MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội là hai tiêu chí phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, chính sách chú trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
nhanh có thể gây ra bất bình đẳng (về thu nhập, cơ hội học tập, tiếp cận dịch
vụ) và làm cho nghèo đói gia tăng, thậm chí có thể làm phát sinh các mâu
thuẫn xã hội. Ngược lại, chính sách chú trọng thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội có thể làm triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế. Vì vậy phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa làm động lực phát triển kinh tế vừa
là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội theo định hướng XHCN.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề, qua gần 35 năm đổi mới, Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và thực
hiện tiến bộ xã hội. Chắc chắn Đại hội XIII sẽ tiếp tục đề ra hệ thống giải
pháp cơ bản, toàn diện để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh nền kinh tế và
hoàn thiện hệ sách xã hội theo mục tiêu XHCN. Đó cũng là lý do để tơi lựa
chọn chủ đề: “Gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” làm tiểu luận mơn học của mình.
3
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề chung về tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội
1.1 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự
gia tăng về quy mô sản lượng nền kinh tế hay sự gia tăng thực tế tổng giá trị
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô số lượng, gần đây
khái niệm này được định nghĩa theo hướng mở rộng: tăng trưởng là sự gia
tăng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ nhất định, đồng thời là sự gia tăng
các nhân tố sản xuất được sử dụng trong điều kiện trạng thái kinh tế vĩ mô
tương đối ổn định. Để biểu thị sự tăng trưởng của thời kỳ này so với thời kỳ
khác người ta thường dùng các thước đo sự gia tăng thực tế về qui mô và tốc
độ giá trị tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng
sản phẩm quốc dân (GNP), tính theo GDP bình quân đầu người và các chỉ tiêu
kinh tế tổng hợp khác. Khái niệm tổng thu nhập quốc gia (GNI) gần đây được
sử dụng nhiều hơn trong nền kinh tế thị trường phát triển để thay thế cho khái
niệm tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Nội hàm của tăng trưởng kinh tế là sự
tăng lên về số lượng trong một thời gian nhất định, khái niệm này chưa thể
hiện đầy đủ chất lượng của sự tăng trưởng.
1.2. Tiến bộ và công bằng xã hội
* Tiến bộ xã hội
Theo nghĩa rộng, tiến bộ xã hội là sự vận động của xã hội từ trình độ
thấp đến trình độ cao, từ lạc hậu đến văn minh, hiện đại. Tiến bộ xã hội trước
hết phải xuất phát từ con người, vì con người và hướng tới sự tiến bộ của con
người. Sự tiến bộ xã hội còn thể hiện ở sự phát triển ngày càng cao hơn của
cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và ý thức xã hội. Tiến bộ xã hội mà Việt
Nam đang thực hiện chính là sự phát triển theo định hướng XHCH; Theo
nghĩa hẹp, là sự phát triển của LLSX, đời sống ngày càng văn minh, dân chủ
4
được thực hiện và các quyền con người được bảo đảm. Như vậy, nó được xem
như nội hàm của phát triển kinh tế và công bằng xã hội1.
* Công bằng xã hội
Công bằng xã hội là phương thức để thỏa mãn một cách hợp lý những
nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ khả năng
hiện thực của điều kiện KTXH nhất định. Về ngun tắc, chưa thể có sự cơng
bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẫn giữa nhu cầu
của con người và khả năng hiện thực của xã hội còn chưa được giải quyết”2.
Từ quan niệm trên có thể hiểu cơng bằng xã hội là sự bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ của cơng dân, bình đẳng trong chế độ phân phối thu
nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Như vậy, khái niệm
công bằng xã hội rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế chính trị, văn hóa, xã
hội. Thước đo chủ yếu của công bằng xã hội bao gồm: Chỉ số phát triển con
người HDI, đường cong Lorenz, hệ số Gini, mức độ nghèo khổ, mức độ thỏa
mãn nhu cầu cơ bản của con người...
Để thực hiện công bằng xã hội phải đảm bảo hai nguyên tắc: 1) Đảm
bảo sự tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi,
giữa làm và hưởng, giữa lao động và sự trả công, giữa tội phạm và sự bị trừng
trị, giữa cơng lao đóng góp và sự thừa nhận của xã hội; 2) Đảm bảo xóa bỏ sự
nghèo khổ cùng cực, nghèo khổ tuyệt đối.
Công bằng xã hội ở nước ta trong lĩnh vực kinh tế được thể hiện ở một
số vấn đề sau: Công bằng về cơ hội lựa chọn và tham gia vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh; Công bằng về cơ hội tiếp cận với các nguồn lực của sản
xuất như vốn, lao động, đất đai, tri thức; Công bằng trong phân phối thu nhập,
hưởng thụ phúc lợi xã hội; qua phân phối lại.
1.3. Nội dung của tiến bộ và công bằng xã hội
* Nâng cao mức sống dân cư: Nâng cao mức sống dân cư ngoài tăng
thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh cịn thơng qua chức năng phân
1
GS.TS Hồng Đức Thân - TS Đinh Quang Ty, Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt
Nam, Nhà xuất bản CTQG, H, 2010, tr.18.
2
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, H, 2000, tr.580.
5
phối của Nhà nước. Theo đó, Nhà nước thực hiện phân phối theo 2 hình thức:
Phân phối theo chức năng: Là hình thức phân phối dựa trên cơ sở sự đóng
góp nguồn lực của mỗi thành viên trong xã hội vào quá trình hình thành thu
nhập của nền kinh tế. Các khoản thu nhập sẽ được chuyển vào cá nhân hoặc
hộ gia đình theo mức độ sở hữu nguồn lực của các thành viên trong xã hội
(thu từ quá trình lao động là tiền công, từ các yếu tố đất đai là địa tô, tiền và
vốn sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh là lãi suất và lợi nhuận...);
Phân phối lại thu nhập: Thực chất là phân phối lại nguồn thu giữa các thành
viên trong xã hội trên cơ sở kết quả của phân phối lần đầu theo chức năng
(hay tài sản, vốn góp) nhằm tạo ra sự cơng bằng giữa các tầng lớp dân cư, có
hai hình thức phổ biến là phân phối lại trực tiếp và phân phối lại gián tiếp.
* Nâng cao trình độ phát triển con người: Như tăng thu nhập bình quân
đầu người dẫn tới tăng chi tiêu cho tái sản xuất sức lao động, tức tăng sự thỏa
mãn về nhu cầu vật chất. Điều đó đặt ra địi hỏi về điều kiện y tế, chăm sóc
sức khỏe, giáo dục... phải phát triển để đáp ứng nhu cầu con người. Đây chính
là các chỉ số phát triển con người HDI mà mỗi quốc gia đều quan tâm.
* Thực hiện xóa đói giảm nghèo
Giảm nghèo là quá trình cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho dân
cư nghèo, từng bước đưa họ thốt khỏi tình trạng nghèo đói. Theo đó, có cần
chú trọng giảm nghèo về vật chất, tức là giảm sự thiếu hụt so với một mức
sống nhất định được xác định theo các chuẩn mực xã hội trong thời gian,
không gian cụ thể. Giảm nghèo phải bảo đảm được tính bền vững, nghĩa là
cần giải pháp đầu tư đồng bộ các nguồn lực để tác động mọi mặt đời sống
kinh tế, xã hội, mơi trường giúp người dân có việc làm, thu nhập ổn định.
* Thực hiện bình đẳng xã hội: Tức xã hội phát triển thì khoảng cách bất
bình đẳng về kinh tế, thụ hưởng phúc lợi xã hội, dân tộc, giới tính, tơn giáo,
tầng lớp dân cư được thu hẹp dần
1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Sự thống nhất được thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế tạo ra điều kiện
vật chất giúp cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng đầy đủ
6
hơn. Ngược lại tiến bộ và công bằng xã hội khi được thực hiện sẽ tạo ra động
lực và môi trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế là cơ sở, là điều kiện để nâng cao phúc lợi
xã hội, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự
thịnh suy của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là gốc, là nền tảng để giải
quyết mọi vấn đề khác.
Thứ hai, tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện sẽ tạo động lực và
môi trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện sẽ tạo động lực và môi
trường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, sẽ khuyến khích người lao động vươn lên
học tập, nâng cao trình độ chun mơn kỹ thuật, tay nghề để có năng suất lao
động cao, có thu nhập cao, khi đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Đây là yếu tố quan trọng đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế.
II. Thực trạng và giải pháp gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
2.1. Thực trạng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam
* Những thành tựu nổi bật
Thứ nhất, tư duy lãnh đạo của Đảng về gắn tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và cơng bằng xã hội ngày càng được hồn thiện
Từ khi ra đời trong chính cương, sách lược vắn tắt đến nghị quyết các
kỳ đại hội, Đảng luôn nhất qn chủ trương xây dựng một xã hội cơng bằng,
bình đẳng. Chủ trương đó được thể hiện trong mục tiêu phấn đấu đi lên xây
dựng CNXH: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy
nhiên, đi lên CNXH là chặng đường dài và không thể chờ kinh tế phát triển
cao rồi mới giải quyết vấn đề xã hội mà ngay trong từng bước phát triển, tăng
trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Đây cũng
chính là nét nổi bật của cách mạng Việt Nam. Ngay sau Cách mạng Tháng
Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tâm niệm: “Tơi chỉ có một sự ham
7
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”. Nhờ cuộc cách mạng này, người dân Việt Nam đã có cơ hội cơng
bằng trong đời sống xã hội và phát triển kinh tế.
Trải qua các kỳ đại hội từ đại hội III đến đại hội VI, VII là giai đoạn đất
nước trong thời kỳ chiến tranh, duy trì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Nền kinh tế kém phát triển, phụ thuộc nhiều vào viện trợ từ các nước XHCN,
mặt khác lại do yếu kém trong quản lý nên kinh tế xã hội sau giải phóng đến
trước thời kỳ đổi mới khủng hoảng trầm trọng. Việc làm, thu nhập của người
lao động phụ thuộc vào cơ chế xin cho, cấp phát. Kinh tế tăng trưởng chậm,
do vậy các chính sách an sinh xã hội khơng có điều kiện để thực hiện.
Sau đổi mới 1986, kinh tế xã hội dần khởi sắc, nhận thức về tăng trưởng
kinh tế gắn với tiến bộ xã hội ngày càng rõ hơn. Đại hội VIII chỉ ra: “Tăng
trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo
dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”3.Trên cơ sở
quan điểm chung đã nêu, khi đề ra các chính sách xã hội, Đại hội VIII đã tiếp
tục cụ thể hóa bởi các quan điểm sau4.
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước đi và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội thực
hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả
sản xuất, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng
năng lực của mình.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp
các nguồn lực khác vào kết quả kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội, đi đơi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực xóa đói giảm
nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các
vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư.
3
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.95.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.113
8
- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc uống nước nhớ nguồn, đền
ơn đáp nghĩa, nhân hậu, thủy chung.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia
giải quyết những vấn đề xã hội.
Đại hội IX, X, XI tiếp tục khẳng định và đề ra nhiều giải pháp lãnh đạo
thực hiện tốt chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội: Cụ thể: Đại hội IX chỉ ra: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường”5.. Kế thừa và phát huy tinh thần trên, đại hội X nhấn mạnh
thêm: “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
trong phạm vi cả nước ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi vào từng chính sách phát triển, thực hiện
tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa
vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển” 6. Đại hội
XI tiếp tục khẳng định chủ trương: “Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ với
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo
ASXH, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần nhân dân, nhất là đối với người
nghèo, đồng bào ở vùng sâu vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó
khăn suy giảm, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 khẳng định
quan điểm: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hịa với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Phát triển kinh tế- xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải
thiện mơi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu…”; “ Mở rộng dân
chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”.
Tổng kết 5 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 20115
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr.162.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2006, tr.32.
9
2020, Đại hội XII tiếp tục khẳng định chủ trương gắn kết giữa tăng trưởng với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Trong đó, chú trọng hơn giữa chủ trương
lãnh đạo bảo đảm an sinh xã hội với giải quyết các vấn đề của thị trường;
giữa đổi mới tư duy kinh tế với đổi mới tư duy chính trị nhằm thực hiện tốt
đồng thời cả mục tiêu kinh tế và mục tiêu chính trị trong thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Đại hội XII nhấn mạnh: “Tiếp tục quán triệt và xử
lý tốt các quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị giữa tuân theo các quy luật thị trường và đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội”7. Đồng thời đại hội cũng chỉ ra: “Tiếp tục
hoàn thiện các chính sách an sinh xã hội phù hợp với quy trình phát triển kinh
tế- xã hội. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hệ thống an sinh xã hội đến mọi
người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn
thương… Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và
tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm đảm bảo an sinh xã hội
cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”8.
Dự thảo văn kiện trình đại hội XIII một lần nữa chỉ rõ: “Gắn kết chặt
chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ,
cơng bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng, phát huy yếu tố văn
hóa để thực sự là khâu đột phá phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế”(9)
Như vậy, có thể khẳng định tư duy gắn tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội là chủ trương nhất quán của Đảng ta. Được
thể hiện sâu sắc ngay từ khi Đảng mới thành lập đến trước thềm Đại hội Đảng
lần thứ XIII. Với tư duy nhất quán đó, cùng với việc triển khai thực hiện
nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, đảm bảo
cho nền kinh tế vận động theo các quy luật kinh tế khách quan, Đảng và Nhà
nước ta cũng có nhiều chính sách tiến bộ để khắc phục tác động mặt trái của
kinh tế thị trường, đảm bảo gắn kết giữa phát triển kinh tế với thực hiện công
7
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trưng ương Đảng, H, 2016, tr.80.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trưng ương Đảng, H, 2016, tr.137.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo văn kiện trình đại hội XIII, Văn phòng TW Đảng, H 2020, tr.230
8
10
bằng xã hội được thực hiện trên thực tế. Trải qua những bước thăng trầm của
lịch sử, nhận thức, tư duy của Đảng về con đường đi lên CNXH ngày càng rõ
hơn, theo đó hệ thống chính sách an sinh xã hội vì con người ngày càng hồn
thiện, ưu việt hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ hai, thực tiễn gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và cơng bằng xã
hội ngày càng khẳng định tính ưu việt của nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thể hiện trên các vấn đề sau:
Một là, mọi người đều có cơ hội như nhau trong tiếp cận các nguồn lực
sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Trước năm 1986, nền kinh tế chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu tồn dân
và sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân không được tồn tại. Từ sau đổi mới đến nay
đã có sự chuyển biến căn bản: Bên cạnh hai hình thức sở hữu nêu trên, Đảng
và Nhà nước cịn khuyến khích phát triển các hình thức sở hữu tư nhân. Theo
đó, nền kinh tế có nhiều thành phần có điều kiện tồn tại và phát triển. Định
hướng lớn về phát triển kinh tế của Đảng đặt ra yêu cầu: “Phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế”. Trong đó, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực
chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Nhà nước đóng vai trò định hướng, điều
tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường. Nền kinh
thị trường đã tạo ra công bằng cơ hội cho mọi thành viên xã hội trong tiếp cận
các nguồn lực, chủ động lựa chọn việc sản xuất, lựa chọn thị trường. Nhờ đó
sức sản xuất được khơi dậy, tạo động lực mạnh mẽ cho sản xuất, thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai
đoạn 1975-1985 của cả nước dao động ở 1,9%-0,6%/ năm, thì giai đoạn 1986
- 2017 đạt 6,6%/năm, năm 2018 đạt 7,08%. Thu nhập bình quân đầu người
năm 2019 đạt 2.800 USD cao gần gấp 30 lần so với năm 1989.
11
Hai là, tăng trưởng kinh tế được gắn kết với phân phối thu nhập công
bằng: Cụ thể Đảng chủ trương: “Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời
phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất,
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”. Phân phối bình quân cào
bằng thời bao cấp được thay thế bằng phân phối theo yếu tố sản xuất dựa theo
tài sản, sức lao động. Người lao động có thu nhập tương xứng với mức đóng
góp vào vào kết quả sản xuất. Người có vốn và các nguồn lực khác có thu
nhập bằng lợi nhuận, tiền lãi, lợi tức khi có tài sản tham gia tạo ra kết quả sản
xuất. Cơ chế chi phối nguyên tắc phân phối là thị trường và điều tiết của nhà
nước. Phân phối thu nhập công bằng đã kích thích mọi cá nhân, cộng đồng,
tập thể, doanh nghiệp vào phát triển sản xuất kinh doanh, tối ưu hóa lợi ích,
tăng năng suất lao động, gắn kết tăng trưởng kinh tế với tăng thu nhập. Để
bảo đảm công bằng trong phân phối, Đảng và Nhà nước đã đẩy mạnh phịng
chống thu nhập bất chính như bn lậu và gian lận thương mại, quyết liệt, xử
lý nghiêm nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng.
Ba là, tăng trưởng kinh tế gắn kết với bảo đảm an sinh và phúc lợi xã
hội: Chính sách an sinh xã hội được ban hành với 4 trụ cột: bảo đảm việc làm,
bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và dịch vụ xã hội cơ bản nhằm hỗ trợ cho
những người có nhiều khó khăn về việc làm, thu nhập, khi gặp rủi ro trong
cuộc sống (ví dụ thiên tai, thị trường, tai nạn...). Đặc biệt, Chương trình mục
tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình 135, Chương trình 30a và
nhiều chính sách khác đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Tỷ lệ hộ nghèo
chung cả nước giảm từ 58% năm 1993 xuống 17% năm 2008 và đến năm
2019 tỷ lệ hộ nghèo cịn dưới 4% cả nước. Bình qn tỷ lệ hộ nghèo ở các
huyện nghèo giảm còn dưới 29%. Đến nay, 70% người dân Việt Nam đã được
bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó có 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn
thế giới. Các tầng lớp thu nhập này đang phát triển nhanh chóng, tăng hơn
20% trong giai đoạn 2010 - 2017. Tính từ năm 2014, trung bình mỗi năm cả
nước có 1,5 triệu người gia nhập vào tầng lớp trung lưu toàn cầu.
12
* Những mặt còn hạn chế
Một là, việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm gắn kết giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn chưa đồng bộ và
triệt để. Do sức ép tăng trưởng kinh tế nên nhiều ngành, nhiều địa phương ít
quan tâm đến phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong quy hoạch các dự án phát triển KTXH, nhiều nơi chỉ tập trung vào lợi
ích kinh tế. Thực tế cho thấy, tăng trưởng nhanh nhưng chưa ổn định, chưa
bền vững. Do vậy, tăng trưởng chưa đi đơi với giảm bất bình đẳng thu nhập
và chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông
thôn, miền xuôi và miền núi, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.
Hai là, văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư cho phát triển văn hóa ít hiệu quả. Một số chính sách chưa phù hợp
với thực tiễn nhưng chậm được sửa đổi; hệ thống thiết chế văn hóa chưa đồng
bộ, chưa hồn chỉnh. Tình trạng xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống
chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng đáng lo
ngại. Chưa khắc phục được sự yếu kém trong quản lý nhà nước về văn hóa.
Cuộc đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại còn bất cập.
Ba là, số người nghèo, thất nghiệp còn nhiều. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị và nhất là tỷ lệ thiếu việc làm ở nơng thơn cịn cao. Xóa đói, giảm nghèo
chưa bền vững, tình trạng tái nghèo còn nhiều. Dự thảo văn kiện Đại hội XIII
đánh giá: Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo của vùng dân tộc thiểu số và miền núi
vẫn cao nhất, giảm nghèo thiếu bền vững; trong khi tỷ lệ dân tộc thiểu số chỉ
chiếm 14,6% dân số cả nước nhưng tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số tính trên
tổng số hộ nghèo cả nước đến năm 2018 vẫn cao (55,2%). Một số chính sách
an sinh xã hội, giảm nghèo cịn chồng chéo, chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao
và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo. Khoảng cách chênh
lệch giữa tầng lớp có thu nhập cao và tầng lớp có thu nhập thấp ngày càng gia
tăng do cơ hội và thành quả tăng trưởng kinh tế không được chia sẻ đồng đều.
Bốn là, khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân còn hạn
chế. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở
13
rộng nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Chất lượng
khám, chữa bệnh chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục
tình trạng q tải bệnh viện cịn chậm. Cơ chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu
viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số còn bất cập. Sự đầu tư và sự hưởng thụ về giáo dục, sức
khỏe và các dịch vụ khác ngày càng nghiêng về phía người có nhiều tiền sống
ở thành thị. Tuổi thọ bình quân tuy tăng cao, nhưng chất lượng sống của
người dân chưa cao. Trong xã hội, với khoảng 20% số hộ thu nhập cao nhất
thì xuất hiện ngày càng nhiều những biểu hiện làm giàu bất chính (như: tham
nhũng, bn lậu, làm ăn phi pháp), gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh
tế, thực hiện công bằng xã hội. Tham nhũng xảy ra ở hầu hết các ngành, các
cấp ảnh hưởng không nhỏ đến các chính sách an sinh xã hội.
2.2. Giải pháp gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ở Việt Nam
Thấu suốt và nhất quán tư duy xây dựng XHCN của Đảng là vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, cơng bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, mọi định
hướng điều tiết tăng trưởng kinh tế của nhà nước đều hướng vào thực hiện
mục tiêu vì một xã hội tiến bộ, văn minh trong đó con người có cơ hội bình
đẳng trong phát triển và hưởng thụ cuộc sống đầy đủ về vật chất tinh thần và
các phúc lợi xã hội. Đúng tinh thần dự thảo văn kiện trình đại hội XIII khẳng
định: “Mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”10. Theo đó, để gắn tăng
trưởng kinh tế với đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, cần thực hiện tốt một số giải pháp cụ thể sau:
Một là, kết hợp các nguyên tắc phân phối theo cơ chế thị trường với
phân phối qua phúc lợi xã hội
Có thể nói, phân phối là một phương thức cơ bản của việc thực hiện
cơng bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, việc xây dựng một nguyên tắc phân phối
phù hợp là công việc hết sức quan trọng hiện nay.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo văn kiện trình đại hội XIII, Văn phòng TW Đảng, H, 2020, tr.127
14
Trong nền KTTT định hướng XHCN, chúng ta phải kết hợp nhiều hình
thức phân phối. Trong đó, phân phối lần đầu – phân phối theo đóng góp vốn,
đóng góp về trí tuệ, đóng góp về sức lao động lấy hiệu quả kinh tế là chính.
Đấy chính là hình thức phân phối theo cơ chế thị trường, biểu hiện qua lợi
nhuận, tiền lương. Bên cạnh đó, cũng phải thực hiện phân phối lại – phân phối
cho những người có cơng với xã hội, cho những người gặp rủi ro, đối tượng
người già, neo đơn khơng nơi nương tựa…Đây chính là hình thức phân phối
theo phúc lợi xã hội được thể hiện qua chế độ đãi ngộ, các chính sách trợ cấp
xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia
KTTT có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo
điều kiện cho mọi người dân trong cộng đồng có được cuộc sống ổn định,
phát triển bình thường, ngày càng đảm bảo về chất lượng.
Bên cạnh đó, Nhà nước phải chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách
chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, thu hẹp khoảng cách,
không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và
tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, Nhà nước
phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho
người giàu, khuyến khích người có tài năng.
Hai là, kết hợp đẩy mạnh phát triển kinh tế với tăng cường phát triển
văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, phát triển con người.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn
xác định mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, phát triển con
người một cách tồn diện. Ln coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của mọi sự phát triển. Để thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên, việc đẩy
mạnh phát triển, tăng trưởng kinh tế rõ ràng là cần thiết nhưng là chưa đủ. Sự
tăng trưởng kinh tế cùng lắm chỉ cải thiện được về mặt vật chất, đời sống
nhân dân. Để thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, chúng ta còn phải chú ý
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp
cận, hưởng thụ các giá trị văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ….
15
Văn hóa ln được coi là nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, trong
chiến lược phát triển văn hóa, chúng ta ln chủ trương: “Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” 11, chủ động “thu hẹp dần
khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đơ thị
và nông thôn”12. Về giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, chúng ta hết sức
coi trọng, Đảng ta chủ trương: “Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ là nền tảng và động lực của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”
Ba là, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội trong các chính sách kinh tế
xã hội nhằm tạo động lực cho kinh tế tăng trưởng
Hệ thống chính sách này, một mặt góp phần điều tiết sự phát triển kinh
tế; mặt khác góp phần kết hợp hài hịa sự phát triển kinh tế với việc thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Cụ thể như một số chính sách sau đây:
Về chính sách tài chính, tiền tệ. Bên cạnh các cơng cụ khác, Nhà nước
thực hiện vai trị quản lý nền kinh tế thông qua một chức năng quan trọng nữa
là hoạch định các chính sách tài chính tiền tệ. Đó là chính sách điều tiết kinh
tế vĩ mơ rất quan trọng của Nhà nước trong nền KTTT, có ảnh hưởng lớn đến
các biến số kinh tế như công ăn việc làm, tăng trưởng, lạm phát…Do đó, xây
dựng được hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp sẽ nâng cao chất
lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế.
Thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ đúng đắn sẽ tạo động lực to lớn cho
nền kinh tế đất nước.
Chính sách lao động, việc làm. Đây chính là chính sách KTXH cơ bản.
Nó có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức, kỹ năng và
lương tâm nghề nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiều việc làm mới, đồng thời
sử dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm,
vươn tới toàn dụng lao động xã hội. Đó chính là biện pháp quan trọng vừa
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, phát huy
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội,
2001, Tr238
12
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI, NxbCTQG, H,
2011, Tr223-224
16
tiềm năng lao động, sáng tạo trong cộng đồng tạo nên động lực cho phát triển
xã hội bền vững.
Chính sách xóa đói, giảm nghèo. Đây khơng đơn thuần chỉ là một
chính sách từ thiện mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa,
chính trị và mơi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nguyên
nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người, thực
hiện dân chủ trong phát triển kinh tế. Đó là các chính sách như giao quyền sử
dụng đất, tạo vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ về giáo dục, y tế, hỗ
trợ xây dựng kết cấu hạ tâng thiết yếu, phát huy quyền làm chủ cho người
nghèo và cộng đồng người nghèo để giúp họ tự vươn lên thoát nghèo, thu hẹp
dần khoảng cách về trình độ phát triển, về thu nhập và mức sống giữa các
tầng lớp dân cư, các thành phần dân tộc, các vùng miền trong cả nước.
Bốn là, bảo đảm công bằng về cơ hội và công bằng về lợi ích cho các chủ
thể trong nền kinh tế
KTTT phát triển là để đem lại hạnh phúc cho con người, là sự bình
đẳng hơn cho con người và sự tiến bộ xã hội. Nội hàm của KTTT định hướng
CNXH chỉ ra: Một là, mở rộng cơ hội cho con người; Hai là, giúp con người
tăng cường năng lực để chuyển hóa cơ hội thành lợi ích; Ba là làm sao xã hội
giúp con người nhận được sự phân phối cơng bằng. Cơng bằng ở đây chính là
cơng bằng về cơ hội và cơng bằng về lợi ích, khơng có cơng bằng về cơ hội
thì khơng thể có cơng bằng về lợi ích. Theo đó KTTT định hướng XHCN
chính là phương thức tốt nhất để mở rộng cơ hội, cũng đồng thời là cách tốt
nhất để phân phối cơ hội, doanh nghiệp nào, cá nhân con người nào đều bình
đẳng và có cơ hội phát triển như nhau.
Thị trường là cạnh tranh, mà cạnh tranh sẽ giúp nâng cao năng lực và
cũng tạo ra sự công bằng về cơ hội. Có năng lực cao thì có nhiều cơ hội. Tuy
nhiên xét về góc độ nhân văn XHCN thì khơng phải cái gì cũng cơng bằng do
điều kiện, năng lực của mỗi cá nhân là khác nhau. Do đó, mới cần đến những
thiết chế xã hội và sự can dự, điều tiết của nhà nước, nhằm đảm bảo tính mục
đích tối cao mà chúng ta muốn đạt đến đó chính là CNXH.
17
Như vậy để bảo đảm tiến bộ và công bằng trong KTTT định hướng
XHCH có thể nhấn mạnh hai vấn đề:
Thứ nhất, những nguyên tắc cơ bản của thị trường phải tuyên bố rõ và
thừa nhận. Chẳng hạn thừa nhận sỡ hữu tư nhân chứ khơng phải chỉ có nhà
nước, đảm bảo cơ chế cạnh tranh bình đẳng. Ở đây bình đẳng là cơng bằng về
các điều kiện tham gia cạnh tranh, thể hiện qua cơ chế giá cả. Giá cả phải do
thị trường quyết định, nhà nước có thể tham gia vào quá trình định giá nhưng
với tư cách là một lực lượng thị trường chứ không phải tư cách áp đặt, mệnh
lệnh. Tóm lại, cơ chế thị trường là cạnh tranh, giá cả và quyền sỡ hữu chúng
ta thừa nhận thì khơng thể làm khác đi để làm méo mó thị trường. Sự bình
đẳng ở đây là sự bình đẳng về tư cách, tư thế cịn chức năng từng thành phần
kinh tế có thể có sự khác biệt. Vai trò nhà nước là bảo vệ quyền tài sản và bảo
vệ cạnh tranh bình đẳng mà khơng phải là ngăn cản sự bình đẳng trong cạnh
tranh vốn là quy luật của thị trường.
Thứ hai, thị trường là một lực lượng phân phối của cải làm ra ở khâu
sản xuất, nhưng nhà nước lại là lực lượng duy nhất có quyền phân phối lại để
tạo ra sự bình đẳng thực sự, hỗ trợ người già, người nghèo, phòng ngừa rủi ro,
tức là mục đích cuối cùng là đảm bảo cơng bằng ở khâu phân phối lại, thực
hiện mục đích của CNXH. Chính là chúng ta định hướng những thành tựu
phát triển KTTT vào phục vụ mục đích xây dựng Chủ nghĩa xã hội, phục vụ
mục tiêu cơng bằng, bình đẳng, tiến bộ vì con người.
KẾT LUẬN
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, cơng bằng xã hội có mối quan hệ biện
chứng với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế
18
là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và
bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã
hội là nhân tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ,
công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước
nếu như không bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng bền
vững. Mặt khác, nếu sự tăng trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả
tiến bộ và cơng bằng xã hội thì sự tăng trưởng này cũng khơng có ý nghĩa.
Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng tình trạng
bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ
và cơng bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế,
kết cục cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được.
Thách thức đặt ra về tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội cho
Việt Nam hiện nay là rất to lớn và phức tạp bởi tăng trưởng kinh tế luôn ở mức
dưới tiềm năng và thiếu bền vững; chủ yếu dựa trên xuất khẩu và các yếu tố tài
nguyên; chất lượng thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế chậm được cải thiện.
Trong 3 năm qua, theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), sức cạnh tranh của
kinh tế Việt Nam liên tục bị giảm bậc, chỉ số cạnh tranh của mơi trường kinh
doanh cũng ở thứ hạng thấp. Địi hỏi phải có sự kết hợp hiệu quả giữa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội, kết hợp ngay từ đầu và trong từng bước phát
triển giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2016), Văn kiện Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2018), nghị quyết số 36NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình
Kinh tế phát triển, Nxb CTQG, năm 2017, Hà Nội.
4. Quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
(2014): Luật Bảo vệ Môi trường.
5. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 432/QĐ-TTg
về Phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011-2020.
6. Thủ tướng Chính phủ (2019), Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày
20/5/2019 về phát triển bền vững.
20