Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

PHÂN TÍCH NHỮNG điều KIỆN để XUẤT HIỆN tôn GIÁO NHỮNG mặt TÍCH cực và NHỮNG mặt hạn CHẾ của tôn GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.82 KB, 27 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
…………………………………………

LÊ VĂN CAN

PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ XUẤT HIỆN TƠN
GIÁO.NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ NHỮNG MẶT HẠN
CHẾ CỦA TÔN GIÁO

Tiểu luận học kỳ III : Mơn Tín Ngưỡng Và Tơn Giáo Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Trọng Hạnh

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
………………………………………….

TÊN TÁC GIẢ: LÊ VĂN CAN
PHÁP DANH: TRÍ CƯỜNG
LỚP ĐTTX: KHĨA VI
MSSV: TX 6031

PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ XUẤT HIỆN TƠN
GIÁO.NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ NHỮNG MẶT HẠN CHẾ
CỦA TÔN GIÁO
Tiểu luận học kỳ III : Mơn Tín Ngưỡng Và Tơn Giáo Việt Nam


Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Trọng Hạnh

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài :..........................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài :...........................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu :...............................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu :..............................................................................................2
5. Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 chương..........................................................................2
CHƯƠNG 1 : NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA TÍN NGƯỠNG VÀ TƠN GIÁO
1.1.Tín ngưỡng và bản chất của tín ngưỡng:.........................................................................3
1.1.2 .Tôn giáo và bản chất của tôn giáo:..............................................................................3
1.1.2.1. Bản chất của tơn giáo:...............................................................................................4
1.1.2.2. Nguồn gốc của tơn giáo:...........................................................................................4
1.1.2.3. Tính chất của tôn giáo:..............................................................................................6
1.1.3 : Chức năng của tôn giáo và tín ngưỡng:......................................................................7
CHƯƠNG 2: NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA TƠN GIÁO
2.1.Các tơn giáo và ảnh hưởng của nó tới đời sống văn hóa xã hội......................................8
2.2.1: Những ảnh hưởng tích cực của tơn giáo lên xã hội:..................................................12
2.2.2:Những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên xã hội:...................................................15
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ TƠN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.Tình hình tơn giáo ở Việt Nam hiện nay:......................................................................18
3.2.Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:..............................................20
KẾT LUẬN..........................................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................24



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và
xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh
thần mà cịn hướng con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang
tính “Hồng kim ngun thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng chung
sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo tưởng để yên tâm, tin tưởng để
sống và phải sống trong một thế giới trần gian có nhiều bất cơng và khổ ải.Tìm hiểu bối
cảnh lịch sử ,nguồn gốc và những hình thức tơn giáo nổi bật của từng giai đoạn phát triển
tôn giáo phương Tây và tôn giáo bản địa là cơ sở để làm rõ được những thành tựu và giá
trị tư tưởng mà tôn giáo đóng góp cho sự phát triển của nhân loại. Từ các vấn đề cần
nghiên cứu nói trên, tác giả nghiên cứu đề tài : “ Những điều kiện để xuất hiện tơn giáo
và những mặt tích cực ,mặt hạn chế của tơn giáo”. Trong q trình làm bài tiểu luận, em
đã kết hợp những kiến thức được học cũng như là qua quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài
liệu. Tuy nhiên do kiến thức của em có hạn nên khơng thể tránh khỏi những sai sót, vì vậy
em kính mong nhận được sự góp ý của thầy cơ cùng các bạn để bài làm của em được tốt
hơn.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài :
Về mặt lý luận : Đề tài nhằm góp phần tổng kết, đưa ra những quan điểm chung của tôn
giáo, đồng thời đánh giá những giá trị tích cực cũng như hạn chế của tơn giáo.Về mặt thực
tiễn : Đề tài góp phần tổng hợp và đưa đến những giá trị lịch sử qua quá trình nghiên cứu,
nhằm xem xét những vấn đề cơ bản nhất, nguồn gốc nhất cho tôn giáo .
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu :
Lấy cơ sở từ những kiến thức chung về đặc điểm của các tơn giáo và những vấn đề trong
q trình hình thành và phát triển tôn giáo, cùng các vấn đề khác để nghiên cứu các vấn đề
trong đánh giá giá trị và hạn chế tôn giáo.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng phương pháp : phân tích, tổng hợp, đánh giá.., bài tiểu luận đã sử dụng các
phương pháp trên để tìm kiếm, phân tích vấn đề.
1



5. Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 chương
 Chương I : Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng tơn giáo.
 Chương II : Những giá trị tích cực và những hạn chế của Tôn giáo
 Chương III :Bài học lịch sử,ý nghĩa thực tiễn và kết luận qua nghiên cứu tôn
giáo.

2


CHƯƠNG 1 : NGUỒN GỚC VÀ BẢN CHẤT CỦA TÍN NGƯỠNG VÀ TƠN GIÁO
1.1.Tín ngưỡng và bản chất của tín ngưỡng:
Về sự xuất hiện của tín ngưỡng xuất phát từ bản năng sinh tồn của con người. Tín ngưỡng
được hình thành vào giao đoạn sơ khai của lịch sử loài người (thời tiền sử). Lúc đó ngồi
việc người tiền sử kiếm ăn, họ tự hỏi phải làm sao để hái được những trái cây trên cao hay
săn giết được những thú vật chạy nhanh bay cao. Với lối tư duy và suy nghĩ, họ dần dần
tạo ra được các dụng cụ và võ khí hiệu nghiệm hơn để thực hiện việc này. Tương tự, họ tự
hỏi phải làm sao để chống lại sự lạnh lẽo của mưa gió hay để bảo vệ họ khỏi phải bị thú dữ
ăn thịt. Dùng những tấm lá cây hay da thú để bao bọc giữ cho cơ thể họ được ấm hay biết
dựng lên rào cản trước hang động để không cho thú dữ xâm nhập trong khi họ ngủ. Rồi họ
biết dùng lửa, làm quần áo, xây nhà, v.v. cho những mục đích này. Mỗi lần họ tựhỏi tại sao
để giải thích và phải làm sao để chinh phục một vấn đề, họ tìm cách chế ra một phương
tiện khác tốt hơn, hay hơn giúp họ chống chỏi với thiên nhiên trong cuộc tranh đấu liên tục
để sống cịn của họ.Tuy nhiên có những sự việc xảy ra chung quanh người tiền sử mà họ
không hiểu tại sao và không biết làm cách nào để kiểm soát hay chinh phục chúng. Trước
thiên nhiên vũ trụ, con người ta thấy được sự nhỏ bé, bất lực của mình với những hiện
tượng xảy ra chung quanh người tiền sử mà họ không hiểu tại sao và khơng biết làm cách
nào để kiểm sốt hay chinh phục chúng. Thí dụ như những hiện tượng thiên nhiên (núi lửa,
động đất, mưa bão, lũ lụt, hạn hán, v.v.) hay những tai ương (bệnh tật, tai nạn, chết chóc,

cá nhân sát hại lẫn nhau, chiến tranh giữa bộ lạc, v.v.). Khả năng trí tuệ và kiến thức hạn
hẹp về vũ trụ của họ khơng cho phép họ giải thích được những vấn đề nghiêm trọng trên.
Trong khi đó, bản năng sinh tồn của họ địi hỏi họ phải tìm ra một giải đáp này.Và rồi bằng
lối tư duy của mình lúc bấy giờ con người tưởng tượng ra những sức mạnh siêu nhiên hoàn
toàn bên ngoài khả năng điều khiển của họ. Họ cho rằng tất cả những hiện tượng khơng
giải thích được và những tai ương đều x́t phát từ các sức mạnh này. Kinh nghiệm trong
đời sống của . họ cho họ thấy nếu không chinh phục được một mối hiểm nguy thì cách tốt
nhất để sinh tồn là hoặc :
1/ trốn tránh hoặc
2/ thần phục nó.
3


Vì khơng thể trốn tránh tai họa được nên họ tin rằng muốn hạn chế nó xảy ra cho họ thì chỉ
có cách là thần phục và tơn thờ các sức mạnh siêu nhiên trên, từ đó các thần linh ra đời
như Thần núi lửa gây ra núi lửa. Thần mưa, thần gió, thần sấm sét làm ra bão tố mưa gió.
Thần sơng, thần biển, thần rừng cai trị và tạo ra những hiểm nguy trên sơng, ngồi biển,
trong rừng. Các thú dữ cũng được cho là thần linh: thần cọp, thần rắn, thần chim ưng, thần
cá sấu. Tiếp theo là thần cây, thần đá, thần mùa màng, thần sinh sản,…
1.1.2 .Tôn giáo và bản chất của tôn giáo:
1.1.2.1. Bản chất của tôn giáo:
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự
bất lực, bế tắc của con người trước sức mạnh tự nhiên và sức mạnh xã hội.Theo C.Mác:
“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản
kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp
bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim … tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.Tuy
nhiên tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp với đạo đức, đạo lý
của xã hội.Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật Mác xít và thế giới quan
tơn giáo là dối lập nhau. Tuy vây, những người cộng sản có lập trường mác xít khơng bao

giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo hợp pháp của
nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa ML và những người cộng sản, chế độ xhcn luôn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân.
1.1.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo:
A-Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tơn giáo:
Trong xã hội ngun thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy
yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa nhứn sức mạnh đó.
Từ đó, họ xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ cúng.Khi xã hội phân chia thành
giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế lực giai cấp thống
trị. Họ khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác
… tất cả họ quy về số phận và định mệnh. Từ đó, họ đã thần thành hóa một số người thành
những thần tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn
4


giáo.Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng về
kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là nguồn gốc
sâu xa của tôn giáo.
B-Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo:
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản
thân mình cịn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều khoa học chưa
khám phá và giải thích được nên con người lại tìm đến tơn giáo.
Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo tưởng,
thần thành hóa đối tượng.
C-Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo:
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà dẫn đến việc
ính ra tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự sợ hãi sinh ra tôn
giáo”. Lênin cũng cho rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản …. sự phá sản “đột
ngột” “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị diệt vong …, dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính

là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo hiện đại.
Ngay cả những tâm lý tích cực như lịng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện
qua tơn giáo.
1.1.2.3. Tính chất của tơn giáo:
A-Tính lịch sử của tơn giáo:
Con người sáng tạo ra tơn giáo. Mặc dù nó cịn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một phạm
trù lịch sử. Tơn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới
mức độ nhất định.Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử, tơn giáo
có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay
đổi, tơn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi
con người nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ
được tự nhiên, xã hội, làm chủ được bản thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi
con người thì tơn giáo sẽ khơng cịn.
B-Tính quần chúng của tơn giáo:
Tơn giáo là nơi sinh hoặt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao
động. Hiện nay, số lượng tín đồ của các tơn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế
giới.Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng của những con
5


người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bát ái … Bởi vì, tơn giáo thường có tính
nhân văn, nhân đạo hướng thiện. Vì vậy, cịn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau
của xã hội.
C-Tính chính trị của tơn giáo:
Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chi giai cấp, các giai cấp thống
trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.
Trong nội bộ tơn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dịng, hệ, phái nhiều khi cũng mang tính
chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tơn giáo thường là một bộ phận của
đấu tranh giai cấp.Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp
khơng chỉ ở quốc gia mà còn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện các tổ chức quốc tế

của tôn giáo với thế lực lớn đã tác động đến nhiều mặt, trong đó có chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận thức rõ: đa số quần chúng đến với tôn giáo nhằm thõa mãn
nhu cầu tinh thần; song trên thực tế đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi dụng để
thực hiện mục đích ngồi tơn giáo của họ.Khi xã hội có những tiến bộ hơn, của cải vật chất
tạo ra được nhiều hơn và bắt đầu đã đến sự chiếm hữu về của cải trong xã hội thì sự phân
chia về giai cấp bắt đầu. Bây giờ ngoài đối diện với sức mạnh thiên nhiên, con người còn
phải đối diện với sự cai trị của tầng lớp chủ nô thì nỗi đau, sự khốn khổ cùng cực và sự
nhỏ bé đơn điệu của con người càng tăng gấp bội. Trước những nhu cầu đó học cần thốt
ra được những nỗi khổ niềm đau này, họ dần dần tư duy và suy nghĩ phải có một vị thần
cao nhất, mạnh nhất, thiêng liêng nhất so với tất cả các thần linh khác và định đoạt mọi số
phận con người và những vị thần nhỏ hơn, và là người duy nhất có thể đưa con người thốt
ra khỏi nỗi khổ niềm đau của họ trước sức mạnh thiên nhiên, trước sự cai trị của tầng lớp
thống trị, khi đó một khái niệm trù tượng ra đời đó là Trời, Đức Chúa Trời hay Thượng Đế.
Bây giờ thì có sự chuyển biến từ cơ chế tính ngưỡng đa thần sang tín ngưỡng độc thần, đây
chính là điều kiện để tơn giáo ra đời.
Theo đó so với tín ngưỡng thì tơn giáo là một hình thức tâm linh cao hơn, có sự chặt chẽ
và quy mơ hơn. Để có được một tơn giáo cần thỏa các điều kiện sau:
1.

Niềm tin: Là điều kiện cần có cho bất kỳ một tơn giáo nào, tuy nó nó hư ảo nhưng

là là một động lực cực lớn cho con người thoa dịu mọi nỗi khổ niềm đau của họ.
2.

Vị giáo chủ: Tức người đứng đầu, người biểu trung của giáo phái đó.

3.

Hệ thống giáo lý: bao gồm kinh điển, tín điều và nghi lễ.
6



4.

Tăng lữ: là những vị tu sĩ, người trực tiếp truyền bá và cử hành các nghi lễ.

5.

Hệ thống tín đồ: là những người đặt trọn niềm tin và thực hành theo tơn giáo đó.

1.1.3 : Chức năng của tơn giáo và tín ngưỡng:
1.Tạo niềm tin tạo động lực cho con người trong cuộc sống sinh tồn của mình.
2.Làm nhẹ đi những nỗi đau mất mát, đem đến sự an lạc, an tâm trước nỗi khổ niềm đau.
3.Hướng con người đến cái chân – thiện – mỹ.
4.Có tác động đến mọi lĩnh vực trong đời sống khinh tế xã hội của con người.

7


CHƯƠNG 2: NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA TƠN GIÁO
2.1.Các tơn giáo và ảnh hưởng của nó tới đời sống văn hóa xã hội:
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã nhận đinh
tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tơn giáo có những giá trị tốt đẹp về
đạo đức, văn hóa. Vấn đề đạo đức tôn giáo đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho
việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Giá trị lớn
nhất của đạo đức tơn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hồn thiện nhân cách cá
nhân, hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ. Tuy nhiên, đạo đức tơn giáo cũng cịn
nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người đến hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động,
sáng tạo của con người. Vấn đề đặt ra là, cần nhận điện đúng vai trị của đạo đức tơn giáo

nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chê những tác động tiêu cực của
nó đối với việc hồn thiện nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Trong xu thế đổi mới hiện nay, cùng với những chuyển biến căn bản trong đời sống kinh tế
– xã hội, sự đổi mới trong tư duy lý luận, trong nhận thức về tôn giáo cũng đã và đang diễn
ra.Trước đây, trong một thời gian dài, chúng ta đã coi tôn giáo như là “tàn dư” của xã hội
cũ, là kết quả sai lầm trong nhận thức của con người. Tôn giáo bị xem như cái đối lập với
chủ nghĩa xã hội, với khoa học, kỹ thuật hiện đại và cần phải loại bỏ.
Khi đi sâu tìm hiểu về đạo đức tơn giáo, chúng tơi thấy có nhiều quan điểm khác nhau. Có
quan điểm cho rằng, đạo đức tôn giáo không chứa đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ, mà
hồn tồn đối lập với đạo đức trần thế, không thể áp dụng vào đời sống hiện thực. Quan
điểm khác lại cho rằng, tơn giáo khơng có đạo đức riêng, đạo đức tơn giáo chỉ là sự vay
mượn đạo đức chung của nhân loại và mỗi tơn giáo có thể nhấn mạnh điểm này hay điểm
khác. Trước khi phân tích vai trị của đạo đức tôn giáo đối với đời sống xã hội, chúng tôi
muốn đề cập đến một cách khái quát cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đạo đức tôn giáo.
Theo học viên, để khẳng định có hay khơng có đạo đức tơn giáo thì cần phải bắt đầu từ các
luận điểm sau đây:

8


Thứ nhất, cần bắt đầu từ luận điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về đặc điểm phản ánh
của ý thức xã hội, nhất là sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội trong quá
trình phản ánh tồn tại xã hội.Khi chỉ ra nguyên lý về vai trò quyết định của tồn tại xã hội
đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời cũng chỉ ra rằng, bản thân đời
sống ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối của nó. Trong q trình phát triển, các
hình thái ý thức xã hội có sự giao lưu, kế thừa và ảnh hưởng lẫn nhau. Như vậy, ý thức tôn
giáo không bao giờ tồn tại một cách biệt lập với các hình thái ý thức khác, như đạo đức,
thẩm mỹ, chính trị, pháp luật… Giữa chúng có sự liên hệ, tác động qua lại và ảnh hưởng
lẫn nhau, tạo ra sự phong phú của mỗi hình thái ý thức xã hội. Trong ý thức tơn giáo khơng
thể khơng có những yếu tố của tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa… và trong điều kiện

xã hội có giai cấp, nó cịn có cả những yếu tố chính trị, đảng phái nữa. Tôn giáo không thể
tồn tại và phát triển qua hàng ngàn năm trong lịch sử của các dân tộc khác nhau trên thế
giới, nếu như bản chất của nó chỉ bao gồm những sai lầm, ảo tưởng và tiêu cực. Trong Phát
hiện ấn Độ, J.Nehru đã viết: “Rõ ràng là tôn giáo đã đáp ứng một nhu cầu trong tính chất
con người và đa số người trên thế giới đều khơng thể khơng có một dạng tín ngưỡng nào
đó… Tơn giáo đã đưa ra một loại giá trị cho cuộc sống con người, mà dù một số chuẩn
mực ngày nay khơng cịn được áp dụng, thậm chí cịn tai hại, nhưng những chuẩn mực
khác vẫn còn là cơ sở cho tinh thần và đạo đức”.
Như vậy, có thể nói, trong q trình phản ánh tồn tại xã hội, giữa hình thái ý thức tơn giáo
và hình thái ý thức đạo đức ln có quan hệ tương tác, đan xen và thâm nhập lẫn nhau. Sự
tác động biện chứng đó lại diễn ra trong tính quy định của điều kiện sinh họat vật chất xã
hội, vì vậy, bản thân tôn giáo chứa đựng những nội dung đạo đức là điều có thể hiểu
được.Với tư cách những thành tố tạo nên kiến trúc thượng tầng của xã hội, tôn giáo và đạo
đức phản ánh tồn tại xã hội theo các cách khác nhau. Tôn giáo phản ánh một cách hư ảo
hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người, trong đó, cái hiện thực đã bị biến dạng
cái tự nhiên đã trở thành cái siêu nhiên. Còn đạo đức phản ánh các mối quan hệ của con
người với nhau và với xã hội, đó là những mối quan hệ hiện thực.
Thứ hai, khi xem xét tôn giáo như một hình thái ý thúc xã hội độc lập với các hình thái ý
thức khác, chúng ta thấy nó chứa đựng nội dung đạo đức (bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý
tưởng đạo đức…) thể hiện trong giáo lý tôn giáo.Bất cứ tơn giáo nào cũng có một hệ thống
ch̉n mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ.
9


Đa số các tôn giáo đều tuyên bố về giá trị tối cao của ‘các lực lượng siêu nhiên (Thượng
đế, Chúa trời, Thần thánh) và mọi giá trị khác phải lấy đó làm chuẩn. Thực tế cho thấy,
quan niệm đạo đức của hầu hết mọi tơn giáo, ngồi những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin
tôn giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như
sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác…
Trong Khoa học và tôn giáo, Bertrand Russeli cho rằng, một tơn giáo lớn bao giờ cũng có

hệ thống tín điều, hệ thống đạo đức và giáo hội. Người theo tôn giáo không phải sống thế
nào cũng được, mà phải sống theo những khn phép đạo đức hợp với tín điều của tơn
giáo mình, hành động khơng phải chỉ là thực hành một số hình thức nghi lễ, mà cịn phải
sống theo những quy tắc đạo đức nhất định. Vì vậy, đương nhiên, một số nội dung của đạo
đức trở thành bộ phận cấu thành nội đung của tôn giáo.
Vấn đề trung tâm của Phật giáo là “diệt khổ” để hướng đến giải thoát, chứng được Niết
bàn. Muốn đạt được điều đó, con người khơng chỉ cần có niềm tin tơn giáo, mà cịn cần cả
sự phấn đấu nỗ lực của bản thân bằng cách thực hành một đời sông đạo đức. Từ đó, Phật
giáo đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể để con người tu tập, phấn đấu. Trong
đó, phổ biến nhất là Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói
dối, khơng uống rượu) và Thập thiện (ba điều thuộc về thân: không sát sinh, không trộm
cắp, không tà dâm, ba điều thuộc về ý thức: không tham lam, không thù hận, không si mê,
bốn điều thuộc về khẩu: không nói dối, khơng nói thêu dệt, khơng nói hai chiều, không ác
khẩu). Những chuẩn mực này, nếu lược bỏ màu sắc mang tính chất tơn giáo sẽ là những
ngun tắc ứng xử phù hợp giữa người với người, rất có ích cho việc duy trì đạo đức xã
hội.Trong đạo đức Kitô giáo, giới răn yêu thương được xem là nền tảng. Con người trước
hết phải yêu Thiên Chúa rồi yêu thương đến bản thân mình. Đây là cơ sở để thực hiện tình
yêu tha nhân. Kinh thánh khuyên con người phải yêu chồng vợ, cha mẹ, con cái, anh em,
làng xóm, cộng đồng… Những điều mà Kinh thánh răn cấm cũng rất cụ thể: không giết
người, không lấy của người, khơng nói sai sự thật, khơng ham muốn chồng hoặc vợ của
người, khơng làm chứng giả để hại người… Ngồi ý nghĩa đức tin vào cái siêu
nhiên(Thượng đế, Chúa), những chuẩn mực, quy phạm đạo đức ấy là những quy phạm đạo
đức rất cụ thể hướng con người đến điều thiện, tránh xa điều ác.Phải nói rằng, tơn giáo đã
đề cập trực tiếp đến những vấn đề đạo đức cụ thể của cuộc sống thế tục và ít nhiều mang
giá trị có tính nhân văn. Trên thực tế, những giá trị, ch̉n mực đạo đức của các tơn giáo có
10


ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Do vậy, có thể khẳng định rằng, “trong
hệ thống những giá trị ch̉n mực tơn giáo, ngồi những điều khuyên răn cấm đoán tạo nên

nội dung riêng của đạo đức tơn giáo, cịn có những điều khun răn cấm đốn khơng hề có
nội dung tơn giáo, mà là biểu hiện của các mối quan hệ thuần tuý trần thế”.
Thứ ba, từ việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta có thể khẳng định
rằng, khi bàn về tôn giáo, các nhà kinh điển đã đề cập đến vấn đề đạo đức tơn giáo, trong
đó, các ông không chỉ phê phán mặt tiêu cực, mà còn chỉ ra một số ý nghĩa tích cực của
đạo đức tôn giáo.Khi mới ra đời, hầu hết các tôn giáo đều phản ánh khát vọng tự do, bình
đẳng của người lao động. C.Mác đã khẳng định: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu
hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy”.
Con người bất lực, khơng kiếm tìm được hạnh phúc nơi trần thế và đành phải tìm hạnh
phúc ấy nơi Thiên đường. Tôn giáo đã gieo vào họ mềm tin ở sự cứu vớt, giải thóat của
các đấng siêu nhiên. Ph.Ăngghen đã nghiên cứu lịch sử tôn giáo, đặc biệt là lịch sử Thiên
chúa giáo và chứng minh rằng, sự xuất hiện của tôn giáo này là phản ứng chống lại sự bất
công và tàn bạo của chế độ nô lệ. Tương tự như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ là khát vọng
của quần chúng phản kháng lại sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội ấn Độ cổ đại.
Thiên chúa giáo kêu gọi tình yêu thương giữa con người với con người, Phật giáo chủ
trương bình đẳng, từ bi, hỷ xả, vơ ngã, vị tha. Ngồi ra, chúng ta cịn có thể nêu lên những
nét tích cực của nhiều tôn giáo khác, khi các tôn giáo này xây dựng mối quan hệ yêu
thương giữa người với người, hướng con người vào những việc thiện, biết giữ gìn đạo đức
và xa lánh những điều ác.Khi phân tích, đánh giá vai trị xã hội của tơn giáo, các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác – Lênin luôn xuất phát từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhìn nhận vấn đề tôn giáo theo quan điểm lịch sử – cụ thể và
gắn với thực tế sinh động của cuộc sống. Lênin thường nói đến những tác động tiêu cực
của tơn giáo và giáo hội trong từng tình huống cụ thể, nhất là mưu toan lợi dụng tôn giáo
của các thế lực phản động hịng bảo vệ chế độ bóc lột và đầu độc quần chúng bị áp bức.
Chúng đã biến đạo đức tôn giáo thành bộ áo nguỵ trang cho lợi ích giai cấp.Điểm nổi bật
trong học thuyết cửa chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo là, tôn giáo được xem xét gắn liền
với thực tiễn đấu tranh giai cấp ở châu âu đương thời, phục vụ trực tiếp những u cầu
cách mạng của giai cấp vơ sản. Do hồn cảnh lúc đó, các ơng phải nói nhiều đến mặt tiêu
cực của tơn giáo, mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu các khía cạnh văn hóa, tâm lý,
11



tình cảm, đạo đức của tơn giáo. Tuy nhiên, phải thấy rằng, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
– Lênin cũng đã lưu ý đến khía cạnh tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, nhu
cầu của sự phát triển xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Ph.Ăngghen viết: “Tôn
giáo do con người tạo ra, bản thân những người nảy cảm thấy được nhu cầu cần phải có
tơn giáo và họ hiểu được những nhu cầu cần có tơn giáo của quần chúng”.Theo ơng, sự
xuất hiện của đạo Kitô ở La Mã cổ đại đã đáp ứng mong muốn được giải phóng của quần
chúng nơ lệ bị áp bức, nhưng họ lại khơng tìm được cách giải phóng trong hiện thực.
C.Mác đã từng chỉ rõ rằng, chính sự khơng hồn thiện của con người đã sản sinh ra một
thế giới cần có tơn giáo và ngược lại, tôn giáo cũng đáp ứng những yêu cầu của con người
trong các thế giới ấy. Khi bàn về thuyết tạo thần, Lênin cũng nhìn thấy tơn giáo là nhu cầu
của một bộ phận nhân dân, chỉ có điều là đứng trước kẻ thù đang ra sức đề cao nhu cầu tôn
giáo để chống lại cách mạng, ông đã phê phán không thương tiếc những nhà văn tuyên
truyền tạo thần và “nâng nhu cầu tôn giáo lên” .Về chính sách của Đảng Cộng sản đối với
tơn giáo, Lênin luôn nhắc nhở rằng, không được đối xử với tôn giáo một cách thô bạo,
không được công khai tuyên chiến với tôn giáo, cần phải gắn việc phê phán tôn giáo với
vận động quần chúng, đưa họ tham gia vào các họat động thực tiễn nhằm xây dựng “thiên
đường trên trái đất”.Như vậy, có thể khẳng định rằng, có một đạo đức tơn giáo và đạo đức
ấy mang tính đặc thù, đồng thời, có sự giao thoa giữa những giá trị đạo đức chung tồn
nhân loại với đạo đức tơn giáo. Tuỳ theo hoàn cảnh ra đời và những điều kiện lịch sử cụ
thể, tư tưởng đạo đức trong mỗi tơn giáo có những nét đặc thù riêng biệt. Ngồi mặt hạn
chế, đạo đức tơn giáo cũng có một số giá trị nhất định trong đời sống xã hội, là một trong
những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền đạo đức xã hội.
2.2.1: Những ảnh hưởng tích cực của tơn giáo lên xã hội:
Do tơn giáo có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như
một phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình
điện thế giới, tơn giáo khơng chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà cịn có
vai trị chuyển tải, hồ nhập văn hóa và văn minh, góp phải duy trì đạo đức xã hội nơi trần
thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ

phận của ý thức hệ, tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục,
tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
12


Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về niềm tin, rất
xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện. Điểm mạnh trong
truyền thụ đạo đức tơn giáo là, ngồi những điều phù hợp với tình cảm đạo đức của nhân
dân, nó được thực hiện thơng qua tình cảm tín ngưỡng, mềm tin vào giáo lý. Do đó, tình
cảm đạo đức tơn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi
phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng. Họat động hướng thiện của con
người được tơn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn.Là hình thức phản ánh
đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các hành vi phi
đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của các tơn giáo, nhiều tín đồ đã sống
và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết.Đặc biệt, đạo đức
tơn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh
Ala) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một
cách rất tự nguyện, tự giác. Song, suy cho cùng, việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức ấy cũng là để phục vụ cho mềm tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và
sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ
khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy nhiều người cung tiến rất nhiều tiền của vào việc
xây dựng chùa chiền, làm từ thiện… vốn là những tín đồ tơn giáo.Đạo đức tơn giáo hướng
con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hồn thiện đạo đức cá
nhân. Bất kỳ tơn giáo nào cũng đề cập đến tình u. Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo
không chỉ hướng đến con người, mà cịn đến cả mn vật, cỏ cây Phật giáo kêu gọi lòng
nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con
người, Phật giáo muốn tình yêu thương ấy phải biến thành hành động “bố thí”, cứu giúp
những người đau khổ hoặc “nhẫn nhục” để giữ gìn đồn kết. Muốn giải thóat khỏi đau
khổ, con người phải tự hồn thiện đạo đức cá nhân, diệt trừ tham, sân, si, xố bỏ vơ minh,

chặt đứt cây “nghiệp” để vượt qua biển khổ luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập
đến tình yêu: yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó, yêu tha
nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình yêu. Những chuẩn mực của đạo đức Kitô
giáo giúp con người hoàn thiện đạo đức cá nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình u
tha nhân ở đây khơng đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ
đói ăn, cho kẻ rách mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh họan, khuyên can người lầm lỗi…
Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều
13


cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp đỡ.Tuy nhiên, tình u, lịng từ bi mà đạo đức tơn giáo
đề cập đến cịn chung chung, trừu tượng. Các tơn giáo đều muốn san bằng mọi bất công,
mâu thuẫn trong xã hội bằng đạo đức. ý tưởng đó dù tất đẹp, nhưng khó có thể hiện thực
hóa trong cuộc sống trần thế. Song, có thể nói, việc hồn thiện đạo đức cá nhân mà đạo
đức tôn giáo đề ra nhằm hướng đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên đường của
Chúa hay cõi Niết bàn của Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến đạo đức cá
nhân và xã hội.
Tơn giáo nói chung mang lại nhiều ích lợi cho con người và xã hội.
1/ Tôn giáo giúp con người cảm thấy bớt lẽ loi nhỏ bé và bất lực trong cái vũ trụ bao la
đáng sợ chung quanh họ.
2/ Tôn giáo đáp ứng nhu cầu "chinh phục sự chết" cần thiết trong bản năng sinh tồn tự
nhiên của con người.
3/ Tôn giáo cung cấp phương tiện và cơ hội để thỏa mản nhu cầu tâm linh của con người;
thí dụ như cảm giác thơng linh, giao hịa với một huyền lực bao la vĩ đại mà nhiều tôn giáo
đã nhân cách hóa và gọi là "Thượng Đế".
4/ Tơn giáo là một phương tiện giúp con người dễ bột phát những thiện tính đã có sẵn tự
nhiên trong mỗi người và áp dụng những thiện tính nầy vào đời sống hàng ngày.
5/ Tôn giáo cung cấp một phương tiện khá hữu hiệu để truyền bá các tiêu chuẩn đạo đức
và gìn giữ con người nằm trong khn khổ của các tiêu chuẩn đạo đức nầy.
6/ Tôn giáo giúp con người đoàn kết mạnh mẽ hơn khi cùng đứng với nhau trong một tập

thể dưới một danh nghĩa cao cả chung.
Ví dụ: Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do điều kiện địa lý tự nhiên do môi trường xã
hội đã xuất hiện một số tôn giáo bản địa trên địa bàn Nam Bộ như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Hịa Hảo. Những tơn giáo bản địa đó đã góp phần làm phong
phú văn hóa của người Việt Nam Bộ, tạo nên một sắc thái riêng của văn minh miệt vườn.
Các tơn giáo đó ra đời ở người Nam Bộ và cũng chỉ giới hạn ảnh hưởng của mình trong
khơng gian đó. Với tư cách là một tơn giáo, các tơn giáo đó đã tác động đến đời sống mọi
mặt của cư dân người Việt Nam Bộ. Nhưng do những tôn giáo này ra đời dựa trên nền tảng
văn hóa truyền thống của người Việt lại là sự hỗn hợp của nhiều tôn giáo nên khơng đủ sức
phá vỡ cơ tầng văn hóa truyền thống để xác lập vị trí độc tơn trong đời sống tâm linh của
người Việt Nam Bộ. Chính vì thế, các tín đồ của các tơn giáo bản địa vẫn duy trì việc thờ
cúng tổ tiên như các thế hệ cha ông, bên cạnh việc thực hành các quy định của giáo luật.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ trong không gian xã hội của người Việt là sự kế
14


thừa những giá trị văn hóa truyền thống, có sự cách tân, có giao lưu và tiếp biến văn
hóanhưng rõ ràng những giá trị văn hóa mới này khơng đủ sức phá vỡ cơ tầng văn hóa
truyền thống vốn đã tạo nên sức mạnh để cho tộc ngưòi Việt tồn tại và phát triển trong hơn
ngàn năm Bắc thuộc, để xác lập vị trí độc tơn, chi phối đến đời sống mọi mặt của người
Việt Nam Bộ. Tất cả các ảnh hưởng tốt kể trên đều có thể đạt được từ bản chất chân thiện
mỹ cũng như khả năng đạo đức và tâm linh đã tự sẵn có trong tâm thức con người mà
không cần sự hiện hữu của tôn giáo.
2.2.2:Những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên xã hội:
Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan tiêu
cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần chúng
chịu ảnh hưởng của tơn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh
thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng thế giới
quan của tơn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống không hành động, không đấu
tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thốt

ở bên ngồi thực tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của
tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những
cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và trở
về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ.Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến
giải thốt), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất
cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn
giáo.Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao cuộc
sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh nơ lệ, biết sợ hãi
trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tơn giáo trở thành cơng cụ phục vụ đắc lực cho
lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo không phải là của giai cấp thống
trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp.
C.Mác gọi “tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân là theo nghĩa đó và cũng vì vậy, đạo đức
tơn giáo đối lập với đạo đức chân chính.Về mặt nào đó, đạo đức tơn giáo đã tạo cho con
người thế giới quan và nhân sinh quan sai lệch, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của con người. Đạo đức tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song
đó là thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện
thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới
hiện thực, bằng lịng với số phận. khơng tích cực đấu tranh chống lại những
15


cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu
“quả báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh
phúc thực sự của mình nơi trần thế.Thêm nữa, đạo đức tơn giáo q chú trọng đến việc
hồn thiện đạo đức cá nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với
tính cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có q
trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy,
muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, khơng thể tách nó khỏi những điều kiện sinh họat vật
chất cùng các quan hệ xã hội khác của con người.C. Mác đã khẳng định rằng, “bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” và nhân cách con người cũng chỉ có thể được

hồn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thôi.Như trên đã phân tích, đạo đức tơn giáo
có nhiều điểm tích cực, phù hợp với xã hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học,
nếu chúng ta tuyệt đối hóa đạo đức tơn giáo, thổi phồng vai trị của nó. Ph.Ăngghen từng
khẳng định rằng, ngay cả một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với
đạo đức mới của chúng ta về mặt hình thức mà thơi. Vì vậy, mặc dù tơn giáo “là sự phản
kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực” nhưng rất cuộc nó vẫn chỉ là một sự phản
kháng mang tính tiêu cực, thụ động của con người mà thơi.Có thể nói, trong điều kiện hiện
nay, việc phân tích vai trị của đạo đức tơn giáo để khẳng định một cách khách quan, khoa
học những đóng góp, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng tiêu che của nó trong đời sống xã
hội là điều cần thiết. Chúng ta hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những
chuẩn mực đạo đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức
của dân tộc và hữu ích trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới.
Tóm lại những ảnh hường tiêu cực của tơn giáo tới đời sống xã hội như sau:
1/ Tôn giáo nào cũng cho rằng chỉ có họ là chính giáo, chỉ có giáo điều và “Thượng Đế”
của họ là chân lý và tối thượng. Có những tơn giáo cho rằng tất cả tôn giáo khác đều là tà
giáo, tất cả “Thượng Đế” của các tôn giáo khác là sản phẩm của sự lầm lẫn ngu tối của loài
người. Sự tranh chấp nầy đưa đến hiềm khích và chiến tranh liên tục ở mọi tầng lớp trong
lịch sử nhân loại. Đã và đang có vơ số cuộc thảm sát, giết chóc xảy ra vì lý do trực tiếp liên
quan đến tơn giáo.
2/ Tôn giáo được xây dựng dựa trên sự sợ hãi của con người. Từ đó tơn giáo trở thành một
16


công cụ hữu hiệu của thiểu số cầm quyền dùng để cai trị và kiểm soát quần chúng ở mọi
tầng lớp, từ thời xưa cổ cho đến ngay cả chính ngày hơm nay.
3/ Nhiều tơn giáo khuyến khích con người từ bỏ trí óc lý luận và suy xét để chấp nhập
những đức tin huyễn hoặc, vô căn cứ.
4/ Nhiều tơn giáo khuyến khích con người tráo chuyển trách nhiệm trong quyết định, hành
vi và hậu quả của cá nhân họ ra thành trách nhiệm của “Thượng Đế”.
5/ Nhiều tôn giáo phủ nhận giá trị và khả năng đạo đức cơ bản tự nhiên của con người.

6/ Tôn giáo không biến đổi kịp với sự tiến hóa về mặt khoa học, xã hội lẫn cả về mặt tâm
linh của con người do đó trở thành chướng ngại vật trên đường tiến hóa của nhân loại.
7/ Nhiều tơn giáo tiếp tục gìn giữ và truyền dạy những giáo điều cổ hủ, lầm lạc và vô đạo
đức (nếu so sánh với tiêu chuẩn xã hội và tâm lý ngày nay).
8/ Các tín đồ cực đoan dùng những giáo điều cổ hủ, lầm lạc và vô đạo đức trong tôn giáo
họ để làm căn bản và lý do cho các hành động độc ác. Tùy vị thế và khả năng của các
thành phần cực đoan nầy, các hành động độc ác của họ có thể có tai hại rộng lớn, lâu dài và
sâu xa đến vô số người vô can khác.
9/ Bản chất mơ hồ, phức tạp và chuyển đổi không ngừng của tơn giáo làm cho đại đa số tín
đồ khơng thể nhận ra được những bản chất tiêu cực cơ bản và quan trọng của nó. Các tổ
chức tơn giáo (các “chun viên” về tơn giáo) nếu có nhận ra được các bản chất tiêu cực
nầy đi nữa thì cũng vì quyền lợi riêng mà ém dấu hay không truyền bá chúng đến cho tín
đồ.Ví dụ:Karl Marx nổi tiếng với chủ thuyết cộng sản đẫm máu,cách so sánh của Karl
Marx về tơn giáo với thuốc phiện rất chính xác. Cái mà đại đa số chúng ta khơng nhìn thấy
là chúng ta đã mê hoặc chính chúng ta và biến mình thành nô lệ của các tổ chức tôn
giáo.Con người thường cảm thấy bất lực và vô vọng trước những sự đau khổ và hủy diệt
trong cuộc sống hàng ngày.

17


CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.Tình hình tơn giáo ở Việt Nam hiện nay:
Việt Nam có thể coi là bảo tàng về tơn giáo, tín ngưỡng của thế giới. Ở đây có đủ từ các tín
ngưỡng truyền thống như đồng, cốt, xem bài, xóc thẻ đến các tơn giáo hiện đại. Có tơn
giáo ngoại nhập như Công giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo, Baha’i. Có tơn giáo nội sinh
như Cao đài, Hồ hảo, Tứ ân hiếu nghĩa, Bửu sơn kỳ hương… Theo số liệu của Ban tơn
giáo Chính phủ năm 2011, nước ta có hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn1/4 dân số), trong đó
Phật giáo khoảng 10 triệu người, Cơng giáo 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hoà hảo 1,2 triệu,

Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.000 tín đồ. Song nếu kể các hành vi thờ cúng tổ
tiên, thành hoàng, vua Hùng… thì hầu hết người Việt có tâm linh tơn giáo.Nhà nước đã
công nhận tư cách pháp nhân của 13 tôn giáo với 33 tổ chức tôn giáo và đang xem xét hồ
sơ một số tôn giáo nữa. Sau khi Việt Nam mở cửa, hội nhập với thế giới, nhiều tôn giáo
mới đã du nhập vào. Nhiều nhất là các tổ chức đạo Tin lành đến từ Hoa Kỳ, Hàn Quốc.
Miền Nam trước giải phóng chỉ có 12 hệ phái Tin lành, nay có tới 30 phái. Tơn giáo này có
sức lơi cuốn học sinh, sinh viên và giới trẻ. Những năm trước 1990, ở phía Bắc hầu như
khơng có tín đồ Tin lành nhưng với đài “Nguồn sống” phát đi từ Hồng Kông, Manila bằng
16 thứ tiếng dân tộc và các đạo truyền nhiệt thành mà nay đã có hàng vạn người theo đạo.
Có nơi lập tơn giáo thờ anh hùng dân tộc. Cùng với việc Nhà nước cho tu sửa nhiều đình
chùa, lăng, miếu và hồi phục các lễ hội tơn giáo truyền thống trong đó có lễ hội đền Hùng
được tổ chức theo quy mô quốc gia thì nhiều nơi cũng phát sinh các hình thức mê tín dị
đoan. Rõ nhất là cảnh xin lộc rơi, lộc vãi ở đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh). Rồi xin thẻ, bói
tốn ở ngay trước cửa Phật. Chuyện chen chúc xin ấn ở hội đền Trần (Nam Định). Tại Hà
Nội (cũ), có một thống kê của Viện Nghiên cứu Tơn giáo năm 2003 nói có chừng 600 thày
bói.Nhiều tơn giáo xuất hiện cũng đồng nghĩa với sự gia tăng số lượng tín đồ các tơn giáo.
Năm 1999, ở ta có 14,7 triệu tín đồ chiếm 19,4% dân số. Năm 2001, riêng 6 tôn giáo lớn là
Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồ Hảo, Cao đài đã là 18,3 triệu tín đồ. Một số địa
phương có số lượng phát triển nhanh khơng bình thường. Tin lành ở Đắc Lắc trongcác năm
từ 1975-2001 tăng 10 lần, Gia Lai tăng 25 lần, Kon Tum tăng 4 lần. Tại Lai Châu năm
1996 có 26.419 người theo đạo Vàng Chứ, năm 2001 tăng lên 36.102 người. Tín đồ Cơng
giáo ở Tây Ngun cũng tăng mạnh. Trước năm 1975 chỉ có chưa đầy130.000 tín
18


hữu mà năm 2005 đã tới hơn 300.000. Số liệu của giáo phận Kon Tum cho biết tỷ lệ tăng
trưởng số tín hữu từ năm 1977-2001 là 17,6%. Năm 1988 là 137,7%. Có những nơi như
An Mỹ năm 1990 tăng 369,2%. Trong 9 năm (1995- 2004) tín hữu người Gia rai tăng
473%.Các tôn giáo ở Việt Nam dù khác nhau về nguồn gốc, giáo lý nhưng lại không thuần
nhất mà đan xen, vay mượn nghi lễ của nhau. Đạo Tổ tiên vừa cúng khấn như đạo Lão

nhưng chọn ngày rằm, mùng một như đạo Phật. Trên bàn thờ của đạo Cao đài có thờ đủ
Khổng Tử, Lão Tử, Đức Phật, Chúa Giêsu và Khương Tử Nha. Đạo Công giáo bây giờ
cũng thắp hương trước ảnh người quá cố và ghi điều khấn nguyện ra giấy rồi đốt đi
trước bàn thờ Đức Mẹ. Tâm lý người Việt cũng chi phối cả niềm tin tôn giáo. Trong đạo
Công giáo, Chúa là trên hết và chỉ thờ một Chúa nhưng ở Việt Nam, Đức Mẹ được sùng
bái hơn. Nhiều nhà thờ, đền thánh dâng kính Đức Mẹ. Nhiều nữ giáo dân lấy quan thày là
Maria. Phật giáo cũng thế. Phật Bà Quan âm được dựng tượng nhiều hơn và sùng bái hơn
ở các chùa chiền. Tín đồ tơn giáo này nhưng cũng tham gia nhiều sinh hoạt của tơn giáo
khác. Ví dụ, người Công giáo vẫn thắp hương ngày rằm, mùng 1 và đi xem bói.Một số tín
đồ Phật tử vẫn đến xin khấn ở các nhà thờ Công giáo.Các tôn giáo ở Việt Nam xuất hiện
sớm muộn khác nhau và đều trải qua lịch sử thăng trầm, cũng đã từng ít nhiều bị thế lực
bên ngồi chi phối nhưng có thể khẳng định, đa số đồng bào các tôn giáo ở Việt Nam có
tinh thần u nước bởi trước khi là tín đồ các tôn giáo họ đã là người Việt mang trong
mình dịng máu Lạc- Hồng. Gắn bó với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam, những yếu tố tiêu cực của tôn giáo bị hạn chế hay triệt tiêu, những yếu tố tích cực
được phát huy, triển nở. Vì vậy có thể thấy xu hướng gắn bó với dân tộc, đi với dân tộc là
xu hướng chung của các tôn giáo ở Việt Nam. Những đường hướng tốt lành của các tôn
giáo như “Sống Phúc âm giữa lịng dân tộc” của Cơng giáo, “Đạo pháp- Dân tộc- Chủ
nghĩa xã hội” của Phật giáo, “Nước vinh, đạo sáng” của Cao đài, “Sống Phúc âm phụng sự
Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc’ của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) …
là kết quả nhận thức và hành động thực tiễn lâu dài của các tơn giáo tại Việt Nam. Hơn
nữa, chỉ có gắn bó với dân tộc, văn hố Việt Nam, các tơn giáo mới có cơ hội tồn tại và
phát triển.Một xu thế của các tơn giáo hiện nay là có tính “thế tục” nhiều hơn khi chủ
trương nhập thể, đi với người nghèo, đẩy mạnh hoạt động xã hội nhưng cũng rất dễ bị
thương mại hoá, vận động quyên cúng quá nhiều, phát hành nhiều “bằng ghi công đức” …
Chùa chiền, nhà thờ bây giờ xây dựng to, màu sắc xanh đỏ, tơ vàng, dát bạc nhưng ít
19


tính nghệ thuật, nhất là ít mang bản sắc văn hố dân tộc.

3.2.Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ XI, vấn đề tơn giáo được đề cập trong mục X: “Phát huy sức mạnh đoàn kết
tồn dân tộc”, trong đó Đảng ta khẳng định: "Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời,
đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan
tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ
chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật”. Như vậy,
chúng ta thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc khơng theo tơn giáo của công dân. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động
theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Hơn ai hết, đồng bào các tôn giáo Việt Nam hiểu
rất rõ rằng “Tổ quốc có độc lập, tơn giáo mới tự do”. Đạo và đời ngày càng gắn bó, “Tốt
đời đẹp đạo” là mục tiêu và cũng là đạo lý của tất cả các tôn giáo ở Việt Nam.Những quan
điểm cơ bản về tôn giáo nêu trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI vừa có sự kế thừa, vừa
có sự phát triển để tiếp tục lộ trình đổi mới tư duy về tơn giáo của Đảng. Sự nghiệp đổi
mới đất nước được bắt đầu từ Đại hội VI, và đổi mới về lĩnh vực tôn giáo thật sự bắt đầu
từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) Nghị quyết chỉ rõ: “Đảng và
Nhà nước ta tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện bình đẳng, đồn kết lương giáo và giữa các tơn giáo”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của
khối đại đoàn kết dân tộc".Vấn đề tơn giáo được nêu trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI đã làm rõ nét hơn lộ trình đổi mới tư duy của Đảng về vấn đề tự
do tín ngưỡng, tơn giáo. “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn
kết dân tộc. Sự tồn tại, hoạt động của các tín ngưỡng, tơn giáo làm phong phú bộ mặt văn
hóa tinh thần của đất nước. Tuyệt đại đa số tín đồ, chức sắc, chức việc tơn giáo đều thể
hiện xu hướng đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết, chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước”.
Đa phần người Việt Nam đều theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và cùng với nhiều phong
tục, lễ hội văn hố khác nhau. Sự đan xen, hồ đồng nhiều tín ngưỡng, tơn giáo là một
trong những nét văn hố, đặc trưng của đời sống tự do tín ngưỡng, tơn giáo ở nước ta.

20


Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân; thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết lương-giáo và
giữa các tơn giáo; khắc phục thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có
đạo, chống mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm lợi dụng
tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách
của Nhà nước, kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia và ngăn
chặn mọi hành vi lợi dụng tơn giáo phá hoại độc lập và đồn kết dân tộc.Nhờ có chính
sách tơn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta và việc chấp hành Hiến
pháp, pháp luật Nhà nước của những người có đạo và khơng có đạo, của các tổ chức tôn
giáo, nên hoạt động của các tôn giáo trong những năm qua cơ bản tuân thủ đúng pháp luật;
phần lớn chức sắc, tín đồ của các tơn giáo tin tưởng và thực hiện đúng chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo. Các tơn giáo thực hiện khá nghiêm
túc việc đăng ký lịch sinh hoạt tôn giáo hằng năm; các chức sắc, phật tử tích cực tham gia
các phong trào do chính quyền các cấp phát động, như: xóa đói, giảm nghèo, xây dựng gia
đình văn hóa, cứu trợ đồng bào bị lũ lụt, đấu tranh ngăn ngừa các tệ nạn xã hội,... góp phần
vào thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của địa phương và góp phần củng cố khối
đại đồn kết tồn dân tộc. Nhờ có chính sách tơn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta,
hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều được sửa chữa, tu bổ lại. Những cơ sở thờ tự
được xếp hạng di tích - lịch sử văn hóa được tôn tạo, bảo vệ. Các hộ dân lấn chiếm di tích
đã được các địa phương và Nhà nước cấp kinh phí để di dời. Nhờ phương châm Nhà nước
và nhân dân cùng làm, rất nhiều cơ sở tôn giáo được thay đổi, trở thành các điểm sinh hoạt
văn hóa sơi động, hình thành các điểm giao lưu của tín đồ.Tuy nhiên, bên cạnh đó, tình
hình tơn giáo vẫn nổi lên một số vấn đề đáng quan tâm. Những năm gần đây, được sự dung
dưỡng của các thế lực thù địch nước ngoài, một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo lấy
cớ hoạt động tôn giáo để nhen nhóm các tổ chức phản cách mạng, tập hợp lực lượng phản
động, tổ chức tán phát tài liệu chống Đảng và Nhà nước ta; lơi kéo, kích động quần chúng
tín đồ trong vùng đồng bào theo đạo gây áp lực, địi u sách, gây rối an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã hội trên diện rộng ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước, làm cho tình hình an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội ở một số địa phương có lúc rất căng thẳng,mục tiêu
quan điểm của Đảng về chính sách tơn giáo trong tình hình mới cần tiến hành một số giải
pháp sau:
21


Một là, nắm vững và thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo theo đúng quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta; tích cực nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành,
của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội đối với cơng tác tơn giáo trong tình hình mới.
Chính sách tơn giáo là vấn đề lớn và hệ trọng, tác động sâu sắc đến đời sống tâm linh, sinh
hoạt văn hố, tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội của từng địa phương và của
cả nước. Giải quyết đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp những vấn đề có liên quan
đến tơn giáo đều ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội
của quốc gia và từng địa phương.Coi trọng công tác tuyên truyền, vận động và tạo điều
kiện thuận lợi để đồng bào theo đạo thực hiện tốt bổn phận công dân sống tốt đời, đẹp đạo
và hoạt động đúng pháp luật. Qua đó, tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
các dân tộc, kiên quyết đấu tranh, đập tan những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta,
bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trong mọi tình
huống.Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng, tơn
giáo, tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo với chính sách đại đồn kết dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta.Vấn đề tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại ở nhiều cấp độ
(quốc tế, quốc gia, nội bộ từng dân tộc), xuất phát từ bản chất xã hội của tôn giáo, nên khi
giải quyết cần đảm bảo mối quan hệ đồng bộ trong thực hiện chính sách dân tộc và chính
sách tơn giáo. Quan tâm giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của quần chúng, đồng
thời phải làm cho quần chúng nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng
tôn giáo phục vụ mưu đồ phá hoại sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tơn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng, tự do theo đạo và khơng theo đạo của mọi
công dân; nghiêm cấm việc ép buộc đồng bào theo đạo hoặc bỏ đạo. Hướng dẫn các chức

sắc tôn giáo hoạt động đúng theo hiến chương, điều lệ của giáo hội và tuân thủ các quy
định của pháp luật. Ba là, tích cực chăm lo xây dựng củng cố hệ thống chính trị các cấp,
nhất là ở cơ sở vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

22
KẾT LUẬN


×