GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
MƠN TRIẾT HỌC TƠN GIÁO
Đề tài:
THIÊN ĐÀNG THIÊN GIỚI CỦA CÁC TÔN GIÁO
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Giác Duyên
Sinh viên thực hiện: Đinh Văn Lễ
Pháp danh: Thích Quảng Chánh
Mã sinh viên: TX 6200
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo
TP. Hồ Chí Minh,tháng 02, năm 2022
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH
MƠN TRIẾT HỌC TƠN GIÁO
Đề tài:
THIÊN ĐÀNG THIÊN GIỚI CỦA CÁC TÔN GIÁO
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Giác Duyên
Sinh viên thực hiện: Đinh Văn Lễ
Pháp danh: Thích Quảng Chánh
Mã sinh viên: TX 6200
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo
TP. Hồ Chí Minh, năm 2022
MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Con người ai cũng có ước mơ. Kẻ thì mơ cảnh giàu sang, người thì mơ được thông
minh, xinh đẹp, người khác lại mơ được nổi tiếng… Cứ 100 người thì có lẽ đã có đến
101 ước mơ! Hễ đời sống thực tế càng bế tắc thì con người lại càng ước mơ nhiều, để
bù đắp vào những cái còn thiếu trong cuộc sống. Cũng như khi đời sống nội tâm càng
nghèo nàn thì người ta càng hướng về ngoại vật.Nhưng có lẽ ước mơ mn thuở của
tất cả lồi người - kể từ thời nguyên thủy cho đến thời hiện đại, và còn kéo dài mãi
đến khi vào con người còn tồn tại - là được đến một cõi bình yên sau khi chết. Cõi đó
được gọi bằng nhiều tên khác nhau như: thiên đàng, thiên giới, nước của Chúa, Tây
phương Cực lạc, Niết-bàn, Bồng lai tiên cảnh, cõi vĩnh hằng v.v…. Nhưng dù có được
gọi bất kỳ danh xưng nào đi nữa thì chúng cũng đều chỉ chung cho một cõi bình yên
vĩnh cửu và lạc phúc vô biên mà con người muốn hướng đến, sau khi lìa bỏ cái cõi thế
phù du đầy biến động này.Tôn giáo nào cũng xây dựng nên cõi vĩnh hằng đó để làm
chỗ an trú đời đời cho tín đồ sau khi chết. Và mn triệu tín đồ khắp nơi đều lo toan
tìm mọi cách xin cho được “visa” để nhập cư vào chốn đó.Cõi chết vẫn mãi mãi là
một điều vơ cùng bí ẩn đối với con người. Đó là một vùng đất huyền bí mà sau khi đặt
chân đến đó thì ta khơng cịn đường quay về lại với trần gian. Cho nên nếu con người
lý giải được bản chất của cái chết thì có lẽ tơn giáo khơng cịn lý do để tồn tại nữa.
Người ta làm việc thiện, dốc lòng tin tưởng thánh thần, xây đền tạc tượng, thậm chí bỏ
cả tiền bạc ra để hối lộ thần linh - cả một cảnh tượng huyên náo đang diễn ra ầm ĩ nơi
trần thế cả hàng ngàn năm qua - cũng chỉ để tìm cách chen nhau vào chốn được hình
dung là cõi tĩnh lặng muôn đời kia. Ngay cả Phật giáo là một tôn giáo chủ trương chối
bỏ thần linh, khước từ thế giới của chư thần, chỉ dùng trí tuệ quán chiếu vào bản chất
như thực của cuộc sống để đạt đến trạng thái giải thoát; vậy mà trải qua mấy ngàn
năm truyền giáo, vô số chư vị Bồ-tát quảng đại thần thông cùng chư thần lần lượt
được sản sinh ra - do cuộc hơn phối với các tín ngưỡng bình dân bản địa - và xuất hiện
khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới để đáp ứng lại tín ngưỡng bình dân đó của đại
chúng.Ta có thể gọi đó là mê tín, nhưng chính cảnh tượng đó đã khiến cho trần gian
thêm hương sắc. Nếu hoạt động tơn giáo chỉ gói gọn trong việc tĩnh tọa nơi thâm sơn
cùng cốc, trong các thảo am u tịch, hay các cuộc vấn đáp tại các thiền đường để thể
nghiệm và hội nhập chân lý, hoặc ngồi cầu nguyện trong cô tịch để nhận được thiên
khải từ Thượng đế v.v... thì những ngày đại lễ như Phật đản hay Noel nơi trần gian ắt
sẽ tẻ nhạt lắm. Có lẽ nó chỉ cịn lại phần “lễ” trang nghiêm nặng nề nghi thức, mà
thiếu đi sự nhộn nhịp xơn xao của phần “hội”. Mà chính phần “hội” mới thường giúp
con người hăng say trong các hoạt động tôn giáo.Ước mơ được lên thiên đàng là ước
mơ hồn tồn chính đáng của lồi người. Nhưng chúng ta hãy thử tự hỏi những tín đồ
thuần thành, dốc lịng sùng đạo đó, những người được cho là đã “siêu thăng” hay “giải
thốt” đó sẽ làm gì sau khi được vào cõi được gọi là thiên đàng hay Tây phương cực
lạc? Cịn những tín đồ đã chết và đang chờ Ngày phán xét cuối cùng trong hàng ngàn
năm qua hiện đang làm gì và sống nơi đâu, trong vũ trụ?Được sống đời đời với cuộc
sống tràn đầy lạc phúc nơi cõi đó, khơng cịn lo chuyện áo cơm, khơng cịn buồn sầu
phiền não, ngày ngày được chiêm ngưỡng Thượng đế trong ánh hào quang rực rỡ với
niềm kính sợ, được nghe thiên thần ca hát hoặc nhìn tiên nữ lượn múa trong những
khu vườn đầy kỳ hoa dị thảo, hoặc được sống trong các tòa lâu các làm bằng thất bảo
4
như kinh điển mô tả v.v... ngày nào cũng trôi qua như ngày nấy cho đến vơ tận, khơng
cịn đến khái niệm thời gian; đó có thực sự là cảnh giới đầy lạc phúc?.Vì lý do đó học
viên chọn đề tài “Tìm hiểu về Thiên đàng, Thiên giới của các tơn giáo” làm đề tài tiểu
luận của mình.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên dùng phương pháp: phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, diễn dịch, quy
nạp… để nghiên cứu, phân tích và trình bày tiểu luận,từ đó đi đến kết luận để làm
sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
3.Nội dung nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu : Tìm hiểu về Thiên đàng, Thiên
giới của các tôn giáo.
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung.Nội dung gồm 03 chương
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo
5
A. NỘI DUNG
Chương 1
TÌM HIỂU VỀ THIÊN ĐÀNG
1.1.Khái niệm thiên đàng
Thật ra đối với người Việt nam chúng ta thì từ ngữ Thiên đàng dường như khơng có
trong tiếng Việt. Vì ảnh hưởng văn hóa Tam giáo (Phật, Nho, Lão) từ Trung quốc, nên
người Việt nam chỉ biết về một nơi Niết bàn cực lạc, mà từ ngữ quen thuộc là Tây
phương cực lạc (đúng ra Tây phương chỉ về nơi phát sinh Phật giáo là Ấn Độ), hoặc
Bồng lai Tiên cảnh với các thần tiên ăn mặc và mang tên theo kiểu người Trung quốc.
Phải nói là từ khi người Việt nam tiếp xúc với Cơ-đốc giáo (Công giáo Lamã và Tin
Lành) thì danh từ Thiên đàng mới xuất hiện trong tư tưởng của người Việt nam.Đây là
những khái niệm về Thiên đàng của thế giới:“Trong khi có vơ số các khái niệm khác
nhau về thiên đàng thì quan niệm tiêu biểu của những người tin vào thiên đàng thường
phụ thuộc vào truyền thống tôn giáo riêng biệt của họ. Các tôn giáo khác nhau miêu tả
thiên đàng là nơi chốn dành cho thiên sứ, ma quỷ, các nam và nữ thần, cũng như các
vị anh hùng (nhất là trong Thần thoại Hi Lạp). Thiên đàng thường được hiểu là nơi
chốn của phước hạnh, đôi khi được hiểu là chỗ ở phước hạnh vĩnh cửu.”Trong phần
lớn các giáo hội thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo, thiên đàng là sự trở lại tình trạng trước
khi sa ngã của lồi người, sự tái lập Vườn Eden, ở đó con người được tái hợp với
Thiên Chúa trong tình trạng tồn hảo và tự nhiên của sự sống đời đời. Tín hữu Cơ Đốc
tin rằng sự tái hợp này giữa con người và Thiên Chúa được hoàn tất qua sự hi sinh của
Chúa Giê-xu Cơ Đốc khi Ngài chết trên thập tự giá vì tội lỗi của lồi người.Quan
niệm phổ biến của hầu hết các tơn giáo là khi vừa lìa đời, con người sẽ bước ngay vào
thiên đàng. Tuy nhiên, không phải tất cả tín hữu Cơ Đốc chia sẻ niềm tin này. Nhiều
người trong cộng đồng Cơ Đốc giáo tin rằng trước khi vào thiên đàng cần phải chờ
đợi “cho đến khi thế gian này qua đi”.Trong thần học Cơ Đốc, có hai khái niệm hỗ
tương về thiên đàng thường được gọi là “sự sống lại của thân xác” và “sự bất diệt của
linh hồn”. Trong khái niệm đầu, linh hồn sẽ khơng lên thiên đàng cho đến khi có sự
phán xét sau cùng là lúc thân xác được hồi sinh và mọi người chịu xét xử. Trong khái
niệm sau, linh hồn lên thẳng thiên đàng sau khi chết. Cả hai khái niệm này được kết
hợp trong học thuyết hai lần phán xét, theo đó linh hồn chịu phán xét lần đầu sau khi
chết để vào ở một nơi phước hạnh tạm thời (paradise) trong khi chờ đợi sự phán xét
lần thứ hai trong ngày tận thế”.1Đó là những suy đốn hay suy nghĩ của con người đối
với Thiên đàng. Thế thì Kinh thánh nói gì về Thiên đàng? Thiên đàng là chốn nào?
Thiên đàng có thật khơng?... Bao nhiêu là câu hỏi được đặt ra và chỉ có Kinh thánh là
đầy đủ lời giải thích.
1.2.Thiên đàng ở đâu
Để trả lời câu hỏi Thiên đàng ở đâu? chúng ta cần trả lời hai phương diện: sai và đúng.
a. Phương diện hiểu sai:
1. Thiên đàng ở trên trời:
Thông thường, người Việt nam chúng ta khi nghe nói đến chữ thiên bao giờ cũng
ngước mặt lên phía trên bầu khí quyển, hoặc tay chỉ lên phía trên. Nếu đứng phía bên
này quả đất thì chỉ lên, trong lúc đó những người ở phía dưới quả đất sẽ chỉ vào đâu?
6
Cách hiểu này khiến nhiều người khi nghe đến địa ngục thì lại chỉ vào lịng đất.
Nếu theo thuyết vũ trụ trương nở thì vũ trụ càng ngày càng rộng ra. Nói như người
Việt nam xưa kể rằng ngày xưa Trời ở gần lồi người, con người có thể lên trời chơi
được, nhưng vì lồi người cứ kêu trời ơi trời hỡi làm cho Trời nhức đầu nên càng ngày
càng xa. Nói và hiểu như thế thì Thiên đàng cách xa lồi người biết bao nhiêu, ít nhất
cũng vượt ngồi vũ trụ này.Thật ra người Việt nam chúng ta khi nói Thiên đàng ở trên
trời là một lối nói ẩn tượng ám chỉ Thiên đàng ở phía trên và xa lắm! nhưng khơng
xác định một vị trí chắc chắn, chỉ xác định là Thiên đàng thực hữu và có địa điểm.
2. Thiên đàng là chốn hưởng lạc:
Theo cách giải thích của một lý thuyết tơn giáo thì Thiên đàng là nơi hưởng lạc với
rượu ngon gái đẹp, hoa thơm. Chính vì lời giải thích này khiến cho nhiều người gọi
những chốn ăn chơi hoang đàng trên đất là Thiên đàng. Một sự cố ý lệch lạc hạ cấp
Thiên đàng đáng trách!
3. Thiên đàng là nơi tĩnh lặng vô vi:
Người Việt nam rất quen thuộc với Triết lý Phật giáo, nên cũng quen thuộc với giáo
thuyết về Niết bàn cực lạc. Phật giáo dạy rằng Niết bàn là nơi khơng có gió (theo
nghĩa đen của chữ Niết bàn), tức là nơi tĩnh lặng. Khi nhập Niết bàn, thì khơng cịn
vướng bận, đã diệt được cái nghiệp. Nói thì nói thế nhưng khơng ai dám nhận mình có
đủ căn tu để nhập Niết bàn.Lời giải thích này gần giống như quan niệm của Do thái
thời Cựu Ước được ghi trong Truyền đạo 9:10, Mọi việc tay ngươi làm được, hãy làm
hết sức mình; vì dưới Âm phủ, là nơi ngươi đi đến, chẳng có việc làm, chẳng có mưu
kế, cũng chẳng có tri thức, hay là sự khôn ngoan, chỉ khác chăng là người Do thái gọi
nơi đó là Âm phủ, khơng gọi đó là Thiên đàng.
4. Thiên đàng là Nước Thiên đàng:
Nhiều người Việt nam tin Chúa Jêsus thường hiểu lầm Nước Thiên đàng trong các
sách Tin Lành là Thiên đàng.Nước Thiên đàng mà Chúa Jêsus nói đến trong các sách
Tin Lành trong các bài giảng của Ngài không phải là Thiên đàng. Theo Mathiơ 13, bài
giảng mà Chúa Jêsus nói đến Nước Thiên đàng nhiều nhất và rõ ràng nhất, Nước
Thiên đàng chính là Hội thánh hữu hình của Chúa trên đất, có thể bị xen lẫn những cái
xấu, cái ác từ ma quỉ như lúa mì bị cỏ lùng xen vào, (như tay lưới kéo lên có cá mà
cũng có các thứ khơng cần thiết khác…). Mặc dù vậy, trong Hội thánh hữu hình cũng
có những hình bóng về Thiên đàng: như sự ca hát ngợi khen thờ phượng Chúa.
5. Thiên đàng là Ba-ra-đi:
Trong sách Tin Lành Luca, hai lần Chúa Jêsus đề cập đến một chỗ phước hạnh nhưng
không phải là Thiên đàng:
- Luca 16:22a, người nghèo chết (Laxarơ) được thiên sứ đem để vào lòng Áp-ra-ham,
nơi này là nơi phước hạnh khác hẳn phần Âm phủ mà người giàu bị đau đớn khi vào
đó. Nhưng Chúa Jêsus không gọi nơi này là Thiên đàng.
- Luca 23:43, Chúa Jêsus hứa với tên ăn cướp trên thập tự giá ăn năn tin Ngài rằng:
Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi.
Nhưng tham khảo với I Phierơ 3:19 và Bài Tín điều các Sứ đồ, thì sau khi trút linh
hồn trên thập tự giá, thì Chúa Jêsus đã vào Âm phủ giảng Tin Lành cho các linh hồn bị
tù. Như vậy, tên cướp ăn năn tin Chúa Jêsus khi chết lúc đó chưa vào Thiên đàng mà
vào Ba-ra-đi (Paradise), là phần Âm phủ dành cho người thiện. Tuy nhiên, điều phải
nhớ là chúng ta chỉ đang nói về phần nhân tánh của Chúa Jêsus giới hạn trong một
nơi, về phần thần tánh thì Ngài vẫn là Đức Chúa Trời vơ sở bất tại ở khắp mọi
7
nơi.Điều quan trọng là sau khi Chúa Jêsus đã sống lại từ kẻ chết, Ngài đã giải phóng
tất cả những người trong Ba-ra-đi (Êphêsơ 4:8-10), từ lúc đó, tất cả người tin Chúa
Jêsus qua đời, linh hồn trực tiếp gặp Chúa, còn thân thể chờ đợi ngày Chúa Jêsus tái
lâm để họ được sống lại.
6. Thiên đàng là Địa đàng:
Có những người ngày nay lại chủ trương họ sẽ thực hiện loại Thiên đàng trên đất mà
họ gọi là Địa đàng.Sau năm 1975, các Mục sư Truyền đạo Việt nam được mời nghe
một người khơng tin Chúa thuyết trình về cái gọi là Địa đàng, tức là Thiên đàng trên
đất qua Khải huyền 21:4 với các lý giải như sau:
- Địa đàng của người đó khơng có sự chết: khơng phải là không chết mà là không chết
cách vô cớ, vơ lý. Thí dụ trong Địa đàng khi một người có bịnh thì có Bịnh viện
khơng tốn tiền, được điều trị tận tình, thuốc men đầy đủ hồn tồn miễn phí.
- Địa đàng của người đó khơng có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa. Người đó
đặt câu hỏi: Tại sao có than khóc, kêu ca hay là đau đớn? Khi có áp bức trong xã hội
thì người ta sẽ than khóc, kêu ca, hay là đau đớn. Vì vậy trong Địa đàng khơng cịn
tình trạng người bóc lột người, mà mọi người đều bình đẳng.
Đó giọng lưỡi của con rắn ngày xưa (chỉ tiếc là rất nhiều mục sư truyền đạo đã vỗ tay
tán thưởng lời của con rắn). Thực tế như Chúa phán trong Giêrêmi 13:23, Người Êthi-ơ-bi có thể đổi được da mình, hay là con beo đổi được vằn nó chăng? Nếu được thì
các ngươi là kẻ đã làm dữ quen rồi, sẽ làm lành được, Địa đàng không thấy, chỉ thấy
Địa ngục. Thiên đàng không phải chỉ cảnh an nhàn trên đất mà còn trên cả tuyệt vời.
b. Phương diện Kinh thánh:
Trong nguyên ngữ tiếng Hi-bá-lai Cựu Ước (sāmayim) và Hi-lạp Tân Ước (ouranos)
được dịch nghĩa là Trời. Từ ngữ này có ba ý nghĩa:
- Trời là bầu khí quyển bao quanh trái đất, do đó thường xuất hiện với số nhiều (các
từng trời (Thi thiên 19:1; II Côrintô 12:2; Hêb. 4:14).
- Theo ngơn ngữ bình dân của người Việt nam, Trời cũng gần như một hành tinh, do
đó người Việt nam thường nói “trời đất”, cũng nói “trời cha đất mẹ”. Truyền thuyết sự
tích bánh giầy bánh chưng đã nói lên ý tưởng so sánh trời là một hành tinh như trái
đất, trời trịn đất vng.
- Ý thứ ba, Trời chỉ về một nơi thuộc linh, nơi người tin Chúa Jêsus gọi là Thiên đàng,
nơi ở của Đức Chúa Trời, và của những người liên hệ gần gũi với Chúa. Người Y-sơra-ên cầu nguyện: “Cầu Chúa từ nơi cư sở thánh của Ngài trên trời cao” (Phục truyền
26:15).
Đức Chúa Trời được xưng gọi là “Đức Chúa Trời trên trời” (Giô-na 1:9). Kinh thánh
Tân Ước hoặc ám chỉ hoặc nói rõ trời là Thiên đàng, nơi Đức Chúa Trời ngự (Mathiơ
5:45; 7:21). Đôi khi trong tiếng Việt hiểu Ba-ra-đi là Thiên đàng (Luca 16:22a; 23:43;
Khải. 2:7), có lẽ chỉ để mơ tả nơi đó đầy phước hạnh, dù chưa phải là phước trọn vẹn.
Trong Việt ngữ, dịch âm Hán tự gọi Thiên đàng gồm thiên là trời; đàng (hay đường) là
nhà, nơi ở, vậy Thiên đàng (hay Thiên đường) là nhà trên trời, hay nhà của Đức Chúa
Trời. Theo một cách định nghĩa rộng rãi thì Thiên đàng là nơi Chúa ngự, ngược lại nơi
nào Chúa ngự thì nơi đó là Thiên đàng. Trong Thánh ca có một bài tựa đề Jêsus ngự
cùng, ấy nơi thiên cung, có câu: “Dầu thân trên đất dồi dập, lao đao, qua bao dặm dài,
trải lắm đồi cao; Nhà xiêu vách nát, kèo cột lung lay, Jêsus ngự vào, hóa thiên cung
ngay… Dầu qua thương hải, lục địa mênh mông, Jêsus ngự cùng, ấy nơi thiên cung”.
Hát như thế có nghĩa Thiên đàng là nơi có Chúa ngự.
8
Chương 2
THIÊN ĐÀNG TRONG TÔN GIÁO VÀ LỊCH SỬ THẾ GIỚI
2.1.Cổ xưa Lưỡng Hà
Thần thoại sáng tạo của Mesopotamia cổ đại thường bắt đầu bằng sự phân tách của
trời và đất, tạo ra một vũ trụ ba tầng bao gồm thiên đường ở trên, đất ở giữa vàthế giới
ngầm bên dưới. Các vị thần tối cao trị vì trên trời như một hội đồng hoặc hội đồng.
Trái đất là vương quốc của con người phàm trần, có mục đích phục vụ các vị thần
bằng cách cung cấp cho họ nơi ở thiêng liêng, thức ăn và cống phẩm; nó cũng là nơi
cư trú của các vị thần nhỏ và ác quỷ đóng vai trị trong phép thuật. Khi chết, con
người xuống âm phủ, một vùng đất ảm đạm không lối về; chỉ một số anh hùng nhân
loại đặc biệt mới được phép vào thiên đàng.Trong sử thi của Gilgamesh , một chu kỳ
truyền thuyết của người Sumer và người Akkad về vị vua của thành phố-bang
Mesopotamian Uruk, Gilgamesh tìm kiếm sự bất tử nhưng khơng thành cơng chỉ để có
được sự thật tỉnh táo về cái chết của con người: “Khi các vị thần tạo ra loài người, cái
chết cho loài người mà họ phân bổ, cuộc sống nằm trong tay của chính họ. " Mối quan
hệ tốt với thiên đàng dù sao cũng được coi là điều quan trọng đối với hạnh phúc của
người sống. Sử thi Gilgamesh cho thấy trật tự xã hội của Uruk không chỉ bị đe dọa bởi
tham vọng chinh phục cái chết phi thực tế của Gilgamesh mà cịn bởi việc anh ta
khơng muốn tham gia vào cuộc hôn nhân thiêng liêng với nữ thần Ishtar(Tiếng Sumer:
Inanna), nơi có ngơi đền là trung tâm của đời sống dân sự và dân tộc. Mối quan tâm
đến mối quan hệ tốt đẹp với thiên đàng cũng được phản ánh trong khối lượng lớn các
văn bản Lưỡng Hà dành cho quan sát thiên thể, lý thuyết thiên văn và truyền thuyết
chiêm tinh, tất cả đều phục vụ cho việc phân biệt và đối phó với ảnh hưởng của thiên
đường đối với các vấn đề của con người.
2.2. Ai cập
Sự nhấn mạnh thậm chí cịn lớn hơn về vai trò của người cai trị như là người bảo đảm
các mối quan hệ đúng đắn với thiên đàng, đặc trưng của nền văn minh Ai Cập cổ đại
trong suốt lịch sử 3.000 năm của nó. Nhà vua chia sẻ với thần mặt trời Re và thần bầu
trời Horus trách nhiệm bảo vệ trật tự chống lại sự hỗn loạn , và ông được ban đặc ân
tận hưởng cuộc sống tái tạo như một phần của mạch vũ trụ vĩ đại. Rằng cuộc sống tái
tạo này phụ thuộc vào sự hỗ trợ lớn từ các ngôi mộ lớn, hàng mộ và các nghi lễ nhà
xác công phu Thiên đường được hình dung trong thần thoại như một con bị thần trên
lưng mà thần mặt trời đã rút khỏi trái đất; trong vai thần Horus đầu chim ưng có đơi
mắt long lanh tạo nên Mặt trời và Mặt trăng; hoặc như nữ thần Nut vòm trên trái đất.
Tuy nhiên, một thế giới bên kia hạnh phúc có thể diễn ra ở bất kỳ địa điểm nào: trong
Cánh đồng Tháp Mười màu mỡ, với tư cách là một hành khách trong vỏ mặt trời, ở
cực Tây hoặc Đông, hoặc giữa các ngôi sao quanh cực. Nội dung Kim tự tháp hình
dung một thế giới bên kia hạnh phúc chỉ dành cho hoàng gia; vị vua chết được xác
định vớiOsiris cũng như với chiến thắng mặt trời mọc . CácCoffin Texts and the Book
of the Dead , trong đó thế giới bên kia ở một mức độ nào đó được “dân chủ hóa”, xác
định tất cả những người đã khuất với Osiris với tư cách là thẩm phán và người cai trị
thế giới ngầm.
2.3. Đạo Do Thái
9
Đúng như nguồn gốc Trung Đơng của nó, đạo Do Thái cổ đại lúc đầu nhấn mạnh vào
sự tách biệt của trời và đất và ít nói về viễn cảnh của một thế giới bên kia trên trời:
"Các trời là trời của CHÚA, nhưng là đất mà Ngài đã ban cho loài người" (Thi-thiên
115: 16). Thiên đường (trong tiếng Do Thái, šāmayim số nhiều ) là một cõi rộng lớn
phía trên trái đất, được nâng đỡ bởi một khối cứng rắn bằng đá q chói lọi, giữ cho
vùng nước phía trên khơng hịa lẫn với vùng nước bên dưới. Mặt trời, Mặt trăng và
các ngôi sao được đặt trong nền tảng vững chắc và các cửa sổ có thể mở ra để trút
mưa, tuyết, mưa đá hoặc sương từ các kho thiên thể. Đức Chúa Trời, Đấng tạo dựng
trời và đất, đã được tôn phong ở nơi cao nhất của trời; từ đó, ơng can thiệp vào cơng
việc của các tạo vật của mình và được tiết lộ qua Mơi-se.và các tiên tri về quyền tối
cao , sự chăm sóc quan phòng, và những đòi hỏi cao nhất và đạo đức của Ngài. Bao
quanh ngai vàng thần thánh là một loạt các sinh vật mặt trời, vật thể và thiên thần trên
trời. Những thiên thể này chia sẻ nhiều thuộc tính với các vị thần và nữ thần của người
Ca-na-an và tín ngưỡng đa thần Lưỡng Hà , nhưng thuyết độc thần mới nổi trong Kinh
thánh tiếng Do Thái đòi hỏi sự cam kết độc quyền với một Đức Chúa Trời, được gọi là
Chúa, Đấng mà mọi quyền lực trên trời và dưới đất đều phải tuân theo. Trong Do Thái
giáo cổ đại, cũng như trong các tôn giáo Trung Đơng khác vào thời kỳ đó, vũ trụ có
cấu trúc ba tầng. Đức Chúa Trời ngự trên trời và cũng hiện diện trong Đền thờ Giê-rusa-lem , cung điện của Ngài trên đất. Thế giới ngầm (tiếng Do Thái: She'ōl ), nơi con
người được ký gửi khi chết, dường như nằm ngoài quyền hạn của Chúa. Bức ảnh này
đã thay đổi đáng kể, tuy nhiên, để đáp ứng với Babylon Exile và sự tàn phá của đền
thờ đầu tiên năm 586 TCN , là niềm tin bắt đầu nắm lấy rằng phải có khơng có giới
hạn quyền lực của Thiên Chúa để minh oanngười của mình ngay cả sau khi chết.
Trong thời kỳ hậu phát triển, kinh nghiệm về sự cai trị của ngoại bang đã thúc đẩy
khao khát được giải thốt trong tương lai, khuyến khích sự suy đốn bị ảnh hưởng bởi
các mơ hình vũ trụ học , thiên thần học và sự bất tử của Ba Tư và Hy Lạp , đồng thời
sản sinh ra những người tử vì đạo có tun bố về thế giới bên kia trên trời dường như
đặc biệt mạnh mẽ. Do đóSách Đa-ni-ên , được coi là sáng tác mới nhất trong Kinh
thánh tiếng Do Thái, chứa đựng lời tiên tri này: Nhiều người trong số những người
ngủ trong bụi đất sẽ thức giấc, một số được sống đời đời, và một số phải xấu hổ và
khinh bỉ đời đời . Những ai khôn ngoan sẽ tỏa sáng như ánh sáng của bầu trời, và
những người dẫn nhiều người đến sự công bình, như các vì sao cho đến đời đời. (12:
2–3)Trong khi niềm tin vào một thế giới bên kia trời trở nên phổ biến trong Age Hy
Lạp (323-30 TCN ), khơng có mơ hình đơn chiếm ưu thế, mà là một phong phú của
hình ảnh và các chương trình, trong đó có sự sống lại của kẻ chết, sự bất tử của linh
hồn, và chuyển đổi thành một thiên thần hay ngơi sao. Các cuộc hành trình nhìn xa
trơng rộng qua các tầng trời (được coi như một hệ thống phân cấp của các quả cầu) đã
trở thành một yếu tố quan trọng của văn học khải huyền , và các nhà thần bí Do Thái
đã tạo ra một truyền thuyết thần học rộng lớn liên quan đến các cung điện trên trời,
các quyền năng thiên thần và các kích thước của cơ thể Chúa. Dấu vết của sự thần bí
về thiên đàng này vẫn có thể được tìm thấy trong sách cầu nguyện của người Do Thái
(siddur ).Cổ điển Rabbinic Judaism, which emerged after the destruction of the
Second Temple (70 ce) and established the main lines on which Jewish eschatology
would develop, admitted a plurality of images for heaven; the expression ʿolam ha-ba
(“the world to come”) refers both to the messianic age and to the heavenly estate to
which the righteous ascend at death. After death, righteous souls await the resurrection
10
in the heavenly Garden of Eden or hidden under the divine throne. Jewish liturgy piles
praise upon praise in exaltation of the name and kingship of God, who “rides the
highest heavens,” blesses his people eternally, judges, redeems, and “maintains His
faith to those asleep in the dust.” The Sa-bát được hiểu là một bản xem trước của thiên
đàng, dự đoán đám cưới lễ vào cuối thời gian, khi các cơng trình sáng tạo sẽ được
hồn thành và điều kiện ni nhốt Si-ơn sẽ kết thúc.
2.4. Cơ đốc giáo
Kitô giáo bắt đầu như một trong nhiều khải huyền và cải cách phong trào Do Thái
hoạt động ở Palestine vào thế kỷ 1 ce . Những nhóm này chia sẻ một niềm tin mãnh
liệt rằng trời mới và đất mới mà Ê-sai tiên tri (Ê-sai 65:17) đã gần kề. Họ tin rằng lịch
sử sẽ sớm tìm thấy sự viên mãn của nó trong một thế giới hoàn thiện, khi các quốc gia
sẽ bị phán xét, những người được tuyển chọn được cứu chuộc và Israel được phục
hồi.Quan niệm của người Do Thái và Cơ đốc giáo về thiên đường phát triển song song
với nhau, rút ra từ các nguồn Kinh thánh và Hy Lạp-La mã được chia sẻ. Phụng vụ
Đền thờ, hội đường và nghi lễ thánh thể thơng báo những hình ảnh của thiên đàng, để
thờ phượng cộng đồng một cách tượng trưng lên đến Jerusalem trên trời, một vương
quốc của sự tôn thờ vĩnh viễn và cầu thay cho nhu cầu của thế giới, nơi các thiên thần
không ngừng ca hát “Thánh, thánh, thánh là CHÚA của các chủ nhà ”(Ê-sai 6: 3).Các
Kitô hữu tin rằng sự ghẻ lạnh giữa trời và đất đã kết thúc bằng sự Nhập thể , Thương
khó, Phục sinh và Thăng thiên của Chúa Kitô : “trong Chúa Kitơ, Thiên Chúa đã hịa
giải thế gian với chính Người” (2Cô-rinh-tô 5:19). Chia sẻ trong cuộc sống thần linh
bất tử của Đấng Christ là các thành viên trong thân thể thần bí của Ngài, Hội thánh
(tiếng Hy Lạp: ekklēsia ), là sự hiệp thông của các thánh cả sống và chết. CácĐức
Trinh Nữ Maria , được coi là Nữ Vương Thiên Đàng, cầu bầu khơng mệt mỏi cho các
tín hữu, kể cả những tội nhân tìm kiếm sự bảo vệ của Mẹ.
2.5. Đạo Hồi
Các Qurʾān , theo truyền thống Hồi giáo có nguồn gốc từ thiên đàng, thường gọi sự
chú ý đến các tầng trời như một dấu hiệu của quyền tối cao, cơng lý và lịng thương
xót của Chúa. Khi trái đất vừa mới hình thành và bầu trời chỉ còn là hơi nước, Đức
Chúa Trời đã truyền lệnh cho họ kết hợp với nhau, và họ sẵn lịng phục tùng (sura 41:
11–12). Sau đó, Đức Chúa Trời đã hồn thành việc sáng tạo của mình bằng cách hình
thành bầu trời thành bảy phần vững chắc, tơ điểm cho phần dưới bằng ánh sáng và gán
cho mọi thứ là thước đo chính xác của nó. Bảy tầng trời và trái đất liên tục ca tụng sự
ngợi khen của Đức Chúa Trời (sura 17:44) và bằng thiết kế uy nghiêm của chúng cung
cấp bằng chứng rằng Đức Chúa Trời thực sự có quyền làm cho người chết sống lại và
phán xét họ vào ngày cuối cùng.Trước khi sống lại, linh hồn của người chết được cho
là đang ở trong một trạng thái trung gian, trải qua thời gian xem trước tình trạng đau
khổ hoặc hạnh phúc trong tương lai của họ. TrênNgày Phán xét , trời sẽ bị chia cắt,
núi sẽ tan thành cát bụi, đất sẽ chết, và mỗi người sẽ trải qua một thử thách cuối cùng.
Người cơng chính, với khn mặt rạng rỡ, sẽ dễ dàng vượt qua thử thách, vượt qua địa
ngục một cách dễ dàng. Trong những khu vườn hạnh phúc, họ sẽ ngả mình trên những
chiếc ghế dài hồng gia, được mặc bằng lụa mịn và được che bóng bởi những cây ăn
quả như mọi mô tả. Những thanh niên bất tử sẽ phục vụ họ đồ uống mát lạnh và các
món ngon, và những người bạn đồng hành luôn trong trắng với đôi mắt quyến rũ sẽ
tham gia cùng họ. Họ cũng sẽ được đoàn tụ với con cháu trung thành của mình, và hịa
bình sẽ trị vì.Theo các nhà triết học và thần bí học Hồi giáo, được ở trong sự hiện diện
11
của Đức Chúa Trời là niềm vui chính của thiên đường, và mức độ phước hạnh của một
người càng lớn thì người đó càng gần với Đức Chúa Trời. Các câu chuyện về sự đi lên
của Nhà tiên tri Muhammad qua bảy tầng trời đến chính ngai vàng của Thiên Chúa
được coi là tiết lộ địa vị được ưu ái duy nhất của ông. Mặc dù Sufis (các nhà thần bí
Hồi giáo ) nói về một sự “hủy diệt” ( fanāʾ ) xuất thần trước sự hiện diện của Chúa, sự
nhấn mạnh trong các truyền thống Hồi giáo chính thống về sự siêu việt của Chúa đã
khơng khuyến khích sự phát triển của thuyết cánh chung tập trung vào sự thần thánh
hóa hoặc sự kết hợp đẹp đẽ với Chúa.
2.6. Ấn Độ giáo
Trong Ấn Độ giáo (một thuật ngữ tương đối hiện đại bao gồm các thực hành tôn giáo
và thế giới quan đa dạng của các dân tộc Nam Á), thiên đường là đối tượng lâu đời
của thần thoại, thực hành nghi lễ và suy đoán triết học. Các văn bản tôn giáo cổ đại
nhất, Vedas (1500–1200 bce), mô tả thiên đường là lãnh địa của các vị thần bầu trời
như Indra, thần sấm sét; Surya, Mặt trời; Agni, ngọn lửa hiến tế; Soma, thần dược trên
trời (hiện thân trên trái đất như một loài thực vật gây say); Varuna, người giám sát trật
tự vũ trụ; và Yama, con người đầu tiên chết. Nghi lễ hiến tế được coi là thiết yếu để
duy trì thế giới, và các nghi thức tang lễ đảm bảo rằng linh hồn của người đã khuất sẽ
lên cao trên “thế giới của tổ phụ”. Tái sinh trên thiên đàng phụ thuộc vào việc có con
cháu của chủ gia đình là nam giới để bảo trợ các nghi thức cần thiết.Trong thời kỳ đầu
của Upanishad (800–500 bce), một nhóm các nhà hiền triết lưu động đã chuyển từ
nghi lễ hiến tế của truyền thống Vệ Đà để phát triển những nền tảng thô sơ của
soteriology cổ điển của Ấn Độ giáo (học thuyết thần học về sự cứu rỗi). Những nhà
hiền triết này đã dạy rằng toàn bộ thế giới hiện tượng bị cuốn vào một vịng sinh tử
(ln hồi) vơ tận do dục vọng thúc đẩy. Trạm của một người trong cuộc sống được xác
định bởi các hành động đã thực hiện trong các kiếp trước (nghiệp). Được tái sinh vào
cõi trời (svarga) là dễ chịu nhưng vô thường; ngay cả các vị thần cuối cùng cũng phải
chết. Mục đích cuối cùng là thốt khỏi cuộc sống hư mất này và đạt được sự kết hợp
với linh hồn vơ hạn (brahman).Con đường giải thốt Upanishad đòi hỏi phải thực
hành các kỷ luật tâm linh vượt quá khả năng của những chủ hộ bình thường. Nhưng
đến đầu thiên niên kỷ thứ 2, chủ nghĩa khổ hạnh thần bí của Upanishad đã được hịa
vào dịng chảy lớn của đạo Hindu sùng đạo. Kết quả là sự xuất hiện của các hình thức
văn học tơn giáo mới, chẳng hạn như Bhagavadgita và Puranas, trong đó sự cứu rỗi
dưới hình thức kết hợp cá nhân với thần thánh, do đó mở ra một con đường rộng lớn
đến thiên đàng (hay nói đúng hơn là đến thiên đàng vượt xa tất cả. trời) cho những
người giao phó mình cho sự bảo vệ của một vị thần.
12
Chương3
SO SÁNH TỊNH ĐỘ CÕI PHẬT A DI ĐÀ VÀ THIÊN ĐÀNG CÕI CHÚA
3.1. Những khái niệm về Thiên đàng và Tịnh độ
Thiên đàng của Chúa thì các tín đồ Thiên Chúa giáo khẳng định rằng có một thế giới
thứ hai do Thượng Đế tạo ra của con người sau khi chết, thế giới này là Thiên đàng
hay địa ngục[1]. Trong đó Thiên đàng là “Nơi chốn dành cho những ai đã được thanh
tẩy, người chết trong tội lỗi không được vào. Những ai chết trong ân sủng và tình bằng
hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa. Họ đời
đời giống Thiên Chúa, vì họ sẽ được nhìn thấy tơn nhan người và thánh danh người
ghi trên trán họ”[2]. Trong lịch sử, Kitô giáo đã dạy: “Thiên đường là một khái niệm
tổng quát, một nơi của sự sống vĩnh cửu, trong đó nó là một mặt phẳng chung để đạt
được bởi tất cả những người ngoan đạo”[3]. Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu
Thiên đàng như một cõi nước do Chúa tạo ra, được dành riêng cho Chúa và những tín
đồ ngoan đạo, họ là những người khơng cịn tội lỗi và sẽ sống ở đó vĩnh viễn với Chúa
mà không bao giờ chết đi. Trong giáo lý Công giáo, Thiên đàng là nơi ngự trị của
Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thiên sứ, và các thánh. Theo giáo lý Đức Mẹ Hồn Xác lên
Trời, Mẹ Đồng trinh “Sau khi hoàn tất công việc của Mẹ trên đất, hồn và xác được
đem vào Thiên đàng vinh hiển”[4]. Như vậy, điều này cũng chứng minh cho thuyết
Thiên đàng là một cõi thuộc về vật chất giống như nơi chúng ta đang sống Trong Phật
giáo thì Tịnh độ có nhiều khía cạnh giải thích khác nhau nhưng Tịnh độ của cõi Phật A
Di Đà được nhiều người biết đến hơn, đó là một cõi nước trang nghiêm thanh tịnh ở
phương Tây tên là Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Chúng sinh trong cõi đó khơng có
sự khổ mà chỉ an vui với chính pháp, y báo chính báo trang nghiêm thù thắng. Ngài
Thân Loan đã nói về cõi Tịnh độ rằng: “Tịnh độ là quốc độ của Phật A Di Đà, một thế
giới hồn tồn lìa sự hư vọng, một nơi chân thật”[5].Tác phẩm Tịnh độ luận của được
ngài Đàm Loan chú thích: “Vì ngã dục, thương ghét vơ trí và phiền não tác động,
chúng ta, kẻ phàm phu biến thế giới này trở thành uế độ. Ngược lại Bồ tát xem tất cả
đều không sống đúng ý nghĩa của sự sống, khơng phân biệt và nguyện tịnh hố phiền
não, xây dựng cảnh giới niết bàn thật sự như thế giới an lạc. Đấy chính là thế giới
chân thật”[6].Trong kinh Duy Ma Cật, khái niệm Tịnh độ được định nghĩa như là
thâm tâm, là tâm bồ đề của Bồ tát. Tịnh độ cịn được đẳng thức hố với các pháp tu
mang hạnh nguyện Bồ tát như bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ
vv… Kinh A Di Đà có nói “Từ thế giới ta bà này hướng về phía chính tây trải qua
mười mn ức cõi Phật, riêng có một thế giới, gọi là Cực lạc”[7].Như vậy, Tịnh độ
không phải là một cõi nước thuộc về vật chất, không phải là nơi đến của người đã giải
thoát mà chỉ là nơi dừng chân của tâm, là duy tâm tịnh độ. Hay nói cách khác là khi
tâm con người dừng lại hết mọi vọng niệm, vọng tưởng thì trạng thái của tâm lúc đó
chính là Tịnh độ, là một cõi lịng trong sạch và thanh tịnh, khơng cịn ơ nhiễm bởi các
thứ phiền não, như trong tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú” của Phật hoàng Trần Nhân
Tơng có nói rằng: “Tịnh độ là lịng trong sạch, chớ cịn ngờ hỏi đến Tây phương, Di
Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc”[8]. Tịnh độ khơng phải là nơi mà
con người hồn tồn giải thoát mới đến được. Tịnh độ là an trú vào nơi chính niệm,
chính định, khi tâm tịnh thì quốc độ tịnh, tâm ơ nhiễm thì quốc độ ơ nhiễm. Qua hai
13
khái niệm trên, chúng ta thấy được sự khác nhau rõ rệt về thế giới của hai tôn giáo. Sự
khác nhau giữa một bên là nói về thế giới của vật chất, một bên là duy tâm tịnh độ.
Tuy nhiên, ngồi sự khác nhau đó dường như có điểm tương đồng là con người ở đó
được an vui, giải thốt, khơng cịn những tội lỗi xấu ác. Như trong sách Khải Huyền
có nói Thiên đàng là một nơi khơng có ban đêm; rủa sả; đau đớn; kêu la, sầu muộn và
sự chết[9] hay trong kinh A Di Đà nói rằng: “Vì chúng sinh trong cõi đó khơng có bị
những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là cực lạc[10]. Một điểm
khác nữa là đối với Phật tử muốn về cõi Tịnh độ thì phải tự mình tu tập mới có thể
được. Đức Phật dạy con đường tu tập là để tự mỗi người tịnh hoá thân tâm chứ khơng
phải để một người khác nhìn vào đó mới cứu chúng ta. Pháp môn niệm Phật là
phương tiện tuỳ theo căn cơ mỗi người để thực hành giúp tâm thanh tịnh và muốn đến
được cõi Tịnh độ hay không là do ở nơi mỗi người. Quan điểm này trái lại với Thiên
Chúa giáo rằng mỗi tín đồ là con Chiên có lên được Thiên đàng hay khơng cịn phụ
thuộc vào Chúa. Họ tin rằng Chúa là người tạo ra tất cả, con người muốn sinh về cõi
Thiên đàng cũng phải đươc sự chấp thuận của Chúa. Con người nhận được phước lành
hay tai hoạ đều do Chúa sắp đặt, kinh thánh nói rằng: “Kìa, ngày nay ta đặt trước mặt
các ngươi sự phước lành và sự rủa sả. Sự phước lành: nếu các ngươi nghe theo …; sự
rủa sả: nếu các ngươi không nghe theo”[11].
3.2. Sự ra đời của kinh Thánh
Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament).
Cựu Ước (Giao ước cũ của người Hebrew – nay gọi là Do Thái với Thượng Đế) là
Kinh điển của người Do Thái, được viết trong một thời gian rất dài, ghi chép lại những
tưởng tượng, truyền thuyết và lịch sử của Do Thái giáo. Họ cịn tìm cách dùng thần
thoại để giải thích những truyền thuyết và sự vật mà họ không hiểu rõ. Một số người
cho rằng năm bộ sách đầu của Cựu Ước là do Moses trước tác nên gọi là Ngũ Thư
Moses, nhưng theo khảo sát của các nhà học giả thì đó là do người đời sau căn cứ vào
truyền thuyết mà viết ra, chủ yếu là truyền thuyết của người Babylon. Vào thế kỉ VIII
trước Công nguyên, người Do Thái mới học được cách viết chữ từ người Babylon, sau
đó mới ghi chép lại Thánh thư tiếng Hebrew, gồm 24 sách chia làm 3 phần: Torah
(Luật, ngũ thư hoặc ngũ kinh), Nevi’im (Ngôn sứ hoặc tiên tri) và Ketuvim (Văn
chương). Đến thế kỉ IV sau Công nguyên, tổng giám mục Cơ Đốc giáo mới thu thập
và tổng hợp lại thành một bộ kinh Thánh.Tân Ước (Giao ước mới của các tín đồ Kitơ
giáo với Thượng Đế) được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác giả trong khoảng từ
sau năm 45 SCN tới trước năm 140 SCN, là phần cuối của kinh thánh Kitô giáo, ra
đời một thế kỷ sau khi đạo Cơ Đốc xuất hiện, muộn hơn so với kinh Cựu Ước và nặng
màu sắc tôn giáo hơn. Kinh này nói về cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân
Ước gồm 27 cuốn, chia làm 3 phần: sách Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn);
sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng gần 1/3 Cựu Ước. Các học
giả cho rằng Tân Ước được viết xong vào khoảng năm 382 sau Công nguyên.Như vậy,
đối chiếu quá trình hình thành của hai bản kinh chúng ta thấy rằng, kinh A Di Đà là
bản kinh được lấy tư tưởng từ kinh điển nguyên thủy và được phát triển theo tư tưởng
của Phật giáo đại thừa, là kinh điển mang tính biểu pháp, mục đích là làm cho tâm con
người được an tịnh. Từ đây, chúng ta có thể nói cõi Tịnh độ Phật A Di Đà là duy tâm
tịnh độ chứ không phải là một cõi vật chất nào khác trong vũ trụ này. Vì vậy, nó khác
hồn tồn với cõi Thiên đàng của Chúa. Những điều được nói trong thánh kinh thì
khơng hồn tồn do Chúa nói mà một phần đã có trước đó. Hơn nữa, nội dung mang
14
nhiều tính thần thoại, phần đa là tự con người nghĩ ra, gắn ghép đưa vào thánh kinh và
cho đó là những lời Chúa nói. Cõi Thiên đàng của Chúa nếu chúng ta nói theo kinh
thánh là một cõi vật chất ở cõi trời thì điều đó vẫn chưa một ai có thể chứng minh
được. Điều này trái ngược với cách nhìn trong Phật giáo, đức Phật dạy trong những
lời cuối cùng rằng: “Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật”17.
Tất cả mọi thứ trên thế gian đều là vô thường, các pháp thuộc về vật chất đều được tạo
thành do duyên khởi. Tất cả các hành tinh trong vũ trụ cũng đều trải qua bốn thời kì
sinh, trụ, dị, diệt. Như vậy, thì cõi Thiên đàng của Chúa nếu là cõi vật chất thì khơng
thể tồn tại mãi mãi và khơng thể thường hằng trong thế giới này như kinh thánh vẫn
thường hay nhắc đến là cõi vĩnh hằng được.
15
C.KẾT LUẬN
Điều kiện để trở thành một tôn giáo là cần có giáo chủ, giáo lý và tín đồ. Trong đó
giáo lý khá là quan trọng, vì đó là những điều cốt yếu mà bậc giáo chủ muốn truyền
lại cho tín đồ của mình. Tơn giáo là nói đến vấn đề tâm linh, mà chuyện tâm linh thì
có những cái chúng ta chưa nghe, chưa thấy, hoặc có thể đã biết nhưng chưa thể lý
giải được chuyện đó. Để theo một tơn giáo nào đó thì lịng tin là điều quan trọng. Nếu
những tín đồ của đạo Thiên Chúa khơng có lịng tin đối với Chúa thì những lời dạy
của Chúa đâu thể nào nghe và thực hành theo được, sau khi chết làm sao có thể chắc
rằng Chúa rước người đó lên Thiên đàng. Đối với Phật giáo lịng tin cũng quan trọng
như vậy, trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy: “Tín vi đạo ngun cơng đức mẫu,
trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn”, Ngài nói lịng tin chính là mẹ sinh ra các công
đức làm cho các căn lành sinh trưởng và phát triển. Tất cả chúng đệ tử của Phật đều tự
mình xây dựng một niềm tin chắc chắn đối với Phật. Ví như một người muốn sau này
sinh về cõi tịnh độ của Phật A Di Đà thì cần phải hội đủ ba điều kiện là tín, hạnh và
nguyện. Trong đó, niềm tin đứng đầu, tin rằng cõi Phật đó trang nghiêm thanh tịnh, tin
bản thân mình tu tập đủ khả năng để sinh về cõi đó. Như vậy, niềm tin là liều thuốc về
tinh thần. Khi chúng ta có đủ sức mạnh về tinh thần thì làm gì cũng sẽ đưa đến kết quả
tốt. Tuy nhiên, lịng tin cần phải có trí tuệ, nghĩa là lòng tin cần đặt đúng chỗ, tin đúng
đối tượng, tin về những gì thật sự có ích, niềm tin chắc thật không mù quáng, như đức
Phật dạy rằng “Phật pháp là đến để mà thấy”. Nếu lịng tin khơng có sự suy xét rõ
ràng sẽ dễ bị rơi vào mê tín. Đối với người Phật tử, niềm tin đó gọi là chính tín.
Nhưng một niềm tin thuần tuý chưa đủ để đưa người Phật tử ra khỏi khổ đau, cũng
không dẫn đến chân hạnh phúc mà cần phải kết hợp, xây dựng trên nền tảng của trí
tuệ, tu tập và thực nghiệm thì con người mới có thể tự giải thoát khỏi nghiệp lực và
khổ đau. Tin Phật cần phải hiểu được những lời dạy của Ngài, để từ đó áp dụng thực
hành nhằm mang lại an vui, hạnh phúc cho mình và người. Nếu người Phật tử chỉ
nghe người khác nói về đức Phật và phát khởi lịng tin thơi thì vẫn chưa đủ mà cần
phải chứng thật. Bởi vì Ngài dạy rằng “Tin ta mà khơng hiểu ta tức là phỉ báng ta”.
Lòng tin đối với Phật A Di Đà và cõi cực lạc cần phải đặt trên nền tảng của trí tuệ..Đối
với Thiên Chúa giáo, niềm tin về cõi Thiên đàng và đức tin với Chúa là tuyệt đối.
Người nào được Chúa che chở chứng tỏ người đó có đức tin và đức tin đó ln phụ
thuộc vào Chúa. Kinh Thánh chép rằng: “Đức tin có nghĩa là hoàn toàn lệ thuộc,
nương dựa vào đức Chúa Trời…đức tin là con đường bước trở lại vào trong mối tương
quan với đức Chúa Trời”. Người có đức tin chẳng cần xem thấy việc khác mà chỉ nghe
lời và tin theo lời Chúa nói, nếu người nào khơng có sự tin tưởng vào Chúa thì người
đó khơng có liên quan gì đến Chúa và khơng được Ngài cứu độ. Do đó, Chúa được
xem như là biểu hiện của lịng tin, người có lịng tin tức là Chúa sẽ ln ở bên người
đó và ngược lại. Ngồi ra, trái với niềm tin trong Phật giáo rằng Đức Phật dạy hãy tin
vào chính mình mà đừng tin vào bất cứ một ai khác, hãy tự mình làm hịn đảo cho
16
chính mình. Đạo Phật đề cao tính nỗ lực của cá nhân, con người có được giải thốt
hay khơng là nhờ ở chính bản thân mình. Vì vậy, ngồi niềm tin đối với đức Phật và
giáo pháp mà Ngài truyền trao cịn phải tin vào bản thân mình, chính bản thân chúng
ta sẽ là người tiếp nhận và thực hành giáo pháp của đức Phật và chính mình sẽ là
người đạt được kết quả tu tập do bản thân mang lại chứ không phải ai thay thế được.
Khác với Thiên Chúa, họ khuyến khích tin cậy vào Chúa hơn là tin vào chính
mình.Kinh thánh nói rằng: “Đức tin có nghĩa là tin cậy, tin chắc hay xác tín nơi một
người nào hay nơi lời nói của người ấy. Có đức tin nơi đức Chúa trời bao hàm một sự
hoán đổi của lịng tự tin vào mình với sự tin cậy vào Chúa. Chúng ta từ bỏ nương dựa
nguồn tri thức bị hạn chế của mình và bắt đầu tiếp nhận nguồn vô hạn của Ngài”. Như
vậy, niềm tin rất cần thiết và quan trọng trong tôn giáo. Dù là người theo tơn giáo nào
cũng đều có
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHÚ THÍCH
(1) TS Lê Văn Tùng (2016), Nghiên cứu triết học tôn giáo, tr. 101.
(2) Nhóm phiên dịch Các giờ kinh phục vụ, kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước,
Thánh Vịnh 6,6, (1999), Nxb. TP Hồ Chí Minh, tr.1603.
(3) />(4) />(5) Kakehashi Jitsuen, Tịnh độ tơng Nhật Bản, Thích Như Điển (dịch), (2009), Nxb
Phương Đơng, tr.157
(6) Sdd, tr. 158.
(7) Huỳnh Trí Hải, Kinh A Di Đà giải thích, HT Thích Trí Minh (dịch).
(8) />(9) chng-19-thien-ang.html
(10) />(11) thanh-ch-n-l-c-trich-d-n-t-m-i-sach-trong-kinh-tha
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh Trường Bộ, tập I, (1991), , TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt
Nam.
2. Kinh Tạp A Hàm, tập I, (1993), Thích Thiện Siêu (dịch), TP. Hồ Chí Minh: Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
3. Huỳnh Trí Hải, Kinh A Di Đà giải thích, HT Thích Trí Minh (dịch).
4. TS Lê Văn Tùng, (2016), Nghiên cứu triết học tôn giáo, Nxb Tơn Giáo.
5. Nhóm phiên dịch Các giờ kinh phục vụ, kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước,
Thánh Vịnh 6,6, (1999), Nxb. TP Hồ Chí Minh.
6. Kakehashi Jitsuen, Tịnh độ tơng Nhật Bản, Thích Như Điển (dịch), (2009), Nxb
Phương Đông.
7. Lê Mạnh Thát, Từ Điển Bách Khoa Phật giáo Việt Nam, tập II, (2005).
8. Pháp sư Thánh Nghiêm, Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, (2008), Nxb Phương Đông.
9. Hirakawa Akira, Lịch sử Phật giáo Ấn Độ từ Đức Phật Thích Ca đến Đại thừa sơ
kỳ, (2018), Nxb Văn hố – Văn nghệ.
10. Thích Chân Tính (dịch), Tơn Giáo Học so sánh, 2015.
11. />12. />13. />14. />