GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
…………………………………………
LÊ VĂN CAN
(PD.TRÍ CƯỜNG)
TÌM HIỂU VỀ THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH
Tiểu luận học kỳ III : Các tông phái PGVN - Phần Phật giáo Bắc tơng
Người hướng dẫn khoa học: SC.TS.TN. Tuệ Châu
TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020.
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
………………………………………….
TÊN TÁC GIẢ: LÊ VĂN CAN
PHÁP DANH: TRÍ CƯỜNG
LỚP ĐTTX: KHĨA VI
MSSV: TX 6031
TÌM HIỂU VỀ THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH
Tiểu luận học kỳ III : Các tông phái PGVN - Phần Phật giáo Bắc tơng
Người hướng dẫn khoa học: SC.TS.TN. Tuệ Châu
TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Phật giáo được Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào
thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 45 năm (theo truyền thống
Thedavada), khi Đức Phật còn tại thế ngài đã đi nhiều nơi ,đến nhiều vùng miền ở Ấn Độ .
Nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay
phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được
một tăng đoàn với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật
có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ
khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi
trên tồn thế giới. Bình minh lịch sử Phật giáo Việt Nam gắn liền với bình minh lịch sử của
dân tộc và ln song hành cùng nhau. Đây là sự hội tụ đặc biệt làm nên đặc thù của Phật
giáo Việt Nam. Mối liên hệ giữa PGVN và dân tộc là khắng khít nhau, hình thành và phát
triển trong lòng Lịch sử Việt Nam. Thiền phái Chúc Thánh đã trải trên 300 năm hình thành
và phát triển. Trong suốt chuỗi thời gian song hành cùng dân tộc, các thiền sư thuộc thiền
phái Lâm Tế Chúc Thánh đã đem ý chỉ của Tổ truyền bá khắp mọi nơi và góp vào lịch sử
Phật giáo Việt Nam .Nói đến lịch sử là đề cấp đến thời gian, khơng gian. Lịch sử là nghiên
cứu diễn trình, vận hành về sự kiện, nhân vật (con người làm nên lịch sử - các vị Thiền sư)
xảy ra trong thời gian, khơng gian nhất định nảo?tư tưởng và những đóng góp cho Phật giáo
Việt Nam như thế nào?. Không muốn bị lãng quên bởi thời gian, nhằm khẳng định lại vị thế
và những cống hiến tích cực của thiền phái Chúc Thánh trong dòng sử Phật Việt nên học
viên đã chọn đề tài “Tìm hiểu về thiền phái Lâm Tế Chúc Thành” để làm bài tiểu luận.
1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài :
Tìm hiểu về quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp tích cực của thiền phái
Chúc Thánh đối với Đạo pháp và Dân tộc. Từ đó, khẳng định lại tầm quan trọng và vị trí của
thiền phái này trong dòng chảy của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu :
Học viên chỉ đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của thiền phái Chúc Thánh ,từ
những năm đầu khi ngài Minh Hải-Đắc Trí-Pháp Bảo đời 34 Lâm Tế khai sơn Chúc Thánh
cho đến thế hệ truyền thừa đời 43, 44 của thiền phái này. Như vậy, khoảng thời gian này kéo
dài từ cuối thế kỷ XVII đến những năm cuối thế kỷ XX.
Đề tài giới hạn trong phạm vi thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Học viên sưu tầm tất cả những sử liệu liên quan đến thiền phái Chúc Thánh thông qua các tư
liệu sách vở,tư liệu trên mạng.Từ đó học viên tổng hợp, đánh giá..để làm sáng tỏ đề tài tiểu
luận.
5. Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 chương:
• Chương 1 : Thiền Sư Minh Hải Và Sự Khai Sáng Thiền Phái Lâm Tế Chúc
Thánh.
• Chương 2 :Quá Trình Phát Triển Thiền phái Chúc Thánh tại Quảng Nam.
• Chương 3: Sự Truyền Thừa Và Phát Triển Của Thiền Phái Chúc Thánh.
2
Chương 1
THIỀN SƯ MINH HẢI VÀ SỰ KHAI SÁNG THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH
1.1 .BỐI CẢNH QUẢNG NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XVII:
1.1.1 Khái Quát Quá Trình Hình Thành Tỉnh Quảng Nam.
Một trong những vùng đấtđầutiên sáp nhập vào bản đồ Đại Việt chính là tỉnh Quảng Nam.
Mảnh đất “chưa mưa đã thấm” này đã ghi lại những dấu chân hoang sơ của người Việt trong
suốt thời gian mởmang bờ cõi.Sau cuộc hôn nhân của Huyền Trân công chúa với vua Chiêm
là Chế Mân vào năm 1308, lãnh thổ Đại Việt mở rộng đến Quảng Bình và Quảng Trị. Đến
thời nhà Hồ (1400-1407), sau khi thương thảo thì vua Chiêm nộp thêm đất Chiêm Động và
Cổ Lũy, tức là Quảng Nam ngày nay. Vua Hồ Quý Ly chia đất này thành bốn châu là Thăng,
Hoa, Tư, Nghĩa rồi đặt lộ Thăng Hoa thống lãnh bốn châu ấy. Đến thời vua Lê Thánh Tông,
Hồng Đức năm thứ 2 đã tổ chức lại hành chánh các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; đồng thời
đặt làm Đạo thừa tuyên Quảng Nam. Danh từ Quảng Nam bắt đầu có tên trên bản đồ Đại
Việt từ lúc ấy.Như vậy, kể từ khi sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và có tên gọi Quảng Nam,
tính đến nay tỉnh Quảng Nam đã có trên 500 năm lịch sử. Trải qua bao sự hưng phế, thịnh
suy của các triều đại cũng như các chính thể và tùy theo sự phân chia địa lý hành chính mà
diện tích tỉnh Quảng Nam có khi rộng, khi hẹp. Tuy vậy, Quảng Nam vẫn lại là Quảng Nam
chứ không thay đổi tên gọi nào khác và mảnh đất này có vị trí rất đặc biệt trong tiến trình mở
nước của lịch sử dân tộc.Về chính trị, Quảng Nam là một trung tâm hành chánh nối liền phủ
Chúa đến các tỉnh mới lập ở phía Nam cũng như giao lưu quốc tế. Về quân sự, Quảng Nam
có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong việc phịng thủ chánh dinh Thuận Hóa
cũng như mở mang bờ cõi. Thời bấy giờ, dinh trấn Thanh Chiêm-Quảng Nam là căn cứ quân
sự thủy lục hùng mạnh nhất của chúa Nguyễn. Từ căn cứ này, thủy qn dễ dàng tiếp cứu
Quảng Bình khi có qn Trịnh xâm lấn và ngăn chặn tàu nước ngoài quấy nhiễu vùng biển.
Cũng từ đây, bộ quân dễ dàng hành quân hỗ trợ cho các cuộc Nam tiến. Về phương diện
ngoại giao, kinh tế, văn hóa thì hải cảng Hội An thuộc dinh Quảng Nam là một trong những
thương cảng phồn thịnh bậc nhất Đàng Trong thời bấy giờ. Đây là nơi giao lưu văn hóa giữa
các quốc gia trong vùng và các nước phương Tây. Nơi đây là nơi mà các đoàn ngoại giao
nước ngoài đến nghỉ chân để tiếp tục ra Thuận Hóa gặp nhà Chúa. Các nhà văn hóa lớn
nước ngồi có ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam như Hòa thượng Thạch Liêm (1633-1704),
học giả Chu Thuấn Thủy (1600-1682), giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1593-1660) v.v… đều
đến ngụ Hội An một thời gian và đánh giá vùng đất này có tiềm năng về mọi mặt, là cửa ngõ
quan trọng của Đại Việt.
3
1.1.2 Tình Hình Chính Trị Xã Hội.
So với Đàng Ngồi, tình hình chính trị xã hội tại Đàng Trong tương đối ổn định hơn. Ở vùng
đất mới này, với chính sách khoan dung của Chúa Nguyễn nên xã hội khơng có sự phân tầng
rõ rệt như của họ Trịnh.Về nông nghiệp, các chúa Nguyễn cho quan lại đứng ra chiêu mộ
dân đi khai khẩn cũng như dùng quân đội đồn trú để khai hoang. Điều này đã đem lại một
kết quả rất khả quan:“ Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, các chúa Nguyễn đã biến nhiều
vùng đất hoang thành ruộng đồng tươi tốt, thành xóm làng trù mật và từng bước nâng cao
mức sống của nhân dân” .Lúc bấy giờ tại Trung Quốc, bộ tộc Mãn Châu từ phương Bắc tràn
xuống đánh chiếm Trung Nguyên, lật đổ nhà Minh lập ra vương triều Mãn Thanh. Các cựu
thần nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh nên đã bỏ nước ra đi. Mảnh đất Đại Việt trở
thành điểm đến của những người Trung Hoa vong quốc. Tại Đàng Ngoài, các chúa Trịnh dè
dặt trong vấn đề cho người Hoa cư ngụ. Trái lại, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong ưu đãi để
người Hoa định cư và cho họ thành lập từng làng sống theo cộng đồng. Vì thế, các làng
Minh Hương được thành lập nhiều nơi ở Huế, Hội An, Gia Định v.v…và những người Hoa
đã góp phần khơng nhỏ trong việc phát triển kinh tế cũng như mở mang bờ cõi.
1.1.3 Thái Độ Của Các Chúa Nguyễn Đối Với Phật Giáo.
Dưới sự hộ trì của nhà chúa Tiên-Nguyễn Hoàng, Phật giáo tại Đàng Trong phát triển rất
mạnh. Tuy rằng các Chúa không lấy Phật giáo làm quốc giáo như thời Lý-Trần, nhưng lại
lấy Phật giáo làm chỗ dựa cho chính sách an dân trị quốc. Nhà sử học Li Tana cũng nhận xét
như sau: “Trong tình hình mới này, các nhà lãnh đạo họ Nguyễn cảm thấy cần phải đưa ra
một cái gì đó khác với tín ngưỡng của người Chăm để củng cố các di dân người Việt về mặt
tinh thần và tâm lý. Khơng thể sử dụng Khổng giáo vì những khẳng định cơ bản của Khổng
giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối
với triều đình. Tuy nhiên, họ Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm ra mộỉt giải
pháp hồn tồn khác biệt với truyền thống của người Việt ở phía bắc. Trong những hồn
cảnh đó, Phật giáo Đại Thừa đã cung cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn.
Phật giáo, một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và mặt khác làm lắng động các
mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của những người cai
trị” .Năm 1694, Quốc chúa-Nguyễn Phúc Chu thỉnh Hòa thượng Thạch Liêm sang mở đàn
truyền giới tại chùa Thiền Lâm -Thuận Hóa. Quốc Chúa quy y với ngài Thạch Liêm, được
đặt pháp danh Hưng Long, hiệu là Thiên Túng đạo nhân.Qua những sự kiện trên, chúng ta có
thể thấy rằng: Ngồi chủ trương vận dụng tư tưởng Phật giáo để trị nước, các Chúa
4
Nguyễn thực sự là những người sùng mộ đạo Phật, tôn trọng chư tăng, làm chùa, tạo tượng,
đúc chuông v.v… Chính vì lẽ đó mà các thiền sư từ Trung Hoa đã đến Đàng Trong hoằng
hóa. Phật giáo nơi đây thật sự hưng thịnh, đặc biệt là dòng Lâm Tế phát triển rất mạnh tại
vùng đất mới này.
1.1.4 Phật Giáo Quảng Nam Trước Khi Thiền Phái Chúc Thánh Ra Đời.
Trong những năm đầu giữa thế kỷ XVII, thiền sư Minh Châu-Hương Hải tu học và hoằng
hóa tại Quảng Nam. Năm 1652, Ngài đến thọ giáo với tổ Lục Hồ-Viên Cảnh và Đại ThâmViên Khoan, 3 năm sau xuất gia với pháp danh Minh Châu-Hương Hải và hiệu là Huyền Cơ
-Thiện Giác. Thiền sư Hưng Liên-Quả Hoằng là đệ tử của ngài Thạch Liêm Hòa thượng từ
Trung Quốc sang Đàng Trong giáo hóa. Ngài lập đạo tràng tại chùa Tam Thai núi Ngũ Hành
tỉnh Quảng Nam và được Quốc chúa -Nguyễn Phúc Chu phong làm Quốc sư.Năm 1695, sau
khi giới đàn tại chùa Thiền Lâm-Thuận Hóa viên mãn, Ngài Thạch Liêm vào Hội An để đón
thuyền về lại Quảng Đơng. Trong thời gian ngụ lại Hội An, Ngài đã mở đàn truyền giới cho
khoảng 300 Tăng tục tại nơi đây: “ Tăng tục luôn luôn đến xin truyền giới, nhơn nghĩ còn
mười ngày nữa mới khai thuyền, bọn chúng đã thành tâm khẩn cầu, tiếc chi khó nhọc hai ba
ngày, khơng thành tựu cho vẹn tồn cơng đức; bèn truyền rao xa gần, hẹn đến ngày mồng 7
truyền giới.Đến ngày kỳ hẹn, tứ chúng giới tử hơn 300 người, đến thụ giới hoàn tất. Khiến
quốc sư và Hậu đường cấp phát điệp - văn cho họ, mặc khác tư giấy trình Quốc vương xin
dùng ấn để đóng kiềm điệp văn.”.
1.2 THIỀN SƯ MINH HẢI VÀ SỰ KHAI SÁNG THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH.
1.2.1 Sự Ra Đời Của Thiền Phái Chúc Thánh.
Trước khi thiền phái Chúc Thánh ra đời, tại Quảng Nam đã có nhiều vị thiền sư danh tiếng
giáo hóa như: Minh Châu, Thạch Liêm, Hưng Liên v.v…Tuy nhiên, các ngài chỉ trụ một thời
gian rồi ra đi. Ngài Minh Châu cùng với 50 đệ tử vượt biển ra Đàng Ngoài vào tháng 3 năm
Nhâm Tuất (1682). Tuy nhiên, sau khi ngài Thạch Liêm về nước và ngài Hưng Liên viên
tịch thì sự truyền thừa của dịng Tào Động tại Quảng Nam xem như khơng cịn. Điều này có
hai lý do giải thích như sau:
-Thứ nhất, ngài Thạch Liêm và Hưng Liên đều là những vị tài giỏi nhưng tầm ảnh hưởng
của các Ngài chỉ trong nội vi nhà Chúa và giới lãnh đạo mà thơi, chứ chưa có sự ảnh hưởng
lan rộng trong lòng quần chúng Phật tử.
-Thứ hai, sau khi ngài Hưng Liên viên tịch, các đệ tử của Ngài khơng có ai có đủ khả năng
kế thừa Ngài để phát triển tơng phong.
5
Vì lẽ đó, dịng Tào Động cũng mai một và khơng cịn dấu tích trên đất Quảng.Sự hoằng hóa
của các thiền sư kể trên đã làm cho người dân đất Quảng thấm nhuần Phật pháp. Nhưng các
Ngài tùy duyên giáo hóa, chợt đến chợt đi khiến cho người con Phật nơi đây cảm thấy hụt
hẩng, thiếu thốn. Chính vì lẽ đó, khi thiền sư Minh Hải quyết định trụ lại Quảng Nam hoằng
hóa đã đáp ứng được niềm khát khao mong đợi của đa số tín đồ quần chúng. Nếu như các
ngài Minh Châu, Thạch Liêm là người có cơng xây dựng nền móng thì ngài Minh Hải là
người có cơng kiến tạo tòa nhà Phật giáo Quảng Nam.
1.2.2. Lược Sử Thiền Sư Minh Hải.
Thiền sư Minh Hải (1670-1746) thế danh Lương Thế Ân, sinh ngày 28 tháng 6 tại làng
Thiệu An, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Thân phụ là
Lương Đôn Hậu, thân mẫu là Trần Thục Thận, Ngài là người con thứ hai trong gia đình.Năm
Mậu Ngọ (1678), khi vừa lên 9 tuổi, Ngài được song thân đưa đến xuất gia tại chùa Báo Tư
thuộc tỉnh Phước Kiến. Sau một thời gian dài tu học, khi tuổi tròn 20, Ngài được đăng đàn
thọ cụ túc giới với pháp danh Minh Hải, tự Đắc Trí, hiệu Pháp Bảo. Như vậy, Ngài nối pháp
đời 34 dòng Lâm Tế truyền theo bài kệ của ngài Vạn Phong-Thời Ủy.Năm Ất Hợi (1695),
Ngài cùng với các ngài Minh Vật-Nhất Tri, Minh Hoằng-Tử Dung, Minh Lượng-Thành
Đẳng v.v… trong hội đồng thập sư cùng Hòa thượng Thạch Liêm theo lời thỉnh cầu của chúa
Nguyễn Phúc Chu sang An Nam truyền giới. Phái đoàn xuống thuyền tại bến Hoàng phố và
cập bến Hội An vào ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi (1695). Sau đó, đồn ra Thuận Hóa,
được chúa Nguyễn Phúc Chu đón tiếp trọng thể và thỉnh về ngụ tại chùa Thiền Lâm.Ngày
mồng 1 tháng 4 năm Ất Hợi (1695), giới đàn khai mở do Ngài Thạch Liêm làm Đàn đầu
Hòa thượng. Giới đàn truyền các giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát cho 1400 giới tử trong đó
có cả các vương hầu khanh tướng. Đặc biệt, chúa Nguyễn Phúc Chu được truyền riêng một
đàn giới và Hòa thượng đàn đầu đã ban cho pháp danh là Hưng Long.Sau khi giới đàn thành
tựu, ngày 28 tháng 6 năm Ất Hợi (1695), phái đoàn trở vào lại Hội An để chờ thuyền về
nước. Tại Hội An, đoàn trú ở chùa Di Đà (sau này đổi tên là Chiên Đàn) và thể theo lời thỉnh
cầu của chư tăng cũng như bổn đạo, ngài Thạch Liêm lập đàn truyền giới cho 300 giới tử.
Ngày 19, đoàn rời Hội An ra Cù Lao Chàm, lên thuyền chờ gió. Ngày 30 thuyền
nhổ neo nhưng bị nghịch gió nên phải trở lại Hội An. Ngày 12 tháng 10
6
chúa Nguyễn mời ngài Thạch Liêm trở lại Phú Xuân lập đàn cúng Phật truyền giới một lần
nữa tại chùa Thiên Mụ. Ngày 24 tháng 6 năm Bính Tý (1696) ngài Thạch Liêm cùng với
phái đoàn trở về Quảng Đông và không qua nữa.Sau khi ngài Thạch Liêm về nước, một số
vị trong phái đoàn ở lại An Nam trác tích khai sơn hoằng hóa như ngài Minh Hoằng-Tử
Dung khai sơn chùa Ấn Tơng ở Thuận Hố, ngài Minh Lượng-Thành đẳng khai sơn chùa
Vạn Đức-Hội An và ngài Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm Phô-Hội
An.Từ những ngày đầu tiên ở nơi mảnh đất đầy cát bụi này, Ngài chỉ lập một thảo am để tịnh
tu phạm hạnh. Dần dần hương giới đức của Ngài lan tỏa khắp mọi nơi, ảnh hưởng đạo đức
đến người dân phố Hội và các vùng phụ cận nên đồ chúng ngày một quy ngưỡng tham
học.Sau gần 50 năm sang An Nam hoằng hóa, đến ngày mồng 7 tháng 11 năm Bính Dần
(1746), Ngài gọi đồ chúng đến dặn dò và đọc kệ phú chúc:
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
原
Âm:
Nguyên phù pháp giới không
Chơn Như vô tánh tướng
Nhược liễu ngộ như thử
Chúng sanh dữ Phật đồng
Sau khi phú chúc, Ngài thâu thần thị tịch, trụ thế 77 tuổi. Đồ chúng cung thỉnh nhục
thânNgài nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Chúc Thánh.
1.2.3 Thiền Sư Minh Hải Với Việc Khai Sáng Thiền Phái Chúc Thánh.
Sau khi quyết định trụ lại Hội An để hoằng hóa, tổ Minh Hải khai sơn chùa Chúc Thánh.Để
việc truyền thừa có quy củ dài lâu, Ngài xuất kệ truyền pháp như sau:
7
原原原原
原原原原
原原原原原
原原原原原
原原原原原
原原原原原
原原原原原
原原原原原
原原原原原
原原原原原
Truyền pháp danh kệ:
Truyền pháp tự kệ:
Minh thiệt pháp toàn chương
Đắc chánh luật vi tông
Ấn chơn như thị đồng
Tổ đạo giải hạnh thông
Chúc thánh thọ thiên cửu
Giác hoa bồ đề thọ
Kỳ quốc tộ địa trường
Sung mãn nhân thiên trung.
Bài kệ này bao gồm bốn mươi chữ và được chia ra làm hai phần. Phần đầu gồm 4 câu đầu
được dùng để đặt pháp danh và phần còn lại để dặt pháp tự. Ngài Minh Hải có pháp danh
chữ Minh và pháp tự là chữ Đắc. Tiếp đến, hàng đệ tử của Ngài theo thứ tự có pháp danh
chữ Thiệt và pháp tự chữ Chánh như: Thiệt Diệu-Chánh Hiền, Thiệt Dinh-Chánh Hiển, Thiệt
Đăng-Chánh Trí v.v…Chính sự truyền thừa có thứ tự như vậy nên chúng ta dễ dàng nhận ra
vị thiền sư nào là đệ tử ngài Minh Hải. Bởi vì, cùng thời với Ngài, có rất nhiều vị thiền sư
thuộc đời 34 dòng Lâm Tế với pháp danh chữ Minh theo bài kệ của ngài Vạn Phong-Thời
Ủy hoằng hóa tại Đàng Trong. Các vị này cũng cho đệ tử pháp danh chữ Thiệt theo câu kệ:
“Hành Siêu Minh Thiệt Tế”. Nếu khơng có pháp tự bằng chữ Chánh đứng đầu thì chúng ta
khó phân biệt vị nào thọ giáo với thiền sư Minh Hải. Đây là điểmđặc biệt của dòng Chúc
Thánh mà các thiền phái khác khơng có.
Thiền phái Chúc Thánh là lấy theo tên ngôi chùa Chúc Thánh do tổ sư Minh Hải khai sơn.
Từ đây, sữa Pháp lại được khơi dòng tại đất Quảng, lan tỏa khắp các tỉnh thành, góp phần rất
8
lớn trong sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp.Về ý nghĩa của hai chữ Chúc Thánh, chúng ta
có thể hiểu hai nghĩa như sau:
- Đứng về mặt Đạo pháp, là một người trưởng tử của Như Lai, chư tổ thuở quá khứ cũng
như các thế hệ chúng ta ngày nay, ai ai cũng muốn cho chánh pháp cửu trụ thế gian để lợi lạc
nhân quần xã hội. Ở đây, thiền sư Minh Hải lấy hai chữ Chúc Thánh để đặt tên cho ngôi
chùa cũng có ý nghĩa như vậy. Thánh ở đây có nghĩa là Thánh đạo, Ngài muốn Thánh giáo
ln ln tồn tại ở thế giới Ta-bà này để xoa dịu những nỗi thống khổ của kiếp nhân sinh.
- Đứng về mặt Dân tộc, mỗi người chúng ta ai cũng muốn có những vị vua anh minh cai trị
đất nước, đem lại cảnh hịa bình an lạc cho mn dân. Vì thế, Chúc Thánh ở đây cịn có
nghĩa là Chúc cho Thánh qn thọ lâu mn tuổi để trị vì thiên hạ. Bởi lẽ, giai đoạn tổ Minh
Hải qua Đàng Trong là giai đoạn các chúa Nguyễn anh minh đang trị vì và Đàng Trong đang
thời hưng thịnh. Đồng thời, các chúa Nguyễn là những vị nhiệt tâm hộ trì Phật giáo. Họ
chính là những vị hộ pháp đắc lực cho chư tăng trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp.Qua
ý nghĩa hai chữ Chúc Thánh, chúng ta thấy được nơi đây có sự kết hợp hai yếu tố Đạo pháp
và Dân tộc. Với hai chữ ngắn gọn, thiền sư Minh Hải đã gói trọn, dung hịa được cả hai yếu
tố quan trọng này. Đồng thời, qua bài kệ truyền pháp, chúng ta thấy được sở ngộ, sở tu của
tổ Minh Hải. Từ sự chứng ngộ siêu xuất đó, ngày nay thiền phái Chúc Thánh phát triển khắp
các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam và sang tận Âu-Mỹ.
Chương 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH TẠI QUẢNG NAM
2.1. Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh Tại Quảng Nam..
2.1.1. Nguyên nhân phát triển.
Kể từ ngày tổ sư Minh Hải khơi nguồn đạo mạch, đến cuối thế kỷ XVIII các chùa tại tỉnh
Quảng Nam đều do các thiền sư dòng Chúc Thánh đảm nhiệm giáo hóa. Khơng những thế,
tầm ảnh hưởng của dịng Chúc Thánh nhanh chóng lan rộng vào các tỉnh phía Nam như
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú n, Gia Định.
Với thời gian chưa tới 100 năm mà thiền phái Chúc Thánh phát triển nhanh chóng như vậy?
Chúng ta có thể lý giải vấn đề này qua một số nguyên nhân sau:
9
- Gần 50 năm hoằng hóa, đạo phong của tổ Minh Hải đã thấm nhuần, ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống tinh thần của người dân xứ Quảng. Quan trọng hơn, Ngài đã đào tạo một thế hệ kế
thừa xứng đáng, đủ khả năng kế nghiệp Ngài xiển dương đạo pháp và phát triển tơng mơn.
Đời thứ 2 của dịng Chúc Thánh có các ngài Thiệt Dinh, Thiệt Diệu, Thiệt Thọ, Thiệt Đạo,
Thiệt Mẫn, Thiệt Gia, Thiệt Lương v.v.. hoằng hóa tại Quảng Nam; Thiệt Úy, Thiệt Uyên
hoằng hóa tại Quảng Ngãi; Thiệt Đăng, Thiệt Thuận hoằng hóa tại Bình Định. Đến thế hệ
thứ 3 có các ngài Pháp Liêm, Pháp Chuyên, Pháp Ấn, Pháp Diễn, Pháp Tịnh, Pháp Tràng
v.v…đều nhiệt tâm truyền bá chánh pháp làm cho Phật giáo Quảng Nam thêm hưng thịnh,
đồng thời tông mơn Chúc Thánh nhanh chóng phát triển.
- Các thiền sư dịng Chúc Thánh đã đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân nên
dịng thiền này nhanh chóng phát triển. Các thiền sư dòng Chúc Thánh đã đáp ứng được cả
hai cộng đồng người Việt lẫn người Hoa. Các ngài Thiệt Diệu, Thiệt Thọ, Thiệt Mẫn là
người Hoa nên ngụ tại Chúc Thánh đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng người Hoa. Còn thiền sư
Thiệt Dinh ra khai sơn Phước Lâm với sự hổ trợ của các ngài Thiệt Đạo, Thiệt Gia đã thu
hút sự quy ngưỡng cũng như đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của người Việt.
- Với tư tưởng phóng khống của tơng Lâm Tế, cộng với nếp sống giản dị, thanh bần, các
thiền sư dòng Chúc Thánh gần gũi với nhân dân nên dễ dàng tiếp cận đi sâu vào lòng quần
chúng. Thời bấy giờ, dân Quảng Nam phần lớn là dân di cư từ Bắc vào. Từ lâu họ đã sống
trong tư tưởng gị bó của Nho giáo nên rất chán ngán. Nay có một trào lưu mới với những tư
tưởng phóng khống, khơng câu nệ tiểu tiết nên họ nhanh chóng tiếp nhận. Sự giản dị trong
cách sống, chân tình trong giao tiếp của các thiền sư nơi đất Quảng tạo nên sự gần gũi thân
mật dễ dàng hòa nhập cùng cộng đồng.
2.2.Hoạt động của thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
2.2.1. Phương Pháp Tu Tập Và Tôn Chỉ Hành Đạo.
a. Phương pháp tu tập.
Sau Lục tổ Huệ Năng, thiền tông Trung Quốc phát triển mạnh và hình thành năm thiền phái.
Danh xưng và tính cách tu tập của năm thiền phái được tóm gọn qua bài kệ sau:
Lâm Tế thống khoái
Quy Ngưỡng cẩn nghiêm
10
Tào Động tế mật
Vân Môn ký cổ
Pháp Nhãn tường minh
Thiền phái Lâm Tế do thiền sư Lâm Tế-Nghĩa Huyền (867) sáng lập tại Trung Hoa. Sự
truyền thừa của tông Lâm Tế đến đời 21 thì thiền sư Vạn Phong-Thời Ủy chùa Thiên Đồng
xuất kệ “Tổ Đạo Giới Định Tông”. Đến đời 31, ngài Đạo Mân-Mộc Trần chùa Thiên Khai
xuất kệ “Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên”. Khi các tổ Nguyên Thiều, Minh Hải, Minh
Lượng sang An Nam thì tơng Lâm Tế phát triển mạnh ở Đàng Trong. Ngài Nguyên Thiều
thuộc đời 33 truyền theo bài kệ của ngài Vạn Phong-Thời Ủy, phái này phát triển mạnh ở
Bình Định với tổ đình chính là chùa Thập Tháp.Trở lại với mơn phái Lâm Tế Chúc Thánh,
cho đến nay chúng ta chưa có nguồn tư liệu nào ghi lại sự tu tập và những thiền ngữ của
thiền sư Minh Hải. Tuy nhiên, đây là chi phái của tông Lâm Tế nên sự tu tập của các thiền sư
dịng Chúc Thánh cũng khơng ra ngồi tơng chỉ của phái này. Qua bài thuật sự tích của thiền
sư Pháp Chuyên, đời 36 Lâm Tế Chúc Thánh, chúng ta phần nào thấy được sự tu tập của các
thiền sư thời bấy giờ: “Ngài ngày ăn một bữa, xa lìa tài sắc, khơng màng đến chuyện thế sự,
thường xem kinh luật, tinh tấn cầu đạo, tụng chú Đại Bi một tạng, đảnh lễ Tam Thiên, Vạn
Phật, Hồng Danh mỗi loại năm lần, đem thiện căn này cầu cho tội chướng tiêu trừ, sớm
thành Phật đạo”. Như vậy, với tư tưởng “Lâm Tế thống khối”, các thiền sư dịng Lâm Tế
Chúc Thánh có pháp mơn tu phù hợp với điều kiện xã hội. Sự vận dụng kết hợp Thiền-Tịnh
song tu đã đem lại sự lợi lạc cho hành giả và tha nhân. Về tự thân, các thiền sư đạt được sự
an lạc do thiền định đem lại, thân tâm an lạc, nội lực tăng trưởng nên thấy rõ thật tướng của
mọi sự, mọi việc. Với pháp môn Tịnh Độ, các Ngài đã giúp cho dân chúng ổn định tinh thần,
có một niềm tin hướng về Tam Bảo.
b. Tơn chỉ hành đạo.
Ngay từ những ngày đầu truyền pháp, thiền sư Minh Hải cũng đã phần nào khẳng định tôn
chỉ qua hai câu kệ sau:
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trường.
-Ngoài việc tu hành chứng ngộ tâm linh, các thiền sư dịng Chúc Thánh chủ trương nhập thế
11
tích cực với tinh thần vô nhiễm. Điều này được thể hiện qua cuộc đời của thiền sư Pháp
Liêm, thế hệ thứ 3 dòng Chúc Thánh.
-Tinh thần nhập thế của các tăng sĩ dòng Chúc Thánh lại một lần nữa được thể hiện qua
phong trào đấu tranh địi tự do bình đẳng tơn giáo dưới chế độ Ngơ Đình Diệm năm 1963.
Điểm cao của tinh thần ấy là sự hy sinh cao cả của Hịa thượng Thích Quảng Đức, Ngài đã
thiêu thân cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn. Tâm nguyện Bồ tát
của Ngài đã để lại trái tim bất diệt mà ngàn đời Tăng Ni kính ngưỡng. Bồ tát Quảng Đức
pháp danh Thị Thủy, tự ụ Hạnh Pháp thuộc thế hệ thứ 9 dòng Chúc Thánh. Sự hy sinh của
Ngài chính là đỉnh cao của tinh thần xả thân phụng sự Đạo pháp và Dân tộc. Ngọn lửa từ bi
được Ngài thắp sáng, soi rõ lương tri của thời đại, góp phần đưa Phật giáo đồ cũng như mọi
người dân thoát khỏi một chế độ độc tài hà khắc. Nhập thế tích cực cứu đời nhưng vẫn thong
dong tự tại trước mọi lợi danh. Tùy duyên hành đạo và bất biến giữ đạo luôn được áp dụng
tùy từng hoàn cảnh đã thể hiện được bản hồi của người Thích tử theo tinh thần: “Phụng sự
chúng sanh tức là cúng dường chư Phật.”
2.2.2. Sinh Hoạt Và Tổ Chức Của Sơn Môn.
a. Sinh hoạt của Sơn Môn Chúc Thánh:
Thiền phái Chúc Thánh phát triển mạnh ở Quảng Nam và lan rộng theo bước chân Nam tiến
vào đến miền Gia Định. Tại Quảng Nam, đến cuối thế kỷ XVIII, các thiền sư dịng Chúc
Thánh đảm nhiệm cơng việc hoằng hóa tại các chùa trong tỉnh và hình thành ba trung tâm
hoằng pháp: trung tâm Hội An nằm ở phía Đơng với các tổ đình Chúc Thánh, Vạn Đức,
Phước Lâm; trung tâm Ngũ Hành Sơn nằm ở phía Bắc với hai ngôi quốc tự Tam Thai và
Linh Ứng; trung tâm Đại Lộc nằm ở phía Tây với tổ đình Cổ Lâm.
. Thiền tông với chủ trương “Bất lập văn tự” nên các thiền sư khơng có mở trường dạy học
mà chủ yếu là thầy trò truyền dạy cho nhau, thực tập thiền định và ấn chứng sở ngộ.
-Đàn truyền giới được khai mở mỗi khi có giới tử phát nguyện thọ giới để thăng tiến trong
việc tu học. Việc này được ghi nhận như sau:“Trước đó một năm, thỉnh chư tăng các chùa
quy ước một ngày hội họp luận nghị về việc mở đại giới đàn tiếp dẫn tăng chúng hậu học.
b. Tổ chức của Môn phái.
Những ngày đầu hình thành, mơn phái Chúc Thánh chỉ sinh hoạt đơn giản với danh từ Chư
12
Tự Sơn Mơn. Lúc đó, sự tổ chức cịn sơ sài, chùa nào có bậc cao tăng thạc đức, uyên thâm
giáo điển là tăng chúng quy tụ về theo học. Lúc bấy giờ tỉnh Quảng Nam chia làm 9 phủ
huyện như sau: Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Hòa Vang, Duy Xuyên, Đại Lộc,
Tiên Phước, Hội An. Tổ chức Bản Tỉnh Chư Sơn Hội đã bảo vệ được các chùa trước sự tàn
phá của lính Pháp cũng như củng cố Tăng già làm tiền đề cho phong trào chấn hưng Phật
giáo. Tổ chức này chính là tiền thân của Giáo Hội Tăng Già về sau.Đến năm 1992, nhân dịp
khánh thành bảo tháp tổ sư Minh Hải, môn phái Chúc Thánh mới chính thức thành lập. Đây
là nhu cầu thiết yếu để duy trì truyền thống và sự phát triển của tông môn. Chư Tăng Ni
thuộc môn phái khắp các tỉnh thành trong cả nước đều vân tập về Chúc Thánh tổ chức hội
nghị thành lập mơn phái. Danh xưng chính thức được gọi là Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh
và đặt trụ sở tại tổ đình Chúc Thánh-Hội An. Cơ cấu tổ chức bao gồm 2 hội đồng: Hội Đồng
Môn Phái và Hội Đồng Điều Hành. Hội Đồng Môn Phái gồm các vị tơn túc tiêu biểu cho
giới luật, có nhiệm vụ chứng minh các đại lễ, đàn giới của mơn phái. Hội Đồng Điều Hành
có trách nhiệm điều hành mọi công tác Phật sự của môn phái. Đứng đầu mơn phái có một vị
Trưởng mơn phái và nhiều vị Phó trưởng mơn phái, chánh phó thư ký và các ủy viên. Các vị
phó trưởng mơn phái là chi phái trưởng tại các tỉnh thành. Hội nghị cũng đã thông qua bản
Nội Quy của môn phái bao gồm 7 chương 16 điều.
2.3. Các thiền sư tiêu biểu trong sự nghiệp truyền thừa:
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, tại Quảng Nam đều có các vị thiền sư đóng vai trị chủ đạo của
tông môn. Các vị thiền sư tiêu biểu trong sự nghiệp truyền thừa qua các thời kỳ như sau:
1. Hòa thượng Ân Triêm (1712-1796): Ngài họ Lê, sinh năm 1712 tại xã Bến Đền, phủ Điện
Bàn, dinh Quảng Nam.Năm lên 10 tuổi, ngài xuất gia với tổ Minh Hải tại chùa Chúc Thánh,
được tổ ban cho pháp danh Thiệt Dinh, hiệu Ân Triêm, nối pháp đời 35 dòng Lâm Tế Chúc
Thánh. Sau khi tổ Minh Hải viên tịch, Ngài đến ấp Trảng Kèo, xã Thanh Hà, phủ Điện Bàn
lập thảo am lấy tên là Phước Lâm để tịnh tu đạo nghiệp..Gần 50 năm khai sáng và hành đạo
tại Phước Lâm, vào năm 1796, sau khi dặn dị phó chúc cho đệ tử, Ngài phát nguyện thiêu
thân cúng dường Tam bảo, hưởng thọ 85 tuổi.
2. Hòa thượng Minh Giác (1747-1830): Ngài thế danh Võ Đức Nghiêm, sinh ngày 15 tháng
1 năm 1747tại thơn Ngọc Trì, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Khi vừa tròn 12 tuổi,
13
ngài xuất gia tại chùa Phước Lâm với Hòa thượng Ân Triêm và được bổn sư cho pháp danh
Pháp Liêm. Như vậy, Ngài nối pháp đời 36 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
3. Hòa thượng Quán Thông (1798-1883): Ngài thế danh Nguyễn Văn Định, sanh vào năm
1798, tại làng Trung Phường, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ngài xuất gia và đắc
pháp với tổ Pháp Liêm-Luật Oai nên có pháp danh Tồn Nhâm, nối pháp đời 37 dịng Lâm
Tế Chúc Thánh.
4. Hòa thượng Huệ Quang (…-1873): Ngài thế danh Đặng Văn Quang người xã Đức An,
phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ngài xuất gia đắc pháp với tổ Quán thông nên có pháp
danh Chương Tư, thuộc đời 38 dịng Lâm Tế Chúc Thánh.
5. Hòa thượng Vĩnh Gia (1840 -1918): Ngài thế danh Đoàn Nhược sinh vào năm 1840 tại
làng Thế Dương, quận Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 1859, ngài đến chùa Tam ThaiNgũ Hành Sơn xin xuất gia với tổ Chương Tư-Tuyên Văn, được tổ ban cho pháp danh là Ấn
Bổn. Từ đây, Ngài nối truyền đời thứ 39 tông phái Lâm Tế Chúc Thánh.
6. Hịa thượng Từ Trí (1852-1921): Ngài tên Nguyễn Viết Lư sinh năm 1852, tại xã An Bình,
huyện Lễ Dương, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm 1866, tròn 15 tuổi, ngài đến chùa
Linh Ứng bái Hòa thượng Chương Quảng-Tuyên Châu làm thầy. Ngài được tổ ban
pháp danh Ấn Lan, nối pháp đời 39 thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
7. Hòa thượng Phổ Thoại (1875-1954): Ngài thế danh Nguyễn Văn Thọ, sinh năm 1875 tại
xã Cẩm Kim, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Năm 1887, ngài xuất gia với tổ Chương ĐạoTôn Tùng tại chùa Chúc Thánh với pháp danh Ấn Nghiêm, nối pháp đời 39 dòng Lâm Tế
Chúc Thánh.
8. Hòa thượng Thiện Quả (1881-1962): Ngài thế danh Dương Văn Y, sinh ngày 23 tháng
Chạp năm 1881, tại xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm lên 15 tuổi, Ngài
xuất gia với tổ Ấn Bính-Tổ Thuận-Phổ Bảo tại chùa Chúc Thánh nên có pháp danh Chơn
Chứng. Ngài nối pháp đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
9. Quảng Nam Tứ Trụ:Quảng Nam Tứ Trụ là danh từ thân mật kính ngưỡng mà chư Tăng Ni
Phật tử gọi 4 vị Hòa thượng tài ba lỗi lạc của xứ Quảng hiện đại. Đó là Hịa thượng Chơn
Phát, Hịa thượng Long Trí, Hịa thượng Như Vạn, Hịa thượng Như Huệ. Mỗi vị có một biệt
tài và đã đoàn kết bên nhau hướng dẫn Tăng Ni Phật tử tu hành cũng như tham gia
14
các phong trào đấu tranh địi tự do bình đẳng tơn giáo vào những thập niên 60 - 70 của thế
kỷ XX. Các Ngài kế thừa sự nghiệp chư tổ làm cho Phật giáo Quảng Nam một thời hưng
thịnh.
- Hòa thượng Chơn Phát : Ngài thế danh Nguyễn Nghi, sinh năm 1932 tại Kim Bồng, xã
Cẩm Kim, Hội An. Ngài xuất gia năm lên 10 tuổi với Hòa thượng Phổ Thoại tại Long Tuyền
với pháp danh Chơn Phát, thuộc đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài trụ trì chùa Long Tuyền
và thành lập Phật Học Viện Quảng Nam vào năm 1970.
- Hịa thượng Long Trí (1928 -1998): Ngài thế danh Lý Trường Châu, sanh năm 1928 tại
làng Minh Hương-Hội An. Xuất gia năm 19 tuổi với Hòa thượng Phổ Thoại nên có pháp
danh Chơn Ngọc, nối pháp đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh.
- Hòa thượng Như Vạn (1930 -1980): Ngài thế danh Trần Văn Chín, sinh năm 1930 tại Ái
Nghĩa-Đại Lộc. Ngài xuất gia năm 21 tuổi tại Chúc Thánh với Hòa thượng Thiện Quả, được
ban pháp danh Như Vạn, nối pháp đời thứ 41 Lâm Tế Chúc Thánh.
- Hòa thượng Như Huệ: Ngài thế danh Phạm Huệ, sinh năm 1934 tại làng Cẩm Phô-Hội An.
Ngài xuất gia với Hịa thượng Thiện Quả tại tổ đình Chúc Thánh. Ngài được bổn sư ban cho
pháp danh Như Huệ, nối pháp đời 41 dịng Lâm Tế Chúc Thánh.
2.4. Những Đóng Góp Của Thiền Phái Chúc Thánh:
2.4.1. Đối Với Đạo Pháp:
Kể từ khi tổ Minh Hải khai sơn tổ đình Chúc Thánh tính đến nay đã trải qua 300 năm truyền
thừa lịch sử. Tăng đồ dịng Chúc Thánh khơng ngừng vận dụng đem hết mọi khả năng của
mình để hoằng dương Phật pháp. Từ một vùng đất mà sự sinh hoạt Phật giáo chưa được ổn
định, các Ngài đã đào tạo những thế hệ kế tục xứng đáng làm cho Phật giáo Quảng Nam
khởi sắc, ổn định và phát triển song hành cùng với Phật giáo các tỉnh trong nước. Phật giáo
Quảng Nam dưới sự lãnh đạo và hướng dẫn của chư tăng dịng Chúc Thánh đã góp vào lịch
sử truyền bá Phật giáo trên đất Việt những trang vàng son rực rỡ.
2.4.2. Đối Với Dân Tộc:
Với tôn chỉ “Hộ quốc an dân” thiền phái đã đóng góp rất lớn cho Dân tộc qua mọi triều đại.
Các thiền sư dòng Tào Động đóng vai trị cố vấn chính trị cho chúa Nguyễn thì các thiền sư
dịng Chúc Thánh đã tạo được sự đồn kết trong mọi tầng lớp dân chúng, góp phần ổn định
15
nhân tâm nên các chúa Nguyễn rất mến mộ. Trong giai đoạn Pháp thuộc, các Ngài cũng đã
dấn thân tham gia phong trào Duy Tân, che chở cho các nhà chí sĩ cách mạng nhằm giành
lại nền tự chủ của nước nhà.
2.4.3. Đối Với Văn Hóa.
-Về văn hóa vật thể: Sự phát triển của môn phái Chúc Thánh tại Quảng Nam đã đưa đến số
lượng các chùa ngày một phát triển. Từ Chúc Thánh, các chùa như Phước Lâm, Cổ Lâm,
Linh Ứng, Long Tuyền v.v… lần lượt ra đời và trở thành những ngôi chùa tổ. Kiến trúc các
ngôi chùa tổ đã phần nào nói lên được nét văn hóa riêng biệt của người dân xứ Quảng. Các
pho tượng cổ, các quả chuông xưa, những bản gỗ khắc kinh văn v.v…. Chính quần thể kiến
trúc các chùa là một trong những yếu tố quan trọng để tổ chức UNESSCO công nhận Hội An
là di sản văn hóa thế giới, thu hút nhiều khách nước ngoài đến tham quan chiêm ngưỡng.
-Về mặt văn hóa phi vật thể: Sự giáo hóa của tăng đồ dịng Chúc Thánh đóng vai trị rất lớn
trong đời sống tinh thần tại đất Quảng. Đạo đức Phật giáo được thể hiện qua đời sống của
chư tăng ảnh hưởng đến sinh hoạt tín ngưỡng ,tâm tư tình cảm của người dân nơi đây .
Chương 3
SỰ TRUYỀN THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH TẠI CÁC
TỈNH MIỀN TRUNG VÀ NAM VIỆT NAM.
3.1 Tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Năm 1889, thiền sư Chơn Kim-Pháp Lâm thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh từ chùa
Châu Lâm-Phú Yên ra kinh đô hoằng hóa tại chùa Viên Thơng. Chùa Viên Thơng do tổ Liễu
Quán khai sơn, truyền đến đời ngài Tánh Trạm thì khơng có người kế thừa nên thiền sư
Chơn Kim đảm nhận chức trụ trì. Từ đây, thiền phái Chúc Thánh có mặt và phát triển tại
Huế.Sự phát triển của dòng Chúc Thánh tại Thừa Thiên-Huế rất là khiêm tốn, chỉ vỏn vẹn
một ngôi chùa Viên Thông. Nhưng xét về mối tương giao thì các vị cao tăng ở Huế thời cận
đại đều vào thọ giáo và đắc pháp với các thiền sư dòng Chúc Thánh tại Quảng Nam. Các
Hòa thượng Vĩnh Gia, Phước Trí bằng đạo lực của mình đã tác thành giới thể cho các giới
tử, mà về sau trở thành các bậc cao tăng không những cho xứ Huế mà ảnh hưởng rất lớn đến
sự thịnh suy của Phật giáo Việt Nam.
16
3.2 Tỉnh Quảng Ngãi.
Dòng Lâm Tế Chúc Thánh có những vị cao tăng góp phần rất lớn trong sự nghiệp hoằng
dương Phật pháp tại Quảng Ngãi, tiêu biểu như :
- Đệ nhị tổ thiền sư Khánh Vân: Ngài xuất gia với tổ Minh Hải, pháp danh Thiệt Úy. Sau khi
khai sơn chùa Liên Tôn tại quê nhà, Ngài được thỉnh kế thế ngài Phật Bảo-Pháp Hóa trụ trì
chùa Thiên Ấn. Từ đây, chùa Thiên Ấn bắt đầu truyền thừa theo dòng kệ của tổ Minh Hải.
- Đệ tam tổ thiền sư Bảo Ấn: Ngài thuộc đời 37 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài đem hết tâm
huyết của mình để trùng tu tổ nghiệp nên thời Ngài tăng chúng tu hành tại Thiên Ấn rất
đông. Ngài noi gương tổ Bách Trượng thành lập nông thiền với chủ trương “Nhất nhật bất
tác, nhất nhật bất thực”.
- Đệ tứ tổ thiền sư Giác Tánh: Sau khi tổ Toàn Chiếu-Bảo Ấn viên tịch, đệ tử là ngài Chương
Khước kế nghiệp trụ trì Thiên Ấn. Ngài noi theo chí nguyện của Bổn sư tiếp tục mở rộng
nông thiền và tiếp tăng độ chúng. Môn hạ của Ngài có nhiều vị thành danh như các vị Hoằng
Phúc, Hoằng Thanh, Hoằng Tịnh, Hoằng Thạc ....
- Đệ ngũ tổ thiền sư Hoằng Phúc: Sau khi Tứ tổ viên tịch, Ngài Hoằng Phúc, trụ trì chùa
Quang Lộc được sơn mơn cung thỉnh kế nghiệp trụ trì Thiên Ấn. Ngài là đệ tử của tổ Giác
Tánh. Ngài có tâm nguyện sùng hưng chốn tổ, nhưng Ngài chỉ mới trùng tu được cổng tam
quan thì viên tịch ngày 19 tháng chạp năm 1914.
- Đệ lục tổ thiền sư Diệu Quang: Sau khi Ngũ tổ viên tịch, Thiên Ấn rơi vào tình trạng
khơng có trụ trì. Mãi đến năm 1921, ngài Diệu Quang về trụ trì. Ngài là đệ tử của tổ Hoằng
Phúc có pháp danh Chơn Trung, thuộc đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài có cơng sáng lập
và trùng tu nhiều chùa trong tỉnh cũng như đào tạo các thế hệ tăng sĩ kế thừa. Ngài thị tịch
vào ngày 13 tháng 2 năm Nhâm Thìn .
Tóm lại, kể từ khi có mặt trên đất Quảng Ngãi, các thiền sư dịng Lâm Tế Chúc Thánh ln
đem hết khả năng của mình để xiển dương Đạo pháp và phục vụ Dân tộc. Sự đóng góp ấy
ln được Tăng Ni Phật tử các thế hệ sau trân trọng ghi nhận và giữ gìn phát triển.
3.3 Tỉnh Bình Định.
Trong sự truyền thừa của dịng Chúc Thánh tại Bình Định, có những thiền sư tiêu biểu như
sau:
17
- Thiền sư Liễu Tạng (1784-1866): Ngài xuất gia với tổ Tồn Tín-Đức Thành tại chùa Khánh
Lâm ,thuộc đời 38 thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài là bậc danh tăng đa văn quảng bác
đã soạn cuốn “Thiền môn chánh độ” để làm nghi lễ tế Tăng cang Tổ Ấn-Mật Hoằng thị tịch
vào ngày mồng 10 tháng 10 năm 1825.
- Hịa thượng Trí Hải (1876-1950): Ngài xuất gia với tổ Ấn Lãnh-Hoằng Thạc tại chùa
Thạch Sơn-Quảng Ngãi, thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài nghiên cứu giảng
dạy và đã đào tạo nhiều vị tăng tài cho Phật giáo Việt Nam. Ngài viên tịch vào năm 1950.
- Hịa Thượng Trí Độ (1894-1979): Ngài xuất gia với tổ Chơn Giám-Trí Hải ,pháp danh là
Như Đăng, thuộc đời 41 dòng Chúc Thánh.Năm 1946, Ngài được mời ra giảng dạy tại chùa
Quán Sứ-Hà Nội. Từ đó, cuộc đời của Ngài gắn liền với những Phật sự tại miền Bắc cho đến
ngày viên tịch.
3.4 Các tỉnh Phú n - Khánh Hịa - Ninh Thuận - Bình Thuận.
Người đầu tiên của dòng Chúc Thánh đến Phú Yên là thiền sư Pháp Chuyên-Diệu Nghiêm,
đời 36 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài khai sơn chùa Từ Quang-Đá Trắng vào năm 1797.
Từ đó, chùa Từ Quang trở thành tổ đình của dịng Lâm Tế Chúc Thánh tại Phú Yên. Nơi đây
là trung tâm đào tạo tăng tài của các tỉnh miền Trung vào các thế kỷ XVIII, XIX và đầu thế
kỷ XX.Tại Phú n, dịng Chúc Thánh có những vị thiền sư nổi tiếng như:
- Thiền sư Diệu Nghiêm (1738-1810): Ngài đến chùa Phước Lâm-Hội An lạy tổ Ân Triêm
làm thầy và được tổ cho pháp danh Pháp Chuyên, nối pháp đời 36 dịng thiền.
- Thiền sư Tồn Nhật: Ngài xuất gia với tổ Pháp Chuyên tại chùa Từ Quang ,pháp danh Toàn
Nhật, đời 37 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài đã biên soạn, san định, giảo chính trên 20 tác phẩm
kinh luận bằng chữ Nôm.
- Thiền sư Pháp Tạng: Ngài là đệ tử của thiền sư Ấn Thiên-Huệ Nhãn, đời 40 Lâm Tế Chúc
Thánh. Ngài kế vị bổn sư trụ trì Phước Sơn với tâm nguyện tiếp tăng độ chúng.
3.5 Tại Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh miền Nam.
Từ đầu cho đến giữa thế kỷ XX, số lượng chư tăng thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại các
tỉnh miền Trung vào tu học và hoằng pháp tại thành phố Sài Gịn có số lượng khá đơng. Tuy
nhiên, nổi bậc nhất là Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Hành
Trụ đóng góp rất nhiều cơng đức cho ngơi nhà Phật giáo Việt Nam.
18
- Hòa thượng Khánh Anh (1895-1961): Ngài xuất gia với tổ Hoằng Thanh tại chùa Cảnh
Tiên và nhập chúng tu học với Hòa thượng Hoằng Phúc tại chùa Quang Lộc, thuộc đời 40
dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài trước tác rất nhiều kinh luận, trong đó nổi tiếng nhất là bộ
Khánh Anh Văn Sao 3 tập rất có giá trị. Ngài có công đào tạo nhiều vị tăng tài cho Phật giáo
Việt Nam như Hịa thượng Thiện Hoa, Hịa thượng Hồn Quan v.v
- Hòa thượng Quảng Đức (1897-1963): Ngài xuất gia năm lên 7 tuổi với Hịa thượng Hoằng
Thâm nên có pháp danh Thị Thủy, tự Hành Pháp, hiệu Quảng Đức thuộc đời 42 dòng Lâm
Tế Chúc Thánh. Ngài đã trùng tu cả thảy 17 ngôi chùa và chùa Quan Thế Âm tại quận Phú
Nhuận là nơi dừng chân cuối cùng của Ngài.
- Hòa thượng Hành Trụ (1904-1984): Ngài xuất gia với tổ Thiền Phương tại chùa Phước,
thuộc đời 41 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài có cơng kiến tạo nhiều ngơi chùa tại Sài Gòn
và làm giáo thọ các trường Phật học khắp miền Nam.
Như vậy, tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam hiện tại dòng Chúc Thánh được truyền bá rất
rộng rãi. Có một điểm đặc biệt, khi truyền vào miền Nam trong giai đoạn đầu, ta thấy các
thiền sư chỉ truyền pháp danh chứ khơng có pháp tự.
3. 6. Tại hải ngoại:
Vào những thập niên 70-80 của thế kỷ XX, một số lượng lớn người Việt ra nước ngoài định
cư. Người Việt rời tổ quốc ra đi với hàng nghìn lý do, nhưng Phật Việt ra hải ngoại chỉ một
lý do duy nhất: Hướng đạo tinh thần cho người Việt xa xứ và truyền bá giáo lý Phật Đà tại
Tây phương. Tuy nhiên, cộng đồng người Việt chỉ tập trung chính ở các nước thuộc Châu
Âu, Mỹ và Châu Úc.Ở Châu Âu, chùa Viên Giác tại Đức là đạo tràng lớn nhất truyền thừa
theo dòng Chúc Thánh. Thượng tọa Như Điển thuộc đời 41 dòng Lâm Tế Chúc Thánh sau 6
năm du học tại Nhật đã sang Đức vào năm 1978 để hoằng pháp. Sau 20 năm hành đạo,
Thượng tọa đã đào tạo được một đội ngũ tăng trẻ đủ khả năng gánh vác Phật sự tại các chi
hội Phật giáo ởi Châu Âu và Thượng tọa đã thành lập một hệ thống các chùa trực thuộc tông
Lâm Tế Chúc Thánh như Viên Ý (Italy), Vạn Hạnh (Đan Mạch), Viên Âm, Tam Bảo (Đức),
Niệm Phật đường Thảo Đường (Nga), Trung tâm tu học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng - Ấn
Độ.
19
KẾT LUẬN
Trong quá trình “Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh”,
học viên có những nhận định như sau:
- Thiền sư Minh Hải là vị tổ đầu tiên truyền bá dòng thiền Lâm Tế tại Quảng Nam. Bằng sự
chứng ngộ của mình, tổ sư Minh Hải đã xuất kệ truyền thừa, lập nên một thiền phái lớn
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Với tư tưởng “Đắc chánh luật vi tông”, Ngài đã đặt một
nền tảng căn bản cho sự phát triển của tông môn.
- Kể từ ngày tổ sư Minh Hải khai sơn, các đệ tử của Ngài đã kế thừa sự nghiệp của thầy tổ
nên mơn phong Chúc Thánh nhanh chóng hình thành và phát triển. Cho đến cuối thế kỷ
XVIII, các thiền sư dịng Chúc Thánh đã đóng vai trị chủ đạo trong việc truyền pháp tại
Quảng Nam và các tỉnh miền trung, khiến cho Phật giáo tại nơi đây sớm ổn định và phát
triển rực rỡ.
- Các thiền sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh có mặt tại các tỉnh thành trong cả nước để truyền
bá giáo lý giải thoát. Các ngài đã đem hết khả năng của mình để giáo hóa và dần dần tạo nên
chi phái khắp các mọi nơi. Tăng đồ của thiền phái Chúc Thánh đóng vai trò quan trọng trong
việc hoằng pháp tại các tỉnh thành từ Thừa Thiên-Huế đến Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Sài Gịn-Gia Định v.v….
- Thiền phái Chúc Thánh góp phần rất lớn trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp tại nước
nhà. Các thiền sư Thiệt Dinh, Pháp Liêm, Pháp Chuyên, Toàn Nhật, Vĩnh Gia, Từ Trí v.v…
đều là những bậc cao tăng có sự ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Việt Nam qua các thời
đại. Mỗi vị có một hạnh nguyện riêng biệt để hoằng pháp độ sanh: Ngài Pháp Liêm-Luật Oai
với hạnh nguyện Bồ Tát, ngài Pháp Chuyên-Luật Truyền, ngài Tồn Nhật- Vi Bảo với trí tuệ
siêu việt đã trước tác nhiều tác phẩm Phật học có giá trị lưu lại hậu thế, ngài Ấn Bổn - Vĩnh
Gia có cơng rất lớn trong việc đào tạo tăng tài thời cận đại v.v… tất cả đã viết nên trang lịch
sử vàng son cho môn phái. Đặc biệt, ngọn lửa “Đại Hùng Lực, Đại Từ bi” của ngài Thị
Thủy-Quảng Đức năm 1963 đã góp phần khơng nhỏ trong việc đưa Phật giáo và Dân tộc
thoát khỏi một chế độ độc tài hà khắc. Ngọn lửa thiêng ấy chính là đỉnh cao, là kết tinh của
tinh thần phụng sự Đạo pháp và Dân tộc.
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài viết được tổng hợp từ các nguồn tài liệu :
1.Các tài liệu về lịch sử Phật giáo như Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Thích Mật Thể.
2.Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang.
3.Các sử liệu về Thiền tơng của Hịa Thượng Thích Thanh Từ.
4.Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế của Thích Tín Nghĩa.
5.Hai Ngàn Năm Việt Nam & Phật Giáo của Lý Khơi Việt.
6.Phần dịch các bài kệ được trích từ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang.
21