về vơ thường, đức Phật thường nhấn mạnh ở cả
hai phương diện thân và tâm. Nói cách khác, theo đức Phật ngũ uẩn là vô thường. Sắc vô
thường. thọ, tưởng, hành, thức cũng vơ thường. Vì vơ thường nên chúng có khổ đau. Đó là
một trong những điểm giáo lý quan trọng của đạo Phật.Ở đây, có một điểm cần chú ý, vơ
thường trong Phật giáo không chỉ là lý thuyết mà quan trọng hơn là một pháp hành, pháp
quán chiếu.Vô thường phải được quán chiếu một cách sâu sắc để chúng ta khơng cịn bị lệ
thuộc, chấp mắc q nhiều về các đối tượng thuộc tâm thức hay ngoại cảnh bên ngoài. Nếu
khơng được qn chiếu sâu sắc thì vơ thường chỉ là tri thức thuần túy, là ý niệm của chúng ta
về nó, do đó khơng có khả năng đưa ta tới một đời sống an lạc, hạnh phúc thực sự. Và đó
khơng phải là mục tiêu của đạo Phật hướng tới.
+Học thuyết vô ngã:
Vô ngã là một phương diện khác của vơ thường. Vơ ngã có nghĩa là khơng có một cái “ngã”
trường tồn, bất biến nằm trong hay phía sau sự vật, hiện tượng. Các pháp luôn luôn tồn tại
trong trạng thái phụ thuộc, tương quan với nhau. Không có pháp nào tồn tại một cách độc lập.
Vào thời kỳ đức Phật cịn tại thế, Bà-la-mơn giáo hầu như là quốc giáo, chủ trương rằng con
người có một bản ngã hay cái “ta”. Cái “ta” đó có thể tồn tại tách biệt với thể xác của con
người và có thể trải quan nhiều đời sống khác nhau cho đến khi hoàn toàn trong sạch và cuối
cùng trở thành đồng nhất với Thượng đế.Trong khi đó, đức Phật dạy rằng, con người thực
chất chỉ là sự kết hợp của các yếu tố tâm và vật gọi là Ngũ uẩn, bao gồm: sắc, thọ, tưởng,
hành và thức uẩn. Và bản thân các yếu tố ấy cũng tùy thuộc vào nhau để tồn tại. Khơng có cái
“ta” nào ở ngồi sự kết hợp ấy.Do đó, mọi ý tưởng về ngã đều sai lầm, đưa tới thái độ vọng
chấp “ta” và “của ta”, vốn dễ dàng đưa tới thái độ sống tiêu cực, ích kỷ, thù hận, kiêu căng,
xấu xa, bất thiện. trong kinh Vơ Ngã Tướng Đức Phật nói:
“Này các Tỳ kheo, bằng trí tuệ thấy rõ ngũ uẩn này khơng phải của ta, không phải là ta, chẳng
phải tự ngã của ta – chư bậc thánh Thanh văn nhàm chán trong sắc uẩn, nhàm chán trong thọ
uẩn, nhàm chán trong tưởng uẩn, nhàm chán trong hành uẩn, nhàm chán trong thức uẩn. Khi

nhàm chán như vậy tâm khơng cịn tham ái. Do khơng tham ái nên được giải thốt”.
+ Học thuyết Nhân quả – nghiệp báo:
Nhân quả – nghiệp báo là một học thuyết quan trọng trong đạo Phật. Theo đức Phật nghiệp
là những hành động, việc làm có tác ý, chủ ý. Chính tác ý, chủ ý đó đóng vai trị chủ đạo,
quyết định hành động và tính chất của nghiệp. Những hành động khơng có tác ý khơng tạo
nên nghiệp. Nghiệp thể hiện qua hành vi, lời nói và tư tưởng. Mỗi hành động hay nghiệp như
vậy đều đưa tới kết quả của nó, tức là quả báo của nghiệp. Hành động ác đưa tới quả báo ác;
hành động thiện đưa tới quả báo tốt.Mỗi hành động hay nghiệp như vậy đều đưa tới kết quả
của nó, tức là quả báo của nghiệp. Do đó, là Phật tử, khi đã tìm hiểu sâu sắc về lý thuyết nhân
quả nghiệp báo, ta khơng cịn có thái độ thụ động chờ đợi kết quả của nghiệp như một tất yếu
phải diễn ra nữa mà ln ln nỗ lực chuyển hóa nghiệp, thanh lọc thân tâm, khiến cho quả
báo của nghiệp không đủ để tác động, chi phối đời sống, chi phối tâm thức, khiến cho ta bất
an, khổ đau nữa.
6
+ Học thuyết Duyên khởi:


Duyên khởi là học thuyết cốt tủy của đạo Phật, thuyết minh về sự liên hệ hỗ trợ giữa các sự
vật, hiện tượng hay các pháp. Nói cách khác, học thuyết duyên khởi cho rằng, đời sống hay
thế giới này tạo thành là do một chuỗi tương quan liên hệ, trong đó sự sanh khởi và hoại diệt
của các yếu tố tùy thuộc một số yếu tố khác làm điều kiện cho chúng. Kinh điển Phật giáo
diễn tả khái quát nội dung này bằng đoạn kinh sau:
“Do cái này có mặt, cái kia có mặt
Do cái này khơng có mặt, cái kia khơng có mặt
Do cái này sinh, cái kia sinh
Do cái này diệt, cái kia diệt”.
Điều này rất quan trọng đối với quá trình tu học của chúng ta. Nó cho thấy con người do vơ
minh, khát ái nên chìm đắm vào đời sống khổ đau; nhưng đồng thời nó cũng cho thấy bằng trí
tuệ, con người hồn tồn có khả năng đoạn diệt tham ái, cắt đứt, vượt thoát khổ đau, thiết lập
đời sống an lạc, hạnh phúc cho chính bản thân mình và mọi người xung quanh.

2.4. Ngoại đạo:
-Danh từ ngoại đạo có nghĩa:tơn giáo khác, trong quan hệ với tơn giáo được nói đến.
-Ngoại đạo chúng ta có thể hiểu theo quan điểm trong phật giáo:Trước và ngay thời điểm
Đức Phật ra đời, lúc đó Ấn Độ có 2 trường phái tơn giáo chính, trường phái triết học chính
thơng tiêu biểu là Bà La Mơn giáo và trướng phái triết học phi chính thống tiêu biểu là phật
giáo.Trướng phái triết học chính thống có 6 trường phái đều đề cao vai trò của Thượng Đế,
chấp nhận vệc phân chia đẳng cấp của xã hội.Khơng đồng tình các quan điểm mà 6 trường
phái triết học chính thống đã chủ trương các trường phái phi chính thống phủ nhận đấng tối
cao thần linh,điều không thừa nhận việc phân chia các đẳng cấp xã hội,cũng phủ nhận học
thuyết khi chết con người trở về với đấng sáng tạo thần linh.
- Trường phái đạo Phật đề cao trách nhiệm đạo đức (tại gia và xuất gia) và vai trị trí tuệ là
chiếc chìa khóa tháo mở tất cà nổi khỗ niềm đau kiếp người.
- Vì đề cao trí tuệ đạo Phật không chấp nhận khuynh hướng của Bà La Môn là rửa nghiệp,
rửa tội bằng cách trầm mình xuống sơng Hằng. Trong kinh trung bộ bài kinh ví dụ tấm vải:
Tín ngưỡng rữa tội bằng cách dìm mình xuống các sơng thiêng như Bahuka, Sundarika,
Bahumatì, Ganga, Sarassatì là khơng có tác dụng.
CHƯƠNG 3
SO SÁNH KINH CÓ NỘI DUNG LIÊN HỆ ĐẾN CUỘC SỐNG, QUAN ĐIỂM,
TRIẾT THUYẾT CỦA NGOẠI ĐẠO
3.1.Các vấn đề thế sự ngoại đạo thường bàn luận bị Phật quở trách và lối sống cực đoan
3.1.1. Các vấn đề thế sự:
Kinh Sakuludayi (77) phản ánh cách sống và nội dung các du sĩ ngoại đạo thảo luận : “Lúc
bấy giờ du sĩ Sakuludayi đang ngồi cùng với đại chúng du sĩ, đang lớn tiếng, cao tiếng, to
tiếng, bàn luận nhiều vấn đề phù phiếm như vương luận, tặc luận, đại thần luận, binh luận,
bố úy luận, chiến đấu luận, thực luận, ẩm luận, y luận, sàng luận, hoa man luận, hương liệu
luận, thân tộc luận, xa thừa luận, thôn luận, trấn luận, thị luận, quốc độ luận, phụ nữ luận,
anh hùng luận, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người
đã chết, tạp thoại luận, thế giới luận, hải dương luận, hiện hữu, vô hiện hữu luận”.Bản tương
đương kinh trung a hàm kinh tiễn mao(207) phản ánh cách sống và nội dung các du sĩ ngoại
đạo thảo luận khác với bài kinh số 77 trong trung bộ kinh: Tại rừng Khổng tước, trong vườn

Dị học, bấy giờ có một người Dị học tên là Tiễn Mao là một vị danh đức, là bậc Tơng chủ,
được nhiều người tơn làm Thầy, có tiếng tăm lớn, nhiều người kính trọng ơng đang ở giữa
7


đám đông ồn ào, lớn tiếng, âm thanh huyên náo, luận bàn đủ mọi đề tài súc sanh, như: bàn
chuyện vua chúa, bàn chuyện trộm cướp, bàn chuyện đấu tranh, bàn chuyện ăn uống, bàn
chuyện áo chăn, bàn chuyện phụ nữ, bàn chuyện đàn bà, bàn chuyện con gái, bàn chuyện
dâm nữ, bàn chuyện thế gian, bàn chuyện tà đạo, bàn chuyện trong biển; đại loại như thế,
chúng tụ tập luận bàn đủ mọi đề tài súc sanh”
3.1.2. Cho rằng đức phật chủ trương thuyết đoạn diệt:
.Kinh Màgandiya số 75 trong trung bộ kinh tại nhà thờ lửa của Bà-la-môn Bharadvàja, du sĩ
Màgandiya yết kiến Thế Tơn và nói với Bà-la-môn Bharadvàja rằng:"Tôn giả Gotama là vị
phá hoại sự sống" - do vì Thế Tơn chủ trương đoạn trừ tham dục sinh khởi từ mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý.Thế Tơn với thiên nhĩ nghe được điều đó và hỏi Màgandiya rằng:" Một người
hộ trì mắt, tai... như thế, đoạn trừ khát ái, nội tâm được an tịnh, ông nghĩ gì về người nầy."
- Màgandiya đáp;" Khơng có gì, tơn giả Gotama ". Cùng với quan điểm trên bài kinh man
nhàn đề số 153 trong trung a hàm cho rằng:vì sao?vì sao là kẻ phá hoại.Kẻ phá hoại vơ dụng.
Rồi Thế Tơn tiếp phân tích cho Màgandiya thấy rõ dục vọng ở đời là thấp kém, nguy hiểm,
đang nhai nghiến, thiêu đốt con người, những gì mà Thế Tơn lúc cịn là Thái tử đã có đầy đủ
và đã từ bỏ để xuất gia được sống trong lạc giải thoát. Thế Tôn dạy:
" Không bệnh, lợi tối thắng,
Niết bàn, lạc tối thắng,
Bát chánh là độc đạo,
An ổn là bất tử."
3.2.Một số quan điểm chấp trì của ngoại đạo:
3.2.1.Thuyết minh về nghiệp báo:
-A hàm (àgama) là kinh tạng Bắc truyền, bao gồm: (1) Trường A hàm, (2) Trung a hàm, (3)
Tạp A hàm, (4) Tăng nhứt A hàm, ngồi ra cịn có (5) Tạp tạng, tương đương với Nam truyền
Pàli tạng (1) Trường Bộ kinh, (2) Trung Bộ kinh, (3) Tương Ưng Bộ kinh, (4) Tăng Chi Bộ

kinh, (5) Tiểu Bộ kinh là 5 bộ kinh của phái Ðồng Diệp bộ (Tàmra-sàtìya). Phần lớn giới học
thuật cho rằng, kinh tạng A hàm và Nikàya là kinh tạng được kết tập thành văn tự vào thời đại
vua A Dục, tức vào khoảng hơn 100 năm sau khi đức Phật nhập diệt, là những bài kinh được
kết tập thành văn tự sớm nhất trong thánh điển Phật giáo. Ðây là nguồn tư liệu đáng được tin
cậy để chúng ta tìm hiểu tư tưởng, lịch sử cũng như đời sống sinh hoạt của đức Phật và tăng
đoàn của đạo Phật nguyên thủy. Trong bài viết về Nghiệp này, học viên căn cứ hai kinh
“Kinh tiểu nghiệp phân biệt ” (Cula kamma vibhanga suttam)[1] số 135 và “Kinh đại nghiệp
phân biệt” (Maha kamma vibhanga suttam)[2] số 136 trong “Trung Bộ kinh” (Majjhima
Nikàya). Hai bài kinh này tương đồng với trong Hán tạng là “Kinh Oanh vũ”[3] số 170 và “
Kinh Phân biệt đại nghiệp”[4] số 171trong “Kinh Trung A hàm”. Theo một số học giả cho
rằng. kinh Trung Bộ (Pàli tạng) thuộc về bộ phái Ðồng diệp bộ (Tàmra-sàtìya) , kinh Trung A
hàm (Hán tạng) thuộc về bộ phái Thuyết nhứt thiết hữu bộ(Sarvastivada). Tuy nguồn gốc
xuất phát của hai văn bản từ hai bộ phái khác nhau, nhưng xét về nội dung gần như giống
nhau tồn bộ, chỉ có “kinh Oanh vũ” so với “ Kinh tiểu nghiệp phân biệt” thì có khác nhau
đơi chút. “kinh Oanh vũ” của bản Hán thêm câu chuyện về tiền thân con chó trắng là cha của
Oanh vũ ma nạp đề tử, còn “Kinh tiểu nghiệp phân biệt” của bản Pàli thì khơng có đoạn này,
phần cịn lại hồn tồn giống nhau. Sự khác biệt này khơng làm thay đổi nội dung chính của
kinh, có lẽ bản Hán thêm phần này chỉ vì mục đích cường điệu hóa vấn đề nhân quả, nhằm
mục đích tăng lịng tin cho hàng Phật tử tại gia mà thôi.
Qua hai kinh “Kinh tiểu nghiệp phân biệt” và ‘’Kinh đại nghiệp phân biệt” của Pàli tạng
hay “Kinh Oanh vũ” và “ Kinh Phân biệt đại nghiệp” của Hán tạng, học viên thấy hình thức
cấu trúc và nội dung của hai bài kinh này khơng giống với những kinh khác.Đối tượng mà
đức Phật nói hai bài kinh này cũng không giống nhau, đối tượng mà đức Phật nói “Kinh tiểu
nghiệp phân biệt” là thanh niên Subha todeyyaputta, là một cư sĩ tại gia; Còn đối tượng đức
Phật giảng dạy “Kinh đại nghiệp phân biệt” là tôn giả A nan (Ananda) và các vị Tỳ kheo, là
8


những người xuất gia, do vì đối tượng khơng giống nhau, cho nên nội dung mà đức Phật
trình bày vấn đề cũng khác nhau. Vì đối tượng là người Phật tử tại gia, mức độ am tường Phật

học không sâu, chỉ có nhu cầu tìm hiểu những hiện tượngï khác biệt trong cuộc sống, cho nên
đức Phật chỉ giải thích mối quan hệ nhân quả mang tính hình thức, là những hiện tượng mà
trong cuộc sống chúng ta thường gặp. Nhưng đối tượng mà đức Phật nói “Kinh đại nghiệp
phân biệt” là người xuất gia, là những người uyên thâm Phật học, cho nên đức Phật trình bày
những vấn đề mang tính triết học, và đặc biệt ngài chú trọng vai trị chánh kiến- trí tuệ. Ðó là
sự khác biệt của hai kinh, chúng ta cần lưu ý.
-KinhUpali (56) khẳng định quan điểm của đức Phật, không phải do hành hạ thân, khẩu, ý
mới tạo thành nghiệp hoặc đoạn nghiệp, mà phải do hành động, lời nói và ý niệm tạo nên
nghiệp. Trong 3 nhóm tạo nên hành vi, ngơn ngữ và ý niệm này, ý niệm là yếu tố quyết định
tạo nên nghiệp thiện hay ác, tốt hay xấu.Giống như kinh Upali trong trung bộ kinh bài kinh
Ưu bà ly trong kinh trung a hàm.
-Kinh Hạnh con chó (57) khẳng định nhân nào thì quả nấy. Nhân đen thì quả đen. Với nghiệp
hạnh con chó hoặc con bị thì chắc chắc quả dị thục sanh thú phải là con chó hoặc con bị.
Kinh trung a hàm khơng có bản kinh tương đương.
3.2.2.Nhóm quan điểm của ngoại đạo:
Kinh Khơng Gì Chuyển Hướng . Các Bà-la-môn của dân chúng Kosala ngưỡng mộ Thế Tôn
đến yết kiến Ngài. Thế Tôn giới thiệu về Pháp chắc thật cho các Bà-la-môn để y chỉ như bậc
đạo sư tin cậy của mình.Pháp chắc thật ấy là kết quả sự chọn lựa Pháp an toàn giữa các chủ
trương tương phản của các Bà-la-môn đương thời
* Một thuyết chủ trương khơng có quả báo của các nghiệp thiện, ác, bố thí, tế tự... dẫn đến ba
ác hành (thân, khẩu, ý) và tà kiến bị người trí đương thời chỉ trích.
* Một thuyết thì chủ trương ngược lại, dẫn đến ba thiện hành (thân, khẩu, ý) và được người
trí đương thời tán thán.- Dù có hay khơng có quả báo về kiếp sau, thì nếu sống theo thuyết
thứ nhất sẽ đưa đến bất lợi hai đằng:a) Nếu không có quả báo đời sau, thì bị các người trí chỉ
trích.Nếu có quả báo đời sau, thì sẽ bị thác sinh về ác thú, đọa xứ.
*Một thuyết cho rằng các hành động tự mình làm ác hay khiến người khác làm ác thì khơng
có tội ác gì. Thuyết này cũng sẽ dẫn con người đến ba ác hành và tà kiến và sẽ nhận hậu quả
bất lợi hai đằng như trên.* Một thuyết chủ trương ngược lại, sẽ dẫn đến ba thiện hành và
Chánh kiến, sẽ nhận được hậu quả có lợi hai đằng như trên.
* Một thuyết chủ trương tự nhiên luận, vô nghiệp, sẽ dẫn đến ba ác hành, tà kiến.

* Một thuyết chủ trương phản lại thuyết trên và sẽ dẫn đến kết quả tương phản với kết quả
trên.
* Một thuyết chủ trương "Có một vơ sắc tồn diện".
* Một thuyết chủ trương "Khơng thể có Hữu diệt tồn diện".
* Một thuyết khác thì chủ trương "Có thể có Hữu diệt tồn diện. Với các Bà-la-mơn chưa
vướng mắc vào chủ trương tôn giáo, học thuyết nào, đức Thế Tôn giới thiệu một pháp chọn
lựa giữa các chủ thuyết đương thời dựa trên tiêu chuẩn lợi ích trong hiện tại - được các người
trí tán thán và sự thác sinh vào đời sau, nếu là thật thì có lợi ích hơn, nếu khơng thật thì vẫn
khơng đánh mất cái lợi ích trong hiện tại. Đây gọi là Pháp chắc thật, không nghi ngại.Thế
Tôn dẫn dắt dần dần, đi từ tin vào Nghiệp quả (thay vì vơ nhân, vơ nghiệp), có Nhân duyên,
đến thà tin Hữu luận hơn là Đoạn diệt luận; thà tin "có Vơ sắc tồn diện, có Hữu diệt tồn
diện" hơn là "Khơng có Vơ sắc tồn diện, khơng có Hữu diệt tồn diện" để trong hiện tại có
thể thành tựu các thiện hành vơ tham, vơ sân, ly dục.Sau cùng là giới thiệu chính con đường
của Thế Tơn, nếu các Bà-la-mơn muốn thực hiện thì có thể thử dấn thân. Ngài khơng chủ
trương thuyết phục người ngồi đạo theo Ngài. Ngài khơng chủ trương chỉ thế nầy là đúng,
cịn tất cả là sai lầm.Chỉ có sự thật và chỉ có sự thân chứng sự thật mới có sức mạnh thuyết
phục các người trí ở đời. Đức Thế Tơn đã thuyết phục cả những trí thức và các tu sĩ ngoại đạo
thời danh quy hướng Ngài, đi theo con đường của Ngài là vì lý do đó .
9


Kinh Aggivacchagotta số 72:Vacchagotta, một chàng du sĩ ngoại đạo trên đường thao thức
tìm kiếm sự thật của con người và cuộc đời, bị tư duy và nhiều câu hỏi ám ảnh tâm trí,
thường đến yết kiến Thế Tơn để lắng nghe các câu trả lời. Giữa nhiều thắc mắc, một lần ở
thành Sàvatthì, Thắng Lâm, Vacchagotta bạch hỏi Thế Tơn mười câu hỏi siêu hình:
1. Thế giới là thường? Chỉ như vậy là thật, ngoài ra là hư vọng.
2. Thế giới là vô thường? Chỉ như vậy là thật, ngoài ra là hư vọng.
3. Thế giới là hữu biên? Chỉ như vậy là thật, ngoài ra là hư vọng.
4. Thế giới là vô biên? Chỉ như vậy là thật, ngoài ra là hư vọng.
5. Cơ thể và sinh mạng là một? Chỉ như vậy là thật, ngoài ra là hư vọng.

6. Cơ thể và sinh mạng là khác? Chỉ như vậy là thật, ngoài ra là hư vọng.
7. Như Lai tồn tại sau khi chết? ...
8. Như Lai không tồn tại sau khi chết?...
9. Như Lai có và khơng tồn tại sau khi chết?...
10. Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?...
Trung A Hàm kinh tiễn dụ số 221 tôn giả Mam Đồng Tử khởi nên ý niệm:thế giới hữu
thường hay vô thường,thế giới là hữu bên hay vô biên,Như lai tuyệt dệt hay không tuyệt diệt
Bản kinh số 221 giới thiệu thêm những nét cương yếu về sự khác biệt giữa giáo lý Phật giáo
và giáo lý của Lục sư ngoại đạo. Một đằng thuộc tà đạo và tà sư không thể nương tựa để sống
phạm hạnh đi đến an lạc giải thoát.- Một đằng là Chánh pháp và là bậc đạo sư Toàn giác, là
nơi nương tựa duy nhất để thành tựu phạm hạnh, phát triểm tâm và tuệ giải thoát.
3.2.3.Quan điểm vế giai cấp xã hội:
Kinh Assalàyana số 93:Assalàyana ở Sàvatthì là một thiếu niên 16 tuổi nhưng là người thần
đồng, tinh thông ba tập Vệ-đà, thâm hiểu các triết lý ở đời (thuận thế luận) và "đại nhân
tướng"... được các Bà-la-môn ở Xá-vệ cử đến để tranh luận với Thế Tôn về thuyết "Bốn giai
cấp" ở Ấn Độ. Ngoại đạo ln tìm mọi cách để tranh luận với Thế Tơn, cịn Thế Tơn thì
khơng. Ngay cả thiếu niên Assalàyana là thiếu tư cách tôn trọng để đối thoại, Thế Tôn vẫn từ
bi và ơn tồn chỉ dạy.
Có rất nhiều kinh chỉ rõ sự trống rỗng của chủ thuyết phân biệt bốn giai cấp: mỗi kinh, Thế
Tôn nêu lên các sự thật ở đời khác nhau để vạch rõ các sai lầm của chủ thuyết.Chủ trương
bình đẳng bốn giai cấp, hay các giai cấp xã hội là chủ trương rất thực tế, rất công bằng và
nhân ái, rất đáng được xiển dương trong mọi thời đại, ở mọi xã hội con người. Các bài kinh
trong Trung A Hàm như Kinh Phạm Chí A Nhiếp Hịa 151, Kinh Uất Sấu Ca La 150, Kinh
Đầu Na 158… đề cập đến vấn đề giai cấp, địa vị.Sự phân biệt giai cấp là do xã hội tạo nên,
mỗi con người đều có quyền bình đẳng như nhau về mọi quyền lợi trên tinh thần nhân quả,
nghiệp báo. Khơng phải do anh thuộc dịng Phạm chí thì anh mới sống, ăn, làm việc… và đặc
biệt là ai cũng có thể giải thốt nếu tu tập: “…
Tất cả mọi người trong trăm chủng tộc khác nhau ấy đều có thể mang bột tắm đến nước và
tắm rửa, trừ khử các cấu bẩn cho thật sạch. . . tất cả những người trong trăm chủng tộc khác
nhau kia đều có thể dùng bất cứ loại gỗ nào làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và

cháy lớn lên”.Con người sống khơng tắm rửa thì sẽ nhơ bẩn, tắm rửa thì sạch sẽ, kể cả thân
và tâm, không ngoại lệ một chủng tộc nào. Quy luật của cuộc sống, thiên nhiên và tạo hóa tự
đến khơng phân biệt.
Kinh A Nhiếp Hồ đưa ra sự bình đẳng của con người ở yếu tố sinh ra, giai cấp, nghiệp báo
và sự tu tập: Tất cả bốn giai cấp đều sinh ra từ bụng người mẹ; Có sự đồng đẳng giữa bốn giai
cấp về quả báo của các nghiệp thiện và bất thiện; Đồng đẳng trong cơ hội tu tập ở đời này.
Đức Phật đã bác bỏ thuyết bốn giai cấp “trời sinh” của Bà-la-môn, đơn cử là một xã hội
khơng phải có bốn, mà chỉ có hai giai cấp là “chủ” và “tớ” và giới hạn của hai giai cấp này
cũng chỉ là tương đối, tạm thời, vì có những trường hợp nơ lệ tiến lên làm chủ nô và trường
hợp chủ nô biến thành nô lệ. Đồng thời có rất nhiều trường hợp những người nơ lệ được giải
10


phóng trở thành người tự do “Này Ma-nạp, Ơng có nghe nói ở nước Dư-ni và Kiến-phù chỉ
có hai chủng tánh: chủ nhân và đày tớ; sau khi làm chủ nhân lại trở thành đày tớ, đày tớ lại
trở thành chủ nhân chăng?”
Đức Phật không chủ trương chủng tộc: “Này Bà-tư-tra, chính Ta
với sự chứng đắc Minh Hạnh vơ thượng này không chủ trương thọ sanh ưu thắng, không chủ
trương chủng tộc, khơng chủ trương kiêu mạn, nói rằng ‘Nó đẹp lịng Ta; nó khơng đẹp lịng
Ta,’ khơng vì chỗ ngồi, khơng vì nước, khơng vì sở học kinh sách”.
Phạm chí Uất-sấu-ca-la thưa với đức Phật về việc Phạm chí thiết lập bốn loại phụng sự cho
bốn chủng tánh Phạm chí, Sát-lợi, cho Cư sĩ và Cơng sư: “Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập
loại phụng sự cho Phạm chí, tức là Phạm chí phải phụng sự Phạm chí; Sát-lợi, Cư sĩ và Cơng
sư cũng phải phụng sự Phạm chí. Này Cù-đàm, bốn chủng tánh này phải phụng sự Phạm
chí”. Cứ như thế ngồi chủng tánh mình phụng sự cho chủng tánh mình thì các chủng tánh
cịn lại dưới phải phụng sự cho chủng tánh trên. Đức Phật đã bác bỏ điều này bằng cách đưa
ra những câu hỏi ví dụ cho Uất Sấu Ca La: “. . .
Nhưng Sa-môn Cù-đàm nói: bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải, hiển thị”.
Chính Phạm chí này cũng đã xác định trả lời Phật:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí có thể hành từ tâm, khơng kết, khơng ốn, khơng nhuế, khơng

tránh. Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư cũng như vậy”.
Bốn giai cấp đều chịu chung quy luật sanh, già, bệnh, chết, ai cũng có thể làm chủ vận mệnh
và tự tạo hạnh phúc cho mình, khơng một năng lực nào có quyền ban phước, giáng họa, ai
cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Kinh Trung A Hàm, đức Phật đã xác định với người Bà-la-mơn rằng: “Này Ma nạp, Phạm chí
nếu hướng đến chơn chánh, thì vị ấy sẽ hiểu biết khéo léo, tự tri đúng như pháp. Sát lợi, Cư sĩ
hay Công sư nếu hướng đến chơn chánh cũng được sự hiểu biết khéo léo, tự tri đúng pháp”.
Đây là sự hiển thị, giản trạch rõ ràng về bốn giai cấp đều có sự đồng nhất, bình đẳng với nhau
trên tự tính, xố bỏ đi những bất bình đẳng trên phương diện giai cấp, chủng tộc, màu da..v.v,
thể hiện tinh thần bình đẳng trong giáo lý đức Phật.
Chính tinh thần bình đẳng, vơ ngã vị tha này đã tạo nên tính nhân bản trong Phật giáo. Những
người đệ tử Phật không thờ ơ trước nỗi đau của tha nhân và luôn tìm cách mang lại hạnh
phúc cho họ bằng sức mạnh thơng điệp u thương, hịa bình. Đây cũng là nguồn sức mạnh
để gạt đi những sự áp bức bất công trong cuộc sống, san bằng mọi chướng ngại trên con
đường tìm cầu an lạc cho mình và người.

11


C.KẾT LUẬN
Sau khi giác ngộ, đức Phật đã đi khắp Ấn Độ trong 45 năm để thuyết giảng giáo pháp mà
Người đạt được. Lời dạy của Người được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh. Đức Phật đã mang
hịa bình đến cho Ấn Độ, một xã hội đầy chia rẽ, mâu thuẫn và nhiều đẳng cấp trong thời đại
phong kiến ở thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. … Các luận điểm chính yếu đã được Những
quan điểm khác nhau với đạo Phật vào thời Ấn Độ cổ phân tích qua từng chi tiết trong bài
tiểu luận, học viên cho rằng sự chống đối và phản kháng của ngoại đạo thời xa xưa là một
biểu tượng dân chủ trong Tăng chúng. Quả là hợp lý để nói rằng đạo Phật là một tơn giáo có
tổ chức đầu tiên đặt nền tảng trên nguyên tắc bình đẳng trong thời Ấn Độ cổ xưa.Qua việc
nghiên cứu tài liệu để làm tiểu luận học viên thấy được những trường phái khác phật giáo có
những chủ trương,quan điểm và học thuyết trái ngược với đạo phật nhưng khi những tín đồ

của ngoại đạo đó được đức phật giải thích ,trả lời họ điều hài lịng,thậm trí một số cịn xin
quy y với đạo phật.Chính những sự khác nhau về mặt tư tưởng đó mà đạo phật càng có vị
thế,có sự đa dạng trong giới tu sĩ quy y với đức phật . Đạo Phật là một tơn giáo tồn cầu, sống
động đầy tính khoa học mà chưa có một tơn giáo nào có thể vượt qua. Một tơn giáo khơng
mang tính riêng lẻ khi đem lại lợi ích cho tồn nhân loại khẳng định tầm quan trọng và hữu
ích cho đời sống hàng ngày của chúng ta.
Khái niệm “vô thần” phủ nhận Thượng đế với tư cách là một Đấng Sáng tạo nên mn lồi,
trời đất ...cộng với Thiên đường, Địa ngục siêu hình, duy tâm khách quan, do Đấng tạo hoá
ấy tạo nên.Đức Phật khơng nói đến Thượng đế. Khơng nói có nghĩa là phủ nhận nhưng đồng
thời cũng có nghĩa là bởi khơng quan trọng hoặc khơng nên nói tới làm gì. Ngài H.W.
Schumann diễn giải có nói:“Kinh Ðiển Pàli ghi lại nhiều trường hợp hễ đức Phật thấy một
cuộc tranh luận nào thiên về lý thuyết, thì ngài liền tìm cách đưa đề tài ấy trở lại con đường
thực tiễn đi đến giải thốt. Trong các vấn đề tín ngưỡng, ngài là một người chủ trương thực
tiễn, như ngài đã giải thích cho Tỳ kheo Màlunkyaputta với ảnh dụ mũi tên độc.
Màlunkyaputta đã suy tư nhiều về đủ mọi vấn đề lý luận siêu hình mà vị ấy đưa ra tham vấn
đức Phật. Bậc Ðạo Sư đáp:"Này Màlunkyaputta, hỏi thế này cũng giống như trường hợp một
người bị bắn một mũi tên tẩm thuốc độc rất nặng. Bằng hữu người ấy mời một y sĩ, song
người bị thương ấy bảo: "Ta không muốn nhờ nhổ mũi tên này ra cho đến khi ta biết rõ tên
họ, gia tộc người bắn cung, kẻ ấy cao hay thấp, da đen, nâu, hay vàng, sống ở đâu, cây cung
và dây cung ra sao, mũi tên được làm bằng gì và loại lơng chim nào kết vào mũi tên. Này,
Màlunkyaputta, người kia có thể chết trước khi tìm được mọi câu giải đáp ấy" (Trung bộ kinh
số 63, kinh Malunkiyaputta)”.
Do kiến thức của học viên còn hạn chế nên không đi xâu vào nhiều vấn đề ngồi những vấn
đề có nhắc tới trong bài tiểu luận .Những kiến thức học viên biết như đức phật đã từng nói:
“"- Này các Tỳ kheo, cái nào nhiều hơn, nắm lá Simsapà trong tay ta, hay đám lá trên các cây
kia?”

12



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Thích Chơn thiện,tìm hiểu kinh trung bộ,Hà Nội,NXB Tơn giáo ,2004.
2.Thích Minh Châu ,tóm tắt kinh trung bộ,TP.HCM,NXB văn hóa Sài Gịn,2010.
3. HT. Thích Minh Châu, "Kinh Trung Bộ", Trường CCPHVN ấn hành 1986.
4.Kinh trung a hàm trong đại tạng kinh
5.Kinh Trung A Hàm, Kinh Phạm Chí A Nhiếp Hịa, HT. Thích Minh Châu dịch.
6.W. Schumann, “Đức Phật lịch sử”.
7. />
13



×