Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.24 KB, 14 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN DẪN NHẬP TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Đề tài:
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO

Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Nhật Từ
Sinh viên thực hiện: Dương Thị Ngọc Ánh
Pháp danh: TN.Huệ Trạm
Mã sinh viên: TX 6009
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN DẪN NHẬP TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Đề tài:
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
Giảng Viên Phụ Trách: TT.TS. Thích Nhật Từ
Sinh viên thực hiện: Dương Thị Ngọc Ánh
Pháp danh: TN.Huệ Trạm
Mã sinh viên: TX 6009


Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU. ..........................................................................................................................................1
B.NỘI DUNG.........................................................................................................................................2

Chương 1:GIỚI THIỆU VỀ NGŨ UẨN
1.Ðịnh nghĩa và giải thích về Ngũ Uẩn:.....................................................................................2
2.Tu tập về ngũ uẩn....................................................................................................................4
Chương 2:ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NGŨ UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI
2.1.Y học:...................................................................................................................................5

2.2- Mơi trường sống:.....................................................................................................7
2.3.Vai trị người tu sĩ trong hiện tại...............................................................................8
C.KẾT LUẬN................................................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................11


A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI- TCN, sau đó được lưu hành rộng rãi
ở khu vực Châu Á và lan sang các nước Châu Âu. Mặc dù tồn tại với tư cách là một
tôn giáo, nhưng những nội dung giáo lý của Phật giáo lại thể hiện nhiều tư tưởng triết
học sâu sắc nên ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo ln tỏ rõ vai trị quan
trọng, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa, đạo đức, xã hội và tư tưởng
người Việt nam.

Từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trình bày quan niệm
của mình về kiếp sống con người, về sự tồn tại của con người trong vô vàn các sự vật,
hiện tượng của thế giới, về sự giác ngộ và cái đích mà con người hướng tới. Đây là
những quan niệm do đức Phật trải nghiệm và đã “ngộ” ra trong quá trình tu tập. Mục
đích chính trong tư tưởng của Phật giáo là sự giải thoát chúng sinh khỏi nỗi khổ của
cuộc đời. Đó là mục đích tối hậu, là vấn đề trung tâm của giáo lý Phật giáo. Luận
điểm xuất phát: nước ngồi biển khơi chỉ có một vị mặn, đạo của ta dạy đây cũng chỉ
có một vị là vị giải thốt của Phật giáo đã nói lên tư tưởng xun suốt đó.Trong giáo
lý Phật giáo, tư tưởng về con người chiếm vị trí trọng tâm. Trong ba tạng Thánh điển,
tư tưởng về con người ở cả ba thì quá khứ, hiện tại và tương lai luôn được rốt ráo đề
cập đến. Nói đến con người là nói đến nhân sinh, nói đến quan niệm của con người về
vai trị, vị trí, giá trị và ý nghĩa cuộc sống của đời người. Theo Phật giáo, trong đời
sống, mỗi chúng ta đều mang sẵn trong người một nhân sinh quan riêng biệt. Bởi chỗ
riêng biệt đó, mỗi người có những nhận xét về cuộc sống khác nhau. Tuy sự nhận xét
có trăm ngàn cách, nhưng khơng ngồi hai điểm căn bản “đời người khổ hay vui”.
Khổ, vui là tiêu chuẩn để quán sát con người.. Tìm hiểu về nhân sinh quan Phật giáo,
qua đó hiểu rõ hơn về Phật giáo, một tơn giáo đang tồn tại và có ảnh hưởng sâu rộng
trong đời sống xã hội ở Việt nam hiện nay, trên cơ sở đó có thể khai thác những giá trị
tích cực trong giáo lý của Phật giáo vì một cuộc sống tốt đời, đẹp đạo đang rất cần
những nghiên cứu cơ bản và hệ thống, nhất là khi với tư cách là một nhà tu hành.Đó
cũng là lý do mà học viên chọn đề tài “Nhân sinh quan phật giáo” để làm đề tài tiểu
luận .
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên dùng phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo học, triết học như: phân tích,
tổng hợp, lơgic, lịch sử, khái qt hóa, trừu tượng hóa..
3.Nội dung nghiên cứu:
Vì kiến thức hạn chế,học viên nghiên cứu về Nhân sinh quan Phật giáo và những giá
trị của nó.
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :

Mở đầu&Nội dung.Nội dung gồm 02 chương có 03 mục.
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo.

1


A. NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THIỆU VỀ NGŨ UẨN
1.Ðịnh nghĩa và giải thích về Ngũ Uẩn:
Theo Phật giáo, con người là một sinh thể duyên sanh bởi hai thành tố DANH và
SẮC, hay vật lý và tâm lý gọi là Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức). Trong ngũ
uẩn, Sắc thuộc vật chất, còn Tho, Tưởng, Hành, Thức thuộc về tâm lý.
Uẩn (khandha): Có nghĩa là tích tập, chức nhóm. Ý nói các pháp sắc tâm, lớn nhỏ,
trước sau, tích tập mà tạo ra tự thể. Cách dịch cũ là ‘Ấm’ có nghĩa là che lấp. Ý nói
các pháp sắc tâm che khuất chân lý
SẮC UẨN: (Rupakkhandha): Thuần túy là vật chất có hai phần:
Nội sắc uẩn: Thân con người, gồm: hình thể, lục phủ ngũ tạng . .
Ngoại sắc uẩn: Gồm những người khác và thế giới vật lý.
Theo ‘Thắng pháp tập yếu luận’ tập 2, (bản dịch của HT Minh Châu, trang 3) Sắc
pháp được cấu tạo bởi bốn đại chủng: đất, nước, gió, lửa (mahabhutani) và tứ đại sở
tạo sắc (upadaya rupani) là sắc do 4 đại hợp thành. Cái gì cứng là địa đại, ướt là thủy
đại, nóng là hỏa đại, động là phong đại.‘Sắc uẩn bao gồm tất cả thế giới vật thể, thuộc
nội tâm cũng như ngoại giới’ Ngồi ra cịn Vơ biểu sắc theo Câu xá luận là sắc không
chuyển động nhưng lệ thuộc vào tâm, nương vào 4 đại chủng mà có. Như khi thọ giới,
lấy sắc thể thanh tịnh ln phịng ngừa sự sai quấy của thân, khẩu, ý làm giới thể.
Tướng của sắc thể đó khơng lộ ra ngồi nên gọi là vơ biểu (vơ biểu sắc gồm cả hai
tính: thiện và ác)
THỌ UẨN: (vedana-khandha): là sự thọ nhận, là cảm giác khi chủ thể tiếp xúc với đối
tượng. Gồm có:

- Nội thọ: Cảm thọ trong thiền định.
- Ngoại thọ: Cảm thọ khi các căn tiếp xúc các trần (mắt thấy sắc, tai nghe tiếng..)
Câu xá luận nói: ‘Thọ lãnh nạp tùy xúc’ có nghĩa là sự lãnh nạp tùy theo cảnh của
xúc . thọ y nơi xúc mà sanh vậy’ Trung Bộ Kinh I Phật dạy thọ có 3 loại: khổ, lạc, bất
khổ bất lạc thọ, từ tính chất này Ðại Thừa ngũ uẩn luận chia thọ có 5: khổ, lạc, hỉ, ưu,
xả. Tất cả mọi cảm giác vật lý và tâm linh của ta đều bao hàm trong thọ uẩn’ (same as
2)
TƯỞNG UẨN: (sanna-khandha) là những khả năng kinh nghiệm, khả năng hồi tưởng
và ký ức về sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Gồm có sắc, thọ, tưởng... thức tưởng.
Câu xá luận nói: ‘Tưởng thủ tượng vi thể’, nghĩa là tưởng có cơng năng đối cảnh rồi
chấp giữ các hình tượng sai khác. Thành duy thức luận nói: Tác nghiệp của tưởng là
thi thiết các loại ngôn từ và tên gọi để xây dựng các cảnh tướng. ‘Cũng như những
cảm giác (thọ), tưởng được phát sanh do sự tiếp xúc giữa 6 căn với ngoại giới. Chính
những tri giác này, nhận biết sự vật là vật lý hay tâm linh’

2


HÀNH UẨN: (samkhara-khandha): là khả năng tư duy, nghĩ thiện ác bao gồm mọi
hoạt động xấu hay tốt của ý chí và những gì được xem là nghiệp (kamma). Theo ‘Thế
giới quan Phật giáo’ của TT. Mật Thể thì ‘Hành là sự chuyển biến của nghiệp thức’.
Theo một triết gia phương Tây thì ‘Hành là ý chí muốn sống’ Ðức Phật dạy:’ Hỡi các
Tỳ kheo chính ý muốn (cetana) Ta gọi là nghiệp. Khi đã muốn, người ta liền thực hành
bằng thân, khẩu,ý ] Ðại Thừa ngũ uẩn luận nói ‘Tư là chủ của hành uẩn vì nó dẫn đầu
tất cả các pháp’, vì chức năng của tư là hướng ý đi vào phạm vi các hành động. Hành
bao gồm sắc tư, thọ tư, . . thức tư, là sự thể hiện, hình thành các pháp hữu vi. Cũng
chính là nghiệp thiện, ác dẫn chúng sinh đi thọ thai và luân hồi sanh tử.
THỨC UẨN: (vinnana-khandha) là khả năng ghi nhận sự có mặt của các pháp qua 6
căn, là phản ứng khi có ‘căn’, làm căn bản và ‘cảnh’ làm đối tượng. Theo Phật giáo
nguyên thủy chỉ có 6 thức (nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức) và từ ngữ tâm, ý, thức

thường được dùng chung. Nhưng đến thời kỳ bộ phái và Ðại thừa Phật giáo có thêm 2
thức nữa là Mạt na và A lại Da. Lúc này nói thức là chỉ cho 6 thức đầu, ý căn chỉ cho
Mạt na, còn Tâm chỉ cho A Lại Da mở ra hệ thống Duy Thức học sau này.
Thức uẩn là duyên của 4 ấm kia: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, còn gọi là vọng thức,
đưa đến tam giới, lục đạo, sáng tạo mọi sự vật từ thân người đến những hiện tượng vũ
trụ, trời đất, không gian là duyên khởi của mọi mê lầm. Thiền sư Khuê Phong nói:
‘Thức như huyễn và mộng mị, chỉ bản tâm là thực có’. Nói đến thức là nói đến huyễn
hóa. Thức như trạng thái người mê ngủ mê thấy chiêm bao là thật. Trạng thái vô niệm,
thanh tịnh như bầu trời quang đãng, chính là thức thứ chín của chúng sanh (bạch tịnh
thức, phần tịnh của A lại da) còn Thức A lại da chính là nguyên nhân đưa đến luân hồi
trong ba cõi, sáu đường. Chính trong nghĩa này mà Ðức Phật bảo: ‘Tam giới duy tâm’
và cũng trong nghĩa ấy mà Ngài nói: ‘Thức thứ tám là duyên cho tiền ngũ thức, cho
hạt giống và hợp thành thế gian. Mặc dù thức này là Bổn Tâm, ta không thể gọi là
‘Bổn tâm’ vì giấc ngủ vơ minh cịn trùm lên đó.
Ðức Phật và những lời dạy của Ngài về nhân sanh quan, vũ trụ quan qua ngũ uẩn.
Con người là một hợp thể đa phức ngay chính trong thế giới của con người. Ðó là cái
mà Ðức Phật gọi là ‘Căn tánh sai biệt’ Vì thế giáo lý ngũ uẩn cũng tùy theo đó có 3
thời kỳ: theo Nikãya, A tỳ đàm và Kinh Tạng Ðại Thừa với những cách khác nhau
thuyết minh về vạn pháp. Như Ngài Phật Âm nói:
‘Trong Kinh, ngũ uẩn được thuyết minh một cách tổng hợp chứ khơng phân tích
chi li. Nhưng trong A-tỳ-đàm thì dùng phương pháp phân biệt Kinh luận và vấn đáp
để thuyết minh ngũ uẩn một cách rất chi li, thập nhị xứ, thập bát giới cho đến Tứ đế
cũng thế’
Tuy từ Phật giáo Nguyên thủy cho đến Phật giáo Ðại thừa có những tư tưởng khác
nhau nhưng vẫn có một cái chung là đều đưa con người đến chỗ tỏ ngộ chân lý như
trong các Kinh Phật vẫn thuờng dạy: giáo pháp Phật tuy nhiều nhưng đều cùng một
chất liệu giải thốt như nước biển chỉ có một vị mặn. Như thế, ngũ uẩn trong luận văn
này sẽ được trình bày theo hệ thống tư tưởng xuyên suốt từ sau Phật thành đạo đến
thời kỳ bộ phái, Phật giáo phát triển.
Trong suốt 49 năm giáo hóa,với tâm niệm giải thốt cho mn lồi khỏi khổ đau

Ðức Phật đã vân du khắp lưu vực sông Hằng, tuyên thuyết con đường ‘Như thật tri
kiến’. Sau khi Ðức Phật nhập diệt, chư thánh đệ tử đứng đầu là Ngài Ca Diếp vì muốn
chấn chỉnh Tăng đồn và giữ gìn cho chánh pháp cửu trụ đã mở ra cuộc kiết tập kinh
3


điển lần thứ nhất sau Phật niết bàn khoảng 3 tháng. Theo truyền thống đó, đại hội kiết
tập kinh điển lần hai được tổ chức sau Phật niết bàn 100 năm nhưng đều là khẩu
truyền. Chư tăng chỉ hợp tụng Pháp tạng mà thôi.
Mãi đến Ðại hội kiết tập Kinh điển lần ba (236 năm sau Phật niết bàn) dưới sự hổ
trợ của vua A-dục (Asoka) tại thành Hoa thị (Pataliputra) Ngũ bộ Thánh điển được ghi
thành văn bản Pãli trên lá bối. Ðó là hệ thống Kinh tạng Nikãya và đến kỳ kiết tập
Kinh điển lần thứ tư nửa đầu thế kỷ thứ hai Tây lịch dưới sự bảo trợ của vua Ka-nịsắc-ca (kaniska) tại Ca-thấp-di-la (kasmir) thì hệ thống Tứ bộ A-hàm (Agama) bằng
tiếng Sanskrit xuất hiện.
2.Tu tập về ngũ uẩn
Ðức Phật được tôn xưng là Ðấng Pháp Vương vì Ngài tự tại đối với tất cả Pháp, Dù ở
đâu Ngài cũng khơng bị dính mắc vào cảnh trần, không bị lệ thuộc vào năm uẩn. Là
hàng đệ tử Phật, muốn noi gương Ngài chúng ta thường xuyên qn vơ ngã. Có vậy,
những phiền não khổ đau sẽ là chất liệu giải thoát cho sự tu tập, hoặc sẽ được coi là
chuyện bình thường khơng có gì bận tâm. Khi chưa thuần thục, tâm ta còn nhiều ngã
chấp thì dễ đau khổ vì lời nói độc; Khi hết ngã chấp thì khổ đau khơng cịn, nên Ðức
Phật dạy:
"Như ngọn núi kiên cố
Khơng gió nào lay động
Cũng vậy, giữa khen chê
Người trí khơng giao động"
(Pháp Cú 81)
Con đường chân chánh đưa đến hạnh phúc vốn ở ngay trong mỗi chúng ta, trong cái
nhìn của chúng ta về sự vật. Ðó chính là chánh kiến nhìn thấy mọi hiện hữu,ngũ uẩn
là vơ ngã, đưa con người đến chỗ giải thốt, thanh tịnh, an vui như lời Phật dạy:

"Tất cả Pháp vơ ngã
Với tuệ qn thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh"
(Pháp Cú 279)
Kinh tạng nguyên thủy đã đưa ra một giá trị chân xác về con người và cuộc đời
nhằm chấp ngã và ngã sở do con người mê muội nhận lầm sanh khổ đau. Ðó là Vô
ngã luận với Niết Bàn là lý tưởng tối cao.
Qua thời kỳ Phật Giáo phát triển, Kinh tạng Ðại Thừa mở đầu bằng Kinh Bát Nhã
vẫn chú trọng đến vấn đề thoát khổ của nhân sanh. Những vấn đề này được tóm lược
thành Bát Nhã Tâm Kinh với phần trọng tâm nằm ở câu đầu: ‘Quán Tự Tại Bồ Tát
hành thâm Bát Nhã BaLa Mật Ða thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết
khổ ách.’ Bát Nhã đã hướng dẫn con người dùng trí huệ quán chiếu năm uẩn là không.
Mặt khác, người tu học theo tinh thần Bát Nhã có thể trực nhận được chân tâm của
mình và tất cả những nỗi thống khổ trong cuộc đời sẽ được hóa giải nhẹ nhàng.
4


Trước hết, ngũ uẩn giai không xét về mặt hiện tượng, cũng chính là ngũ uẩn vơ
ngã. Ðó chính là tính nhất quán của Phật giáo nhẳm mục đích ‘Chuyển mê khai ngộ’
cho chúng sanh. Năm uẩn là không là vơ ngã và năm uẩn là ‘Dun sanh vơ tính’ do
mối tương quan của các nhân duyên hợp thành, vận hành theo cơng thức:
"Khi cái này có mặt thì cái kia có mặt"
"Khi cái này khơng có mặt thì cái kia khơng có mặt"
Có thể nói dun sanh là mối quan hệ nhân quả bất khả phân giữa mọi sự vật. Mối
quan hệ nhân quả này đã được Bồ tát Long Thọ dùng để giải thích lý dun sanh vơ
tính của ngũ uẩn trong phẩm Phá Ngũ Uẩn của Trung Luận.Ngũ uẩn hòa hợp tạo nên
thân người, trên cơ sở đó con người trở lại chấp ngã và ngã sở. Do đó, cần tu tập ngay
nơi thân ngũ uẩn, phát triển trí huệ qn năm uẩn là khơng thì sự chấp ngã và ngã sở
khơng cịn lý do tồn tại; Khi khơng cịn nhân tạo nghiệp, thì khơng cịn quả khổ.

Chương 2
ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NGŨ UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI
Văn minh, văn hóa càng phát triển bao nhiêu thì cơng việc tổ chức thế giới của con
người càng đa diện và phức tạp bấy nhiêu. Cứ nhìn những thanh niên nam nữ ngày
nay, chúng ta đủ thấy môt thực trạng vô cùng lo ngại. Hơn nữa họ lại khơng ý thức
được tình trạng của mình; Họ lao mình tới những văn minh, văn hóa ngoại lai trong
một cơn sốt. Họ đang bệnh hoạn, hoặc suy thoái tinh thần, đang lâm vào cơn hiểm
nghèo, chìm sâu vào khủng hoảng.Khi phân tích con người thành ngũ uẩn: Sắc, thọ,
tưởng, hành, thức - nói theo từ hiện đại là thân thể, tình cảm, tư tưởng, tánh tình, tri
thức - trí huệ đạo Phật cho chúng ta thấy cả năm thứ này đều chi phối con người từ
khi mới sanh đến khi chết. Và đường hướng giáo dục toàn diện của đạo Phật là phát
triển đồng đều, thăng bằng cả thân và tâm. Nói cách khác, Ðức Phật khơng tách rời
thân thể khỏi tâm trí con người.Sau khi đã quán sát ngũ uẩn để biết rõ về con người và
thế giới, chúng ta sẽ từng bước ứng dụng sự tu tập ngũ uẩn nhằm đạt lợi ích thiết thực
qua một vài phạm trù sau:
2.1.Y học:
Cơ thể con người chẳng khác nào một bộ máy hoạt động không ngừng. Dù khoa
học và y học có tiến bộ đến đâu chăng nữa, con người như một bộ máy vẫn bị luật vô
thường chi phối. Tuy nhiên, nếu biết cách điều chỉnh thân tâm qua kinh nghiệm và
những pháp vệ sinh, con người có thể kéo dài đời sống, tránh được tình trạng suy yếu,
bệnh tật, xây dựng một nếp sống lành mạnh, tinh khiết.
Người Tây Phương có câu: ‘Một tinh thần minh mẫn ở trong một thân thể khỏe
mạnh’. Thân thể khỏe mạnh có thể ví như ngơi nhà vững chắc hay con thuyền ra khơi
thực hiện một chuyến du hành bình an với máy móc và thiết bị an tồn.
Thân con người thuộc sắc uẩn, do tứ đại hiệp thành nên phải dùng tứ đại bổ sung, như
cơm, thuốc .. Người xưa thường nói: ‘Con người ta ăn để mà sống’. Về vấn đề điều
hòa thân tâm để tu học, Ðức Phật luôn dạy người xuất gia là phải ‘Thiểu dục tri túc’.
‘ Vua Di Lan Ðà hỏi Ngài Na Tiên kỳ kheo:
- Sa mơn có tự u thân mình khơng? Ðáp: - Khơng.
- Nếu chẳng tự u thân sao cịn ở nhà mặc ấm, ăn thức ăn ngon và tự muốn bảo vệ

nó?
5


Na Tiên hỏi gặn lại:
- Nhà vua đã từng vào chiến trận chứ? Ðáp : Có.
- Khi vào trận có bị thương chưa? - Có, vì bị dao đâm và tên nó chọt.
- Rồi Ngài làm sao? - Tơi lấy thuốc băng bó.
- Vì u vết thương mà băng bó hay sao? - Khơng phải, chỉ vì muốn nó mau lành.
Ngài Na Tiên nói:’ Các sa mơn cũng thế, chẳng vì u thân, nên khơng ăn sang,
mặc đẹp, chỉ dùng để chi độ cho thân thể đặng có sức khỏe phụng hành đạo pháp của
Ðức Phật mà thơi.’Do đó, tuy dùng tứ đại bổ sung cho tứ đại, người xuất gia khi thọ
thực vẫn thường quán tưởng, xem thức ăn như những món thuốc hay để trừ bịnh đói,
nhằm trừ tâm đắm trước.Như chúng ta đã biết ngũ uẩn cấu tạo nên cơ thể con người,
chúng không thể tách rời mà ln tác động hỗ tương cho nhau.
Nhưng có thể nói trong hai phần Sắc và Tâm thì Tâm đóng vai trị chủ động tác
động lên thân. Cổ Ðức nói: ‘Hữu tâm thì vơ tướng, tướng tự tâm sanh, hữu tướng vô
tâm, tướng tùng tâm diệt’. Khi tâm hồn phấn khởi thì mọi vật đều nhuốm màu hồng,
thấy đời có vẻ dễ chịu, khơng hồi nghi, thắc mắc. Nhưng khi cơn buồn sầu đến thì
con người cảm thấy cơ đơn, cảm thấy bị tách rời khỏi vũ trụ,cô lập khỏi xã hội.
"Bởi vì mắt ngắm trời xanh
Cho nên mắt cũng long lanh màu trời.
Bởi vì mắt ngắm biển khơi
Cho nên mắt cũng xa vời đại dương"
(Phạm Thiên Thư)
Ngành Ðông y ngoài việc bổ các loại thuốc cây cỏ lấy từ thiên nhiên cũng rất chú
trọng đến phần tâm thần của con người. Theo Ðơng y từ thất tình, lục dục, (hỉ, nộ, ái,
ố..) tâm bịnh đã dẫn đến thân bịnh tác động vào lục phủ ngũ tạng như sau:
‘Ưu tư quá độ thương TỲ,
Buồn rầu thương PHẾ’, giận thì hại GAN.

Kinh sợ làm THÂN nguy nan
Vui mừng TÂM tổn nên an định thần.
(Lương Y An Triệu)
Ðó là những diễn biến tâm lý của thọ, tưởng, hành, thức mà chúng ta cần dùng trí
qn để nhận ra nó và khơng bị nó cuốn trơi hay khiến mình thành nơ lệ khổ đau. Bàn
về pháp dưỡng sinh, Tổ Ðông Y Việt Nam là Thiền sư Tuệ Tĩnh dạy phải ‘Thanh tâm
quả dục’ (giữ tâm trong sạch, ít ham muốn).
Ðạo Phật ln chủ trương hóa giải tận gốc thân bệnh cũng như tâm bệnh của con
người. Ðối với Ðạo Phật, hạnh phúc thật sự là sự an lạc nội tâm. Hiện nay pháp
Thiền của Phật giáo được rất nhiều người trên thế giới hâm mộ và thực hành. Họ
không chỉ xem đây là phương pháp dưỡng sinh phòng chống bệnh tật mà còn tìm đến
Thiền như một con đường quay về sự thăng bằng của nội tâm, giải tỏa stress, những
trạng thái căng thẳng thần kinh, sự bất ổn về mặt tâm lý trong cuộc sống hiện tại.
Ngoài những phương pháp tọa thiền, an tịnh tâm với các đề mục quán chiếu, pháp
Thiền quán được các vị Thiền sư hướng dẫn áp dụng trong mọi lúc con người hoạt
động, gọi là ‘Chánh niệm’. Cần giữ chánh niệm trong mọi lúc, tức luôn dùng trí quán
6


sát con người và thế giới chung quanh có cùng mối tương quan, tất cả như là huyễn,
hòa hợp theo duyên. Nhận diện từng thọ, tưởng với trí quán liên tục sẽ tạo nên những
hạt giống tốt huân tập vào tiềm thức (tâm thức). Cứ như vậy con người sẽ thấy một
cuộc sống mới mở ra trước mắt.
Nhờ đó, con người cảm thấy tự tin hơn và có thể phát triển khả năng sáng tạo, điều
chỉnh, hoàn thành nhân cách; Cao hơn nữa là thể nhập được nội tâm, tự tại, an vui,
làm tất cả nhưng không vương mắc vào bất cứ việc gì.Vua Kosala một hơm bạch Phật
rằng: ‘Khác với đồ đệ các tôn giáo khác thường hốc hác, xanh xao, ít ưa nhìn... , đồ đệ
của Ngài ln vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên, thư thái.. ‘ Vua tin rằng: Tính chất lành
mạnh đó là do: ‘Những vị Thượng tọa này chắc chắn đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa
giáo lý của Ðức Thế Tôn’

Chúng ta ngày nay tuy khơng được như những bậc Thánh xưa, nhưng vì chúng ta là
đệ tử của Phật, hiểu lời Phật dạy, lúc nào chúng ta tỉnh giác, lúc đó chúng ta có an lạc.
2.2- Mơi trường sống:
Hyppocrate, ơng tổ nền Tây y, cho rằng môi trường thiên nhiên chung quanh luôn
tác động đến con người; Vì thế người thầy thuốc phải quan tâm đến cách sinh sống, ăn
uống, tuổi tác, hoàn cảnh, đất đai, nguồn nước, khí hậu, thời tiết chung quanh bệnh
nhân.
Nhưng gần đây, sự lo sợ một cuộc chiền tranh nguyên tử tiêu diệt nhân loại sau
chiến tranh thế giới lần II lại được cộng thêm với một nỗi lo sợ mới là tai họa hủy diệt
môi sinh, tai họa đưa con người vào cảnh diệt vong còn mau hơn tai họa chiến tranh.
Vấn đề bảo vệ sinh thái môi trường được đề ra tạo nên một phong trào lớn để con
người nỗ lực đấu tranh cứu vãn sự sống của con người trên toàn thế giới trước thực
trạng ô nhiễm, suy thoái. Sự ô nhiễm, suy thoái này đã làm kiệt quệ dần dần môi
trường sống của con người và hàng trăm triệu loài động vật trên hành tinh này.‘Phật
giáo không chủ trương tách rời tâm khỏi vật, con người khỏi môi trường;
Môi trường hay thế giới với con người ngũ uẩn là một. Thế mà, hành tinh của
chúng ta đang bị ơ nhiễm từ lịng đất, nước biển, sông, hồ, rừng cây, làng mạc, đô thị
và cả bầu khí quyển đang bị tam độc tham, sân, si thúc đẩy. Vì lạc thú, vì lợi lộc, vì
hận thù, con người bằng vơ số hình thức đang hủy hoại mơi sinh, tức đang hủy hoại
mình và vơ số chúng sanh khác’.[1]
Con người ngày nay chỉ biết có xã hội loài người, nhất là đối với con người sống nơi
thành thị, hầu như lúc nào cũng nhìn thấy khơng gì hơn là những sự vật do con người
tạo ra từ sự phát triển của xã hội. Họ đã quên hẳn thế giới thiên nhiên và hủy hoại
thiên nhiên để chạy theo nhu cầu văn minh vật chất.
Quay về vũ trụ và thọ hưởng nó, khơng phải là độc quyền của những thi sĩ và nghệ
sĩ. Vũ trụ sẽ tiết lộ cho bất cứ ai muốn thấy nó. Những kẻ chìm đắm, sa đọa phải
ngước mắt nhìn vũ trụ và thấy chính mình là một phần của vũ trụ.
Khi Phật cịn tại thế, việc bảo vệ môi sinh chưa đặt thành vấn đề, nhưng với lịng từ
bi cứu khổ và trí tuệ sáng suốt, Ðức Phật với vai trò bậc Ðạo sư đã chủ động tìm cách
xây dựng cho mình và hội chúng Tăng già một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một

đạo tràng tu tập hướng tới giác ngộ và Niết bàn.
Như thế, Ðức Phật đề cao một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và hài hòa với cả
con người với tâm vô lượng. Phật tử đến với thiên nhiên như con ong đến với hoa:
7


‘Như ong chỉ lấy nhụy
Không hại hương sắc hoa
Cũng vậy vị Sa môn
Ra vào giữa thôn làng’
(Pháp cú 49)
Thiên nhiên yên tĩnh rất thích hợp với pháp thiền quán của Phật dạy. Người Phật tử
chúng ta phải học theo nếp sống của Bổn sư, sống gần thiên nhiên, xa chỗ ồn ào, bụi
bặm, đưa thiên nhiên đến tận trong nhà mình. Làm như thế, tức là truyền đạo, hành
đạo. Khơng những xây dựng môi trường tu học lý tưởng đem đến sự yên tĩnh, sự tiến
bộ về trí huệ cho tâm hồn được giải thốt tự tại cịn góp phần bảo vệ được mơi sinh
cũng là bảo vệ lấy chính mình.
2.3.Vai trị người tu sĩ trong hiện tại
Là người con Phật, hàng ngày sống thực hành những lời Phật dạy; chúng ta khơng
thể thờ ơ với cuộc sống, khơng địi hỏi những hạnh phúc vật chất hay tham cầu bất
chánh. Cái nhìn rõ ràng về ngũ uẩn sẽ tạo cho chúng ta có niềm tin tưởng nhau, tạo
nên những ổn cố cần thiết cho xã hội:
‘Phân tích hay thực hiện cái nhìn trí huệ năm thủ uẩn, lặp đi lặp lại hàng ngày sẽ
mở ra con mắt huệ cứu khổ tự thân. Ðây là di chúc mà người xưa đã để lại trong Bát
Nhã Tâm Kinh. Ở đây sẽ có duyên thấy đạo’. (TT Chơn Thiện)
Lý tưởng giải thoát chỉ được ni dưỡng bằng trí tuệ và lạc giải thốt của Thiền định
qua nỗ lực thoát ly các nhân tố gây ra khổ đau từ thực tại khổ đau, như hoa sen tinh
khiết vươn mình ra khỏi bùn từ thực tại bùn.
Chúng ta cần thấy rõ thực trạng xã hội hiện nay. Con người đang rơi vào khủng
hoảng, bị cuốn trong cơn lốc văn minh vật chất, văn hóa ngoại lai sơi động, đang cần

có bàn tay chuyển hóa. Phải ý thức và thực nghiệm những khổ đau của cuộc đời, khi
nào cuộc đời còn vấn đề phải giải quyết thì Ðạo Phật cịn sứ mạng.
Chúng ta cũng khơng thể mong đạt đến chân lý tuyệt đối khi trí huệ cịn mờ ám vơ
năng ‘Giai đoạn tu học trước mắt Tăng Ni sinh là giai đoạn nặng nề trách nhiệm đối
với sự hưng suy của Phật pháp. Những trầm tư thao thức về Chánh Pháp sẽ làm trong
sáng tư duy và tình cảm của người tu sĩ. Khác đi, là những gì u ám được đợi chờ.’
(TT Chơn Thiện)
Chúng ta cần tư duy quán sát nhiều hơn về Chánh pháp, nhìn thấy Chánh pháp qua
cuộc đời, qua sự tác động giữa con người và xã hội, từng bước tu tập từ việc xây dựng
một phần toàn thiện xã hội bằng tinh thần vô ngã vị tha, không lệ thuộc vào pháp, như
ý nghĩa ‘Sở đắc là vô đắc, không nắm cũng khơng bng’[2].
Vì vậy, việc chấn chỉnh đường hướng giáo dục Tăng Ni là điều rất quan trọng và cần
thiết. Nhờ vào nếp sống tu học tốt đẹp người tu sĩ mới có thể từng bước phát triển trí
huệ vơ lậu, đi vào xã hội để chuyển hóa khổ đau con người.
‘Hình bóng lý tưởng gần nhất của người tu sĩ phải là hình bóng của một Long Thọ,
của một Huyền Trang, một Vạn Hạnh với đời sống đạm bạc gian khổ, nhưng ý chí thì
vững chắc như kim cương; Ðức độ thì khiêm cung, nhẫn nhục; Hạnh nguyện thì rộng
lớn như biển cả.
8


Người xuất gia cần có đơi mắt sáng chiếu niềm tin, chói lịa nghị lực, cần có nụ
cười bất diệt, xem nhẹ khổ đau để làm rõ chân tướng sáng rỡ của Ðạo Phật.’[3]Từ chỗ
hoàn thiện nhân cách, người tu sĩ với mắt tuệ và đầy tình thương nhìn cuộc đời, làm
lợi ích cho nhân sanh, làm rất nhiều mà như khơng làm gì cả.
Con đường mà chư Phật đã mở, chư Tôn túc đã đi qua, bây giờ là lúc hàng Tăng Ni trẻ
chúng ta bước vào, bước đi trên đó, sẽ đi những bước an tịnh, khơng vướng mắc vì an
lạc, hạnh phúc của số đơng.
"Khơng sanh cũng không diệt.
Sanh tử là Niết bàn

Sở đắc là vô đắc
Không nắm cũng không buông"

9


C.KẾT LUẬN
Phật giáo được xem là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Nhưng thế nào
là một tôn giáo? Các tôn giáo và những trào lưu tư tưởng khác nhau trên thế giới vẫn
chưa thành công trong việc đưa ra một định nghĩa chung cho danh từ “tôn giáo”. Trở
thành một người Công giáo qua nghi lễ (lễ rửa tội), trở thành một người Do thái khi
được sinh ra đời, trở thành một người Nhân bản tự do (vrijzinnig humanist) (cũng là
một thứ tôn giáo đối với một số người) là khi ta chấp nhận một nhân sinh quan nào đó
Nhưng làm thế nào để trở thành một Phật tử? Stephen Batchelor nhận xét rằng từ
“Phật tử” không có mặt trong các ngơn ngữ Á đơng. Vấn đề là chúng ta [người Tây
phương] khi xem xét các tôn giáo khác đã tùy tiện quy chiếu theo khuôn mẫu của
Thiên chúa giáo, nói rõ hơn là của giáo hội Cơng giáo. “Phật giáo” với tính chất “ý
niệm” là một sáng tạo của các triết gia Tây phương khi họ khám phá ra những mối
quan hệ trong nội dung và lịch sử giữa những truyền thống và kinh điển “Phật giáo” dị
biệt. Nếu một lạt-ma Tây tạng nói về Phật giáo, điều ơng nói có thể khác với điều mà
một tu sĩ Tiểu thừa nói.Trước đây khơng lâu, các vị tu sĩ này chưa từng biết đến sự có
mặt của nhau. Chỉ ở Tây phương các tông phái Phật giáo khác biệt mới gặp được
nhau. Ðiều đó khơng có nghĩa là các truyền thống Phật giáo khác nhau khơng có
những điểm tương đồng rộng lớn và căn bản. Khi đã hiểu rõ ngũ uẩn là hiểu rõ chính
mình. Từ đó, chúng ta tu tập để đưa tâm thức lên tầng cao hơn. Ðó là từng bước
chuyển ngũ uẩn hữu lậu thành Ngũ uẩn vô lậu.
Trước hết, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc phải dựa vào pháp và chính
bản thân con người. Trên bình diện xã hội, dựa vào pháp có nghĩa là căn cứ theo quy
luật tự nhiên của xã hội và dựa vào bản thân, là không nương tựa vào Thượng Ðế hay
một quyền năng siêu nhiên nào. Về vấn đề này, Ðức Phật dạy Ngài A-nan:

‘Làm thế nào để có thể là hịn đảo hay chỗ trú ẩn của chính mình. Ấy là nhờ sự đào
luyện của ý thức về thân xác, cảm giác, tâm ... (Kinh tứ niệm xứ)’.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chú thích:
[1] Giảng luận Duy biểu học, TT. Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr.361
[2] Giảng luận Duy biểu học, TT. Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr.361
[3] Theo Ðạo Phật Ngày Nay, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 19965.
Sách:
1. Ban Hoằng pháp Trung ương (2008), Phật học cơ bản, Nxb. Tôn giáo.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb, Lý luận
Chính trị Hà Nội.
3. Bukkyo Dendo Kyokai (2012), Lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật, Nxb. Tôn
giáo.
4. Nguyễn Duy Cần – Thu Giang (1992), Phật học tinh hoa, Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh.
5. Thích Minh Châu việt dịch (1993), Đại Tạng Kinh Việt Nam, Kinh Trung Bộ I,
II, III, Đế Phân Biệt Tâm Kinh, Viện nghiên cứu Phật học Việt nam ấn hành.
6. Thích Minh Châu việt dịch (1992), Đại Tạng Kinh Việt Nam, Kinh Tương Ưng
V, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
7. Thích Minh Châu (1995), Những lời Đức Phật dạy về hòa bình và giá trị con
người, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
8. Thích Minh Châu (1996), Chính pháp và Hạnh phúc, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.

11




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×