Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

SƠ đồ cấu TRÚC của HOẠT ĐỘNG và ỨNG DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TU tập của SINH VIÊN (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.09 KB, 17 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài:
SƠ ĐỒ CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG VÀ ỨNG DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG TU TẬP CỦA SINH VIÊN

Giáo viên hướng dẫn: ThS. Ngô Minh Duy
Sinh viên thực hiện:
Pháp danh:
Mã sinh viên: PHTX
Lớp: ĐTTX Khóa VII
Chuyên ngành: Triết học phật giáo


Tp.HCM, năm 2022

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài:

SƠ ĐỒ CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG VÀ ỨNG DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG TU TẬP CỦA SINH VIÊN
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Ngô Minh Duy
Sinh viên thực hiện:
Pháp danh:


Mã sinh viên: PHTX
Lớp: ĐTTX Khóa VII
Chuyên ngành: Triết học phật giáo

Tp.HCM, năm 2022
GVHD: ThS. Ngô Minh Duy

Tâm Lý Học Đại Cương


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................

Ngày….tháng…năm 2022
ThS. Ngô Minh Duy


MỤC LỤC
A.
B.


Lời mở đầu
Nội dung

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT BỘ MÔN TÂM LÝ
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu của tâm lý học............................................................2
1.2. Khái niệm về tâm lý học.......................................................................................2
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA HOAT ĐỘNG
2.1. Các khái niệm.......................................................................................................3
2.2. Cấu trúc tâm lý của hoạt động..............................................................................3
CHƯƠNG 3:ỨNG DỤNG CỦA CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG TRONG
HOẠT ĐỘNG TU TẬP
3.1. Động cơ học tập....................................................................................................5
3.2. Mục đích học tập..................................................................................................5
3.3. Điều kiện học tập.................................................................................................6
3.4. Phương thức, đơn vị thực hiện hoạt động học của sinh viên..............................9
C. Kết luận..............................................................................................................12
D. Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................................13


A. LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Sau một thời gian học tập và tìm hiểu về bộ mơn tâm lý học, tôi đã hiểu và tiếp thu
được một số khái niệm, nhận ra tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của tâm lý học.
Tâm lý học ln có một vị trí to lớn trong cuộc sống và hoạt động con người. Có thể
nói rằng mọi thời kì lịch sử, mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều có sự đóng góp của
tâm lý học. Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hành vi, tinh thần và tư tưởng
của con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động). Tâm lý học cũng chú
tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái tâm lý và các yếu tố bên
ngoài lên hành vi và tinh thần của con người. Có thể nói tâm lý học giúp tôi nhận thức
tốt hơn về con người cũng như trong cuộc sống ngày nay, đặc biệt là trong đời sống

tình cảm và đó là một trong số nội dung trong bộ môn này đem lại, cũng là phần tơi
cảm thấy thích thú nhất trong q trình học. Đó cũng là lý do yếu điểm mà học viên
chọn đề tài “ sơ đồ cấu trúc của hoạt động tu tập của bản thân mình, phân tích các
thành tố trong sơ đồ trên và mối liên hệ giữa các thành tố đó”.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên chọn nghiên cứu với phương pháp chất lượng (Qualitative Method) giúp
chúng tôi nghiên cứu tìm hiểu về tâm lý của con người trong xã hội qua thu thập dữ
liệu và tìm hiểu các cá thể, sự kiện tác động tâm lý để rút ra nhiều khía cạnh tâm lý
phong phú khác nhau, kết hợp phương pháp phân tích (Anlytical Methold).
3.Nội dung nghiên cứu:
Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu sơ đồ cấu trúc hoạt động của con
bản thân trân bình diện cơ bản nhất.
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung,Nội dung gồm 03 chương
Phần kết luận & Tài liệu tham khảo

1


A. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT BỘ MÔN TÂM LÝ
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu của tâm lý học
Thời kỳ cổ đại ,trong các di chỉ ở Ấn Độ,Ai Cập,Trung Hoa có quan điểm về
hồn,phách sau cái chết của thể xác.Đến cuối thế kỷ thứ 4:Arixtốt(nhà triết học thời kỳ
Hy Lạp cổ đại) cho rằng tâm hồn gắn với thể xác,có ba hồn:hồn dinh dưỡng,hồn cảm
giác & hồn suy nghĩa.Cuối thế kỷ thứ 16 đầu thế kỷ 17 ,R.Đềcác cho rằng vật
chất&tâm hồn là hai thực thể song song tồn tại.Đến đầu thế kỷ 18,nhà triết học Volt
(người Đức) là người sử dụng cụm từ tâm lý học.Năm 1879 các nhà triết học tách

triết học tâm lý học thành ngành độc lập ,cũng trong năm này nhà tâm lý học Wilhelm
Wundt (1832-1920) sinh tại Neckarau.Ơng đã sáng lập phịng thí nghiệm tâm lý đầu
tiên trên thế giới Phịng thí nghiệm Wilhelm Wundt trở thành mơ hình mà theo đó các
tổ chức tương tự được tạo ra tại các trường đại học khác ở các khu vực khác nhau trên
toàn cầu.Đầu tiên, cô tập hợp tất cả những người muốn học tâm lý học và triết học tại
các trường đại học ở Đức, sau đó chuyển thành một trung tâm dành cho sinh viên tốt
nghiệp từ Mỹ và Anh, những người quan tâm đến nghiên cứu khoa học tâm lý.Sau đó,
Phịng thí nghiệm Tâm lý của Wilhelm Wundt trở thành Viện Tâm lý học Thực
nghiệm (nguyên mẫu của các viện nghiên cứu hiện đại).
1.2. Khái niệm về tâm lý học
Theo tiếng Latinh, “Psyche” có nghĩa là “linh hồn”, “tinh thần”. “Logos” là “học
thuyết”, “khoa học”. Tâm lý học (Psychology) có nghĩa là khoa học về tâm hồn. Như
vậy, chúng ta có thể hiểu một cách ngắn gọn, Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về
hành vi và những quá trình tinh thần. Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hành
vi, tinh thần và tư tưởng của con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành
động). Tâm lý học cũng chú tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái
tâm lý và các yếu tố bên ngoài lên hành vi và tinh thần của con người. Ngành này tập
trung vào loài người, tuy một vài khía cạnh của động vật cũng thỉnh thoảng được
nghiên cứu. Động vật ở đây có thể được nghiên cứu như là những chủ thể độc lập,
hoặc – một cái nhìn gây tranh cãi hơn – được nghiên cứu như một cách tiếp cận đến sự
hiểu biết bộ máy tâm thần của con người (qua tâm lý học so sánh). Tâm lý học được
định nghĩa một cách rộng rãi như là “khoa nghiên cứu những hành vi và những tiến
trình tâm thần của con người”. Tâm lý học vừa được nghiên cứu một cách khoa học
lẫn phi khoa học.Tâm lý học chủ đạo ngày nay đa phần đặt nền tảng trên thuyết thực
chứng, thơng qua những phân tích định lượng và sử dụng những phương pháp khoa
học để thử và bác bỏ những giả thuyết. Tâm lý học có khuynh hướng chiết trung, sử
dụng và tiếp thu kiến thức thu thập được từ nhiều ngành khoa học khác để hiểu và lý
giải hành vi của con người.
2



CHƯƠNG 2
CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA HOAT ĐỘNG
2.1. Các khái niệm
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người với thế giới xung
quanh, hướng tới biến đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong q trình đó,
con người ln tích cực sáng tạo tác động vào thế giới khách quan, tạo sản phẩm về
phía thê giới và tạo ra tâm lý của chính mình.Cấu trúc tâm lý của hoạt động là phương
thức hoạt động bao gồm 6 thảnh tố: động cơ, mục đích, điều kiện, hoạt động, hành
động, thao tác. Hoạt động luôn được thúc đẩy bởi động cơ, hoạt động bao gồm nhiều
hành động khác nhau, mỗi hành động hướng tới nhiều mục đích, tập hợp các mục đích
đó thỏa mãn động cơ. Trong hành động có nhiều thao tác, thao tác được thực hiện
thông qua các phương tiện.
2.2. Cấu trúc tâm lý của hoạt động
Cấu trúc tâm lý của hoạt động được nhà tâm lý học người Nga A.N.Lê-on-chep (19031929) mô tả qua một ví dụ về một q trình lao động tập thể của những người đi săn
từ thời xa xưa: nhóm này đuổi thú, nhóm kia bắt thú, nhóm khác làm thức ăn, áo
mặc… Khi tạo ra sản phẩm cuối cùng, có thể thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống từng
thành viên tập thể, người này có quan hệ trực tiếp, người kia có quan hệ gián tiếp.
Nhưng cuối cùng mọi người đều được hưởng thức ăn, áo mặc, những cái này là cụ thể
hóa nhu cầu của họ và cũng chính là động cơ hoạt động của cả nhóm, cũng như của cá
nhân. Ở đây ta có một bên là hoạt động, một bên là động cơ. Hoạt động hợp bởi các
hành động. Cái mà hành động nhằm tới gọi là mục đích. Có thể coi động cơ là mục
đích chung, cịn mục đích mà hành động đạt tới là mục đích bộ phận. Hoạt động của
tập thể người đi săn nói trên có mục đích chung là kiếm thức ăn. Mục đích cụ thể của
nhóm thứ nhắt chỉ là đuổi thú về, nhóm thứ hai là bắt thú, nhóm thứ ba làm thịt…Có
thể coi mục đích chung là động cơ xa, mục đích bộ phận là động cơ gần. Ở đây ta có
một bên là hành động, một bên là mục đích.Hành động bao giờ cũng nhằm giải quyết
một nhiệm vụ cụ thể nhất định, nhiệm vụ này chính là mục đích được đặt ra trong
những điều kiện cụ thể nhất định, tức là mục đích bộ phận phải được cụ thể hóa thêm
một bước nữa, sự cụ thể hóa này được quy định bới các điều kiện cụ thể nơi diễn ra

hành động. Từ đây cũng xá định phương thức để giải quyết nhiệm vụ.Các phương
thức này gọi là thao tác. Ở đây ta có một bên là thao tác, một bên là điều kiện khách
quan cụ thể (phương tiện).Qua phân tích trên, cấu trúc tâm lý của hoạt động có thể
được mơ tả bằng sơ đồ sau:

3



Chủ thể : người học, học viên.

Hoạt động cụ thể : học, ghi nhớ, ơn tập

Hành động : lắng nghe, tư duy, ghi chép…

Thao tác : di chuyển tay, cúi đầu…

Phương tiện : tài liệu, giáo trình…

Mục đích : học để có tri thức

Khách thể : giáo viên

động cơ : hiểu biết và vận dụng

mục đích: khơi gợi tiềm năng người học, đóng góp

hoạt động cụ thể : soạn bài, giảng, tổ chức lớp học…

Phương tiện : giáo án, máy tính, máy chiếu…


Sản phẩm : tri thức, kinh nghiệm.
Sơ đồ trên thể hiện quan hệ qua lại giữa động cơ và mục đích, giữa động cơ chung –
động cơ riêng, giữa mục đích chung và mục đích cụ thể. Mối quan hệ này nảy sinh từ
hoạt động. Chính q trình hoạt động của con người tạo nên mối quan hệ qua lại giữa
động cơ và mục đích. Sự nảy sinh và phát triển của mối quan hệ này chính là sự xuất
hiện và phát triển của tâm lí ý thức nhân cách.Từ những phân tích trên cho thấy, trong
cấu trúc hoạt động có sáu yếu tố và chia thành hai hàng:Hàng thứ nhất là động cơ –
mục đích – điều kiện, thể hiện nội dung, tính chất của hoạt động.Giữa các yếu tố trên
có mối quan hệ với nhau.Động cơ được cụ thể hóa thành các mục đích.Mục đích lại
quy định việc lựa chọn đối tượng tác động mà từ đó ảnh hưởng đến việc xác định điều
của hoạt động.Hàng thứ hai là hoạt động – hành động – thao tác, thể hiện phương thức
và các đơn vị thực hiện hoạt động.Một hoạt động được thực hiện bởi nhiều hành
động.Một hành động lại được tiến hành bằng nhiều thao tác.
4


CHƯƠNG 3
ỨNG DỤNG CỦA CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG TRONG HOẠT
ĐỘNG TU TẬP
3.1. Động cơ học tập
Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động học.Nói đến
hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động cơ học tập.Hoạt
động học với chủ thể là sinh viên, còn đối tượng của nó là những tri thức kinh
điển,giáo lý,phương pháp tu tập như chỉ quán.., với mục tiêu cuối cùng là thấy pháp
thể nhập pháp an lạc và giác ngộ giải thoát cho người học. Sinh viên khi tiến hành
hoạt động học, chiếm lĩnh tri thức ,kiến thức phật học thì tri thức ,trí tuệ dần dần thúc
đẩy tiếp tục quá trình tu tập(văn,tư ,tu). Động cơ của hoạt động học tập ở sinh viên
được hiện thân ở những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà giáo dục ở nhà trường mang lại.
Đặc biệt, đối với sinh viên, động cơ học tập được chia thành hai loại: động cơ hoàn

thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội. Thuộc về loại động cơ hồn thiện tri thức ở
đây là lịng ham mê, khát khao mở rộng tri thức, say mê với những môn học… Hoạt
động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này, không chứa những mâu thuẫn bên trong
và nó địi hỏi phải có những nỗ lực ý chí để đạt được nguyện vọng chứ khơng phải
hướng vào đấu tranh với chính bản thân mình. Động cơ quan hệ xã hội đó là sự
thưởng phạt hoặc đe doạ, những áp lực gia đình, nhà trường, cơng việc, danh vọng
hoặc mong đợi sự hạnh phúc… ở mức độ nào đó đối với sinh viên, động cơ này mang
tính cưỡng bách, và có lúc xuất hiện như một vật cản cần khắc phục để vượt qua đạt
được mục đích của mình. Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một
động cơ nhất định. Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó
( tức là đối tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ
hoàn thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học tập.Khi động cơ hồn thiện tri
thức được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả
mãn. Cả hai loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn
cảnh cụ thể, tùy điều kiện của sinh viên mà động cơ này hay động cơ kia trở nên
chiếm ưu thế.
3.2. Mục đích học tập
Mục đích được hiểu là cái mà hành động đang diễn ra hướng tới.Với sinh viên, động
cơ thúc đẩy học tập và tiến hành dưới các hoạt động học.Mục đích của hoạt động học
sinh viên hướng tới là các khái niệm, giá trị, chuẩn mực… trong từng cử chỉ,oai nghi
tế hạnh của người xuất gia cụ .Mục đích hình thành bắt đầu từ các phương pháp tu tập
chân chính dần tinh tấn tu tập trong đời sống.Đặc trưng trong học tập của học sinh,
sinh viên là ở chỗ: khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng tác động
mà thay đổi chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các kiến thức phật học,
hình thành những kỹ năng, kỹ xảo, phát triển những phẩm chất nhân cách người xuất
gia . Xuất gia theo nghĩa đen là ra khỏi nhà. Nhưng đầy đủ thì xuất gia mang ba ý
nghĩa chính

5



1. Xuất thế tục gia: chỉ cho người đó quyết lịng vứt áo ra đi, từ bỏ những tình cảm,
những lịng thương u thân bằng quyến thuộc của mình, chấp nhận ra đi và ra đi tìm
đạo, chân lý, con đường chân lý, hay để phụng sự.
2. Xuất phiền não gia: là qua quá trình tu tập người này đã điều phục được tất cả phiền
não: tham, sân, si, ích kỷ, đố kỵ, thù hận, ghen tuông, thủ đoạn, lừa đảo, mánh mung,
… tất cả những thói hư tật xấu này, mà người tu tập cần phải điều phục.
3. Xuất tam giới gia: Và khi đã chấm dứt mọi phiền não vượt ra ngoài sự chi phối,
ràng buộc của ba cõi: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Đây là những từ ngữ chun mơn
có phân tích thì cũng mơ hồ lắm, nhưng đại khái để giải thoát ra khỏi cuộc đời này, cái
đó gọi chung là xuất tâm giới gia.
Tu là một con đường hy sinh, không trốn chạy ai cả. Ở đây không ai thiếu nợ mà đi tu,
cũng khơng ai tệ bạc gì lắm mà đi tu, cũng khơng ai trốn chạy được điều gì, nhưng cơ
bản nhất là trước hết muốn đi tu người đó phải hy sinh.Người đi tu trước hết là hy sinh
cho gia đình, hy sinh tình cảm riêng, hy sinh nguồn hy vọng của gia đình và bên cạnh
đó phải đủ bản lĩnh hy sinh tất cả nhu cầu riêng tư của bản thân. Có phải người tu là
hy sinh tất cả những nhu cầu của bản thân không? Người tu ăn cái gì? Mặc gì? Nhu
cầu của nhà tu là cái gì? Như vậy chúng ta thấy rằng phải hy sinh nhu cầu của bản
thân.Thậm chí về mặt tình cảm cũng phải kiềm chế những tình cảm riêng của bản thân
rất là cơ bản của con người. Đừng nghĩ một nhà tu khơng có tình cảm, cả cuộc đời này
ngồi người điên và bậc chứng thánh khơng ai khơng có tình cảm cả nhưng nếu là một
nhà tu phải biết kiềm chế tình cảm riêng để vì cái chung, và qua quá trình tu hành phải
đủ bản lĩnh vượt qua những nhu cầu của bản năng càng sớm càng tốt, có khả năng tự
chủ mình càng cao càng hay. Chứ đừng nói đi tu khơng có tình cảm. Khi Thái tử Tất
Đạt Đa chứng kiến cảnh đau khổ thường tình của kiếp nhân sinh khi dạo bốn cửa
thành, Thái Tử đã xin phép vua cha xuất gia nhưng bị ngăn cản. Người đã ra bốn điều
kiện nếu cha đáp ứng được sẽ khơng đi tu. Đó là:
Làm sao cho con trẻ mãi không già.
Làm sao cho con mãnh mãi không đau.
Làm sao cho con sống hồi khơng chết.

Làm sao cho mọi người hết khổ.
Cho nên vì vậy đức Phật đi tu đầu tiên vì tình yêu thương rộng lớn, đầu tiên Ngài phải
hy sinh tình cảm cá nhân của ngài. Tổ Quy Sơn từng dạy: “Phù xuất gia giả, phát túc
siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, trấn nhiếp ma quân, dụng báo
tứ ân, bạt tế tam hữu”.Phù xuất gia giả: phàm là người xuất gia, hễ là người xuất
gia.Phát túc siêu phương: giở chân cất bước đến một chân trời cao rộng.Tâm hình dị
tục: thân tâm này phải khác người đời, tâm thì khơng thấy được nhưng thân này có
khác người đời chưa? Nhìn đầu, nhìn áo là biết khác rồi.Thiệu long Thánh chủng: nối
tiếp theo hạt giống, hay con đường của các bậc Thánh.Trấn nhiếp ma quân: nhiếp
phục các cái xấu, cái dỡ, cái tệ, cái ma quân.Dụng báo tứ ân: để đền đáp bốn ân: tam
bảo, cha mẹ, quốc gia, đàn na thí chủ.Bạt tế tam hữu: cứu tất cả mn lồi Như vậy
chúng ta thấy người xuất gia là con người bước đi một con đường cao rộng, một con
đường sống vì tất cả mọi người, một con đường bắt đầu bước vào cuộc hy sinh mà
khơng có những nhu câu riêng cho bản thân mình. Đó là một con người đạo đức, giàu
lịng vị tham thương yêu chúng sanh mà chúng ta phải trân trọng, kính mến và ủng hộ
bước đường tu tập của họ.
3.3. Điều kiện học tập
6


Điều kiện đóng một vai trị quan trọng trong hoạt động học tập.Nếu khơng có các điều
kiện học tập bên ngoài như tài liệu, dụng cụ học tập, sự giảng giải của thầy cơ… và sự
vận động của chính bản thân người học thì sinh viên khó có thể tự mình tiến hành các
hoạt động tái tạo tri thức. Và kể cả đủ các điều kiện ấy thì sau khi ra trường hoạt động
học tập của sinh viên vẫn được tiếp tục dưới hình thức này hay hình thức khác. Trong
q trình cần cầu “vơ thượng an ổn khỏi các khổ ách”- Niết-bàn, người xuất gia
thường khi cần phải xét đến việc tìm kiếm một nơi chốn tu học tương đối thích hợp và
thuận lợi cho mục tiêu tiến bộ tâm linh của mình. Kinh Thánh cầu
(Ariyapariyesanasutta) mơ tả rằng ngay sau khi chia tay năm người bạn đồng tu khổ
hạnh, Đức Gotama tuần tự du hành đến tụ lạc Uruvela ở Gayà. Tại đây, Ngài thấy một

địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sơng trong sáng chảy gần, với một
chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực.
Ngài tự nhủ: “Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông
trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc
bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết
tinh cần có thể tinh tấn” . Và Ngài quyết định dừng lại ở đây để tinh tấn tu hành. Về
sau, vùng đất này trở thành Thánh địa của đạo Phật với tên gọi Boddhgayà, một địa
danh nổi tiếng đánh dấu chỗ Đức Phật quyết định dừng chân tu tập và chứng đạo.
Thông tin trên cho hay Đức Phật đã tìm thấy một nơi chốn được xem là “lý tưởng”
cho sự tu tập của mình. Đó là một mơi trường tương đối hội đủ các điều kiện thuận lợi
đưa đến sự thành công của Ngài về phương diện tu tiến tâm linh. Tại đây, có làng mạc
bao bọc chung quanh rất tiện cho Ngài đi khất thực mỗi ngày, lại có cảnh quan thiên
nhiên thích hợp cho việc tu thiền, hai yếu tố ngoại duyên được xem là căn bản và cần
thiết cho sự thực hành đạo giải thoát. Cố nhiên, Ngài đã lưu trú tại đó để tinh tấn tu
thiền trong thời gian 49 ngày và sau cùng thì chứng đắc đạo quả giác ngộ. Xuất phát
từ kinh nghiệm tu chứng của bản thân, Đức Phật mong sao cho các học trò mình có
được một mơi trường thuận lợi cho sự nghiệp tu học đạo lý giác ngộ. Theo kinh
nghiệm của Ngài thì một mơi trường tu học thuận lợi khơng chỉ là sự thoải mái tiện
ích về đời sống vật chất mà quan trọng hơn là phải đáp ứng yêu cầu tiến triển về đạo
đức và giải thoát tâm linh cho con người trong khi sinh hoạt ở đó. Vì vậy, bên cạnh
việc nỗ lực kiến tạo các môi trường tu học có các điều kiện sinh hoạt thuận tiện như
thiết lập các tinh xá có khoảng cách khơng xa các thị trấn hay thôn làng, Đức Phật
quan tâm rất nhiều đến cơng tác giảng dạy và xây dựng chương trình tu học cho các
Tỷ-kheo ở trong các cơ sở như vậy. Phật chủ trương kiến tạo môi trường thực nghiệm
tâm linh cho nhân thế bằng cách khai sáng giới đức, tâm đức, tuệ đức ở trong lòng
mọi người, nhấn mạnh rằng ở đâu có giới-định-tuệ chói sáng thì ở đó có hiểu biết, có
tình thương, có tự do, giải thốt, có hạnh phúc và an lạc. Ngài đánh giá cao một mơi
trường tu học có đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, nghĩa là nơi
nào có các Thánh giả giác ngộ lưu trú hành đạo ; vì ở đấy những ai chưa đầy đủ giới
hạnh sẽ được học tập đầy đủ giới hạnh; chưa đầy đủ thiền định sẽ được học tập đầy đủ

thiền định; chưa đầy đủ trí tuệ sẽ được học tập đầy đủ trí tuệ; chưa đầy đủ giải thốt sẽ
được học tập đầy đủ giải thoát; chưa đầy đủ giải thoát tri kiến sẽ được học tập đầy đủ
giải thoát tri kiến . Do tính chất hạn chế nhất định của các pháp ở thế gian (người, vật,
môi trường…), Ngài cho phép các Tỷ-kheo tự tìm kiếm nơi cư trú tu học thích hợp
của riêng mình nhưng nhắc nhở họ phải biết xem xét cân nhắc cho thật kỹ các điều

7


kiện ở trong đó để có sự lựa chọn thích đáng. Ngài nêu ra bốn mơi trường tu học có
các điều kiện khác nhau:
1. Một môi trường vừa thiếu thốn về vật chất vừa không thuận lợi cho sự tu tiến tâm
linh.
2. Một môi trường đầy đủ về vật chất nhưng không thuận lợi cho sự tu tiến tâm linh.
3. Một môi trường thiếu thốn về vật chất nhưng thuận lợi cho sự tu tiến tâm linh.
4. Một môi trường vừa đầy đủ về vật chất vừa thuận lợi cho sự tu tiến tâm linh.
Chúng ta học gì được qua lòng từ bi của Đức Phật?Người xuất gia nên suy xét cân
nhắc như thế nào về bốn môi trường vừa nêu để có sự quyết định xác đáng về nơi
chốn tu học của mình? Sau đây là các phân tích mang tính gợi ý của Đức Phật:“Chư
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này,
các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được
định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hồn tồn đoạn trừ khơng được hồn tồn đoạn trừ,
vơ thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và
những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y
phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được
một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ: “Ta sống tại khu
rừng này; khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không được an trú,
tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hồn tồn
đoạn trừ khơng được hồn tồn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa
được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà

một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy phải từ bỏ ngôi rừng ấy, không được ở lại, ngay lúc ban ngày hay lúc ban đêm.Chư
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này,
các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được
định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hồn tồn đoạn trừ khơng được hồn tồn đoạn trừ,
vơ thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và
những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y
phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được
một cách khơng khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: “Ta
sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú không
được an trú… những vật dụng này kiếm được một cách khơng khó khăn. Nhưng
khơng phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình sống khơng gia đình, khơng phải
vì đồ ăn khất thực… khơng phải vì sàng tọa… khơng phải vì dược phẩm trị bệnh mà
ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống khơng gia đình. Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng
này, các niệm chưa được an trú không được an trú… vô thượng an ổn, khỏi các ách
phược không được chứng đạt”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này,
phải từ bỏ ngơi rừng ấy, không được ở lại. Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một
khu rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú,
tâm tư chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ
được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt
được chứng đạt, nhưng những vật dụng cần thiết cho đời sống một người xuất gia cần
phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật
này kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như
sau: “Ta sống tại khu rừng này. Khi ta sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an
8


trú được an trú… vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được
chứng đạt… những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn. Nhưng khơng phải vì

y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống khơng gia đình, khơng phải vì món ăn khất
thực… khơng phải vì sàng tọa… khơng phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống khơng gia đình. Nhưng trong khi ta ở tại khu rừng này, các niệm
chưa được an trú được an trú… vô thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được
chứng đạt được chứng đạt”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy chỉ với suy tính này, phải ở
lại khu rừng ấy, không được bỏ đi.Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống tại một khu
rừng nào. Tỷ-kheo sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm
chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hồn tồn đoạn trừ được
hồn tồn đoạn trừ, vơ thượng an ổn, khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được
chứng đạt, và những vật dụng cần thiết… kiếm được một cách khơng khó khăn. Chư
Tỷ- kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy nghĩ như sau: “Ta sống tại khu rừng này. Khi ta
sống tại khu rừng này, các niệm chưa được an trú được an trú… vô thượng an ổn, khỏi
các ách phược chưa chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng này cần thiết…
kiếm được một cách không khó khăn”. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải ở lại khu rừng
cho đến trọn đời, khơng được rời bỏ”. Nhìn chung, các phân tích ở trên cho thấy
người xuất gia có quyền chọn cho mình một nơi chốn tu học nhưng cần phải phân biệt
rõ loại mơi trường nào khơng thích hợp với lý tưởng tu học của người xuất gia và loại
môi trường nào là thật sự cần thiết cho mục tiêu tu học của mình. Hai mơi trường đầu
hẳn nhiên là khơng thích hợp cho người xuất gia lưu trú tu học, vì chúng khơng giúp
cho người xuất gia thăng tiến về tâm đức và tuệ đức (các niệm chưa được an trú không
được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh), không giúp cho người
xuất gia đoạn trừ lậu hoặc, chứng đắc Niết-bàn (vô thượng an ổn khỏi các khổ ách).
Chỉ có hai mơi trường sau mới thật sự thích hợp và cần thiết cho người xuất gia lưu
trú, vì chúng đáp ứng mục tiêu tu học của người xuất gia, nghĩa là có khả năng giúp
cho người xuất gia phát triển chánh niệm, chánh định, hướng đến đoạn trừ lậu hoặc,
chứng đắc Niết-bàn, nếu sống tu học ở đó. Điều đáng chú ý là trong việc lựa chọn môi
trường hay nơi chốn tu học, người xuất gia phải luôn luôn ý thức rõ về lý tưởng tu học
của mình và phải đặt mục tiêu giải thoát lên hàng đầu. Lẽ tất nhiên, người xuất gia
khơng phải vì mục đích của cải vật chất mà xuất gia học đạo; do đó, một mơi trường
tu học đầy đủ hoặc thiếu thốn về vật chất không phải là điều đáng bận tâm nhiều đối

với vị ấy. Đức Phật cũng từng khuyên nhắc các Tỷ-kheo phải thừa tự Pháp của Ngài,
chớ có thừa tự tài vật .Chính vì vậy mà yếu tố đáng cân nhắc nhiều nhất là xem mơi
trường đó có thực sự giúp cho người xuất gia thăng tiến về giới đức, tâm đức, tuệ đức,
giải thốt và giải thốt tri kiến đức hay khơng. Nếu một môi trường mà hội đủ cả hai
yếu tố, nghĩa là vừa thoải mái về mặt vật chất vừa có khả năng giúp cho người xuất
gia phát triển về giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoát và giải thốt tri kiến đức, thì đó
là mơi trường tối ưu mà theo lời Phật thì người xuất gia phải sống ở đó mà tu học cho
đến trọn đời, khơng được bỏ đi, dầu có bị xua đuổi.Giả sử một mơi trường có khả
năng giúp cho người xuất gia tiến triển về giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoát và giải
thốt tri kiến đức nhưng lại khó khăn thiếu thốn về vật chất thì người xuất gia cần phải
kham nhẫn ở lại đó mà tu học, khơng nên rời bỏ; vì mục đích tu học của người xuất
gia là tăng trưởng giới đức, tâm đức, tuệ đức, thực chứng giải thốt và giải thốt tri
kiến đức, chứ khơng phải vì lý do sinh sống hàng ngày.
3.4. Phương thức, đơn vị thực hiện hoạt động học của sinh viên
9


Phương thức, đơn vị thực hiện hoạt động học tập của sinh viên được thể hiện bằng
hoạt động, hành động và thao tác theo như sơ đồ cấu trúc chung của hoạt động. Như
đã nói ở trên, hoạt động học dưới cái nhìn của tâm lý học là những hoạt động nhằm
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, hình thành ở cá nhân kiến thức phật học, năng lực cá
nhân phù hợp thực tiễn.Hoạt động học được động cơ thúc đẩy và được tiến hành bởi
nhiều hành động. Trong các hành động lại được thực hiện bằng nhiều thao tác khác
nhau (động tác được thực hiện theo một trình tự giới –định- tuệ).Đối với việc học của
một sinh viên, động cơ hoàn thiện tri thức hay động cơ quan hệ xã hội đều quan trọng.
Động cơ thúc đẩy hoạt động diễn ra theo nhiều hành động khác nhau: sinh viên lên
lớp nghe giảng, sinh viên lên thư viện đọc sách, sinh viên học bài cũ củng cố kiến
thức… hành động là bộ phận cấu thành hoàn chỉnh của hoạt động, thể hiện tính tích
cực bên trong và bên ngồi của cá nhân: sinh viên bằng các cử động có chủ định tìm
kiếm, trau dồi kiến thức, đồng thời cũng xuất hiện hiện tượng tâm lý bên trong để nhìn

nhận, hệ thống lại tri thức đã có được, mở rộng hiểu biết bằng suy đoán của bản thân –
chi phối bằng mục đích học tập của người học.Hành động tiến hành bằng nhiều thao
tác. Sinh viên muốn lên thư viện thì phải có các thao tác như tra cứu danh mục tài liệu,
nhìn, ghi chép,hay thực hành thiền quán,như lý tác ý để lắng tâm ...Việc sinh viên lựa
chọn thao tác như thế nào phụ thuộc điều kiện cụ thể của sinh viên tại thời điểm đó,
cũng phụ thuộc đối tượng tác động của sinh viên là gì, ở phương diện nào.Tóm lại, nội
dung, tính chất hoạt động học tập của sinh viên có quan hệ gắn bó chặt chẽ đối với
phương thức của hoạt động học tập ấy. Quan hệ này phản ánh quan hệ giữa nội dung
và hình thức của hoạt động. Động cơ, mục đích chi phối chọn lựa phương thức tiến
hành hoạt động.Ngược lại trong quá trình tiến hành hoạt động sẽ làm hình thành
những động cơ và mục đích mới.Đem quan hệ nội dung – hình thức trên ứng dụng
trong học tập, sinh viên sẽ có cái nhìn tồn diện và rõ nét về định hướng, phương pháp
học tập và tu tập. Vì việc học tập của sinh viên mang tính độc lập cao, và cốt lõi là sự
tự ý thức về động cơ mục đích, biện pháp học tập, do vậy, việc bao quát được toàn bộ
kết cấu của hoạt động học có vai trị cần thiết. Song trên thực tế, hoạt động học tập
mang nhiều hành động có phần riêng lẻ, nên khơng phải sinh viên nào cũng có nhìn
nhận đúng đắn. Nếu động cơ, mục đích tốt, việc học diễn ra theo hướng tích cực: sinh
viên chú ý tới bài giảng, tự giác tham gia xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi
chép, có khả năng hiểu và trình bày lại bài giảng theo suy nghĩ nhận thức của mình…
Học tập của sinh viên mang tính độc lập cao, vì thế chỉ cần xác định động cơ và mục
đích học tập đúng đắn thì tự sinh viên sẽ thay đổi vị trí của mình, từ đối tượng tiếp
nhận tri thức thành chủ thể tìm kiếm tri thức.Về mặt tu tập phải phịng hộ các
căn,chánh niệm trên thân thọ,tâm và pháp từ đó phát triển định và niệm thấy được các
pháp là duyên sanh(sanh-diệt-vô thường-khổ-vơ ngã).Như vậy việc tìm hiểu và phân
tích cấu trúc tâm lý của hoạt động giúp chúng ta biết ứng dụng nó trong hoạt động học
tập và tu tập của mình. Muốn việc học có hiệu quả thì chúng ta phải hiểu bản chất của
hoạt động học, từ đó có thể vạch ra phương hướng và cách thức học hiệu quả, và quan
trọng nhất, là hình thành cho bản thân năng lực chun mơn, phục vụ cuộc sống của
mình và mọi người trong tương lai. Có thể thấy, tâm lý học đóng một vai trị quan
trọng trong nhìn nhận và giải quyết các vấn đề không đơn giản dừng lại ở phân tích

cấu trúc hoạt động học tập như trên, mà còn trong các lĩnh vực khác. Chướng ngại cơ
bản trong tu hành :
* Chướng ngại thứ nhất : Sự cản trở từ người thân :
10


Khi các vị hiểu biết được giáo lý của Đức Phật dạy, sẽ tự tìm thấy được hướng đi cho
chính mình, để tiến đến những con đường cao đẹp, hạnh phúc, thoát tục….Tuy nhiên
những người thân của quý vị, họ đâu có biết những điều ấy, họ chỉ thấy các vị đang
làm điều gì đó hết sức kỳ quặc, lạ đời.Thế là họ sẽ ra sức ngăn cản, chống đối, để
không cho quý vị tu nữa.Sự cản trở này, vừa cho thấy quý vị hiện đang bị trả nghiệp
trong quá khứ, cũng vừa là sự thử thách tâm đạo của các vị, xem coi có kiên cố hay
khơng.
* Chướng ngại thứ hai : Chưa quen với nếp sống mô phạm trong tu hành :Khi chưa
biết tu hành, lối sống của chúng ta sẽ hay bị bng lung, phóng dật, thường thích làm
theo những nhu cầu, hay cảm xúc cá nhân,…Mà ít có sự kiểm sốt.Và khi khép mình
trong lối sống mơ phạm, đạo đức để tu, thì lúc đầu chúng ta chưa quen, sẽ thấy bị gị
bó, hay thấy thiếu thiếu cái gì đó,……..
Ví dụ :Tu rồi thì khơng có được nói tục, khơng được chửi thề, khơng rượu bia, khơng
nói xấu sau lưng người khác…..Rồi phải tập ăn chay đạm bạc, mỗi ngày cịn phải sớm
khuya cơng phu tu niệm,…..Mà nhiều người nếu thiếu ý chí, nghiệp hưởng thụ cịn
mạnh, họ có thể bỏ tu, để trở lại lối sống ăn chơi như đời thường trước đây…..
* Chướng ngại thứ ba : Bệnh tật, hay tai nạn xuất hiệnNhững nghiệp ác trong quá khứ
mà quý vị đã gieo, nó sẽ không cho chúng ta tu hành một cách yên ổn, mà nó sẽ
thường trổ ra trong thời gian đầu khi chúng ta mới tu tập.Thậm chí những người
nghiệp nặng, nó cịn trổ ra rất nhiều lần trong đời.
* Chướng ngại thứ tư : Hiểu giáo pháp để thâm nhập giáo pháp.Việc hiểu được giáo
pháp, hiểu rõ được những lời Phật dạy cũng khơng phải là dễ dàng gì.Một phần vì cái
khó của ngơn ngữ dùng trong kinh điển, một phần do những tập khí xấu ác nhiều đời,
…. Làm ngăn che sự hiểu biết, ngăn che cái trí sáng trong tâm của quý vị.

* Chướng ngại thứ năm : Gặp phải những tà sư.Trong tâm các vị đã có sự tà kiến, quá
khứ lại từng mắc nợ những người tu mà tà.Chúng sẽ kết hợp, chiêu cảm, đưa đẩy để
quý vị sẽ gặp phải những tà sư.
* Chướng ngại thứ sáu : Tâm lăng xăng dao động, nhiều vọng tưởng, khó nhiếp phục
Vì trong vơ lượng kiếp đã qua, đầu óc chúng ta đã quen với sự suy nghĩ, những tâm ý
cứ theo các dục mà lăng xăng, loạn động….Nay hành trì các pháp mơn tu, để thu
nhiếp thân tâm, nhưng các ý nghĩ lăng xăng loạn động ấy…. Cứ theo thói quen mà
khởi lên, làm cho quý vị rất khó nhiếp phục.
* Chướng ngại thứ bảy : Khơng phân biệt được thật giả.Những ảo giác hay những
cảnh tượng xuất hiện trong tâm mà khó phân biệt được đâu là thật, đâu là giả :Khi tâm
bắt đầu có sự định tĩnh, thì những ảo giác cũng có thể xuất hiện, cùng với những hình
ảnh âm thanh ….Khi ngồi tĩnh tọa như vậy, quý vị có khi thấy được hào quang, hay
thấy những ánh sáng lạ, đẹp, thấy Phật, thấy Bồ tát hay thấy Quỷ, Thần,….Nhưng
đừng vội mừng, mà chạy theo hay đuổi bắt .Vì có khi những hình ảnh ấy, là sản phẩm
do vơ thức tạo ra, hay có khi do các chúng ma tạo ra….Kể ra những chướng ngại
khơng phải để làm cho sợ rồi thối lui.Mà cần có sự chuẩn bị trước về măt tâm lý,
cũng như cần có sự cẩn thận, chu đáo và khiêm tốn trong tu hành.Có như thế thì con
đường tu mới có thể đi về đích an tồn được.

11


C.KẾT LUẬN
Cơ sở của Tâm lý học Marxist xác định rằng tâm lý khơng phải là cái có sẵn trong con
người cũng không phải là sản phẩm được sản sinh ra một cách giảnđơn - thuần túy từ
một cơ quan nào đó của con người theo kiểu khép kín. Những nghiên cứu tâm lý cho
thấy vật chất là cái thứ nhất, tâm lý là cái thứ hai, tồn tại quyết định tâm lý. Những
luận điểm về tâm lý người cho thấy tâm lý người có nguồn gốc từ thế giới khách quan
bên ngoài. Nội dung tâm lý là nội dung của hiện thực khách quan được phản ánh vào
trong não và được cải biến trong ấy.Mặt khác, trong thế giới khách quan đang hiện

hữu, hệ thống kinh nghiệm lịch sử, xã hội quyết định tâm lý người. Bằng hoạt động và
giao tiếp, con người biến những kinh nghiệm xã hội lịch sử thành cái riêng của mình
mà đó chính là tâm lý. Nếu như con người không hoạt động và giao tiếp thì khơng thể
có những kinh nghiệm, khơng thể có những kiến thức và kỹ năng tương ứng và chắc
chắn khơng thể có tâm lý hay khơng thể có sự phát triển về mặt tâm lý. Nói khác đi,
nội dung hoạt động và giao tiếp có thể dần dần chuyển thành nội dung trong đời sống
tâm lý con người. Đó có thể là những chuẩn mực, những nguyên tắc, những yếu tố
thuộc về luân lý, đạo đức và nhiều vấn đề khác sẽ trở thành nội dung đời sống hay nội
dung tâm lý của con người.Hơn thế nữa, trong hoạt động và giao tiếp cấu cùng với cấu
trúc hoạt động tương quan thế giới xung quanh con người sẽ có sự tương tác tích cực
để tạo ra những dấu ấn mới trong sự phát triển tâm lý. Từ sự tương tác với môi trường
và người khác trong hoạt động và giao tiếp, con người sẽ nâng mình lên một tầm cao
mới, một mức độ phát triển mới tương ứng từ đó tạo ra mang dấu ấn của sự phát triển
tâm lý. Ngay trong quá trình hoạt động và giao tiếp, con người sẽ chủ động lĩnh hội,
chủ động tích lũy và chủ động đổi thay một cách thích ứng, đó cũng chính là những
lực đẩy thơi thúc hay thúc đẩy tâm lý người phát triển.Nói khác đi, cấu trúc và sơ đồ
hoạt động vừa là động lực của sự hình thành và phát triển tâm lý đồng thời tâm lý
người cũng chính là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.TS. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, NXB Đại
học sưu phạm.
2. TS. Nguyễn Thị Huệ (chủ biên), Hỏi và đáp môn tâm lý học đại cương, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), Tâm lý đại cương (Dùng cho các trường Đại học
và Cao đẳng Sư phạm), Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Tâm lý học đại cương (Dùng cho các trường Đại
học và Cao đẳng Sư phạm), Hà Nội.
5. TS. Đinh Phương Duy (2007), Tâm lý học, NXB Giáo dục
6. Nguyễn Ngọc Phú (2004), Lịch sử Tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

13



×