Tải bản đầy đủ (.pdf) (314 trang)

Nghiên cứu lịch sử các thời kỳ Việt Nam (Tập 13 - Tái bản lần thứ nhất): Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.8 MB, 314 trang )

Chương IV

ĐÁNH THẮNG MỘT BƯỚC QUAN TRỌNG
CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH"
CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1969 - 1-1973)

L HỌC THUT NÍCHXƠN VÀ CHIÉN LƯỢC "VIỆT NAM
HĨA CHIÉN TRANH" CỦA MỸ
Sang năm 1969, khi Níchxơn bước vào Nhà Trắng, tình hình thế
giới có nhiều bất lợi đối với nước Mỹ, trong đó một phần quan trọng
là yếu tố chiến tranh Việt Nam.
Trong khi M ỹ bị sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, các
nước Tây Âu và Nhật Bản nhanh chóng vượt lên, trở thành đối thù
cạnh tranh với M ỹ trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Cũng trong
thời kỳ này, Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong khối quân sự
Vácsava cũng tăng cường sức mạnh, nhất là về quân sự. Phong trào
độc lập dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và cả châu
Mỹ Latinh, sân sau của Mỹ.
Ở Việt Nam, cuộc Tổng tấn công T ết M ậu Thân năm 1968 ở
miền Nam và việc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất
của M ỹ ra miền Bắc đã góp phần quan trọng làm phá sản chiến
lược "Chiến tranh cục bộ" cùa đế quốc Mỹ. Sau thất bại của chiến
lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, nước M ỹ lâm
vào thời kỳ khủng hoàng kéo dài nhất từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. Cuộc khủng hoảng xã hội gay gắt buộc giai cấp thống trị
M ỹ phải lựa chọn một trong hai con đường: đó là rút quân để kết
thúc chiến tranh hoặc tăng thêm quân theo đề nghị của tướng Oétmolen
nhằm tiếp tục duy trì cuộc chiến.
276



Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..
Chi phí chiến tranh trong 4 năm (1965-1968) ngày một tăng,
trung bình gàn 30 tỷ đôla hằng năm đã làm cho ngân sách của Mỹ
bị thâm hụt lớn. Tỷ trọng ngoại thương của Mỹ giảm mạnh từ 48%
năm 1948 xuống 25% năm 1954, và chỉ cịn 10% năm 1969. Cán
cân thanh tốn mậu dịch bị thâm thủng, lạm phát tăng 6,1% năm
1969. Năng suất lao động xuống mức thấp hơn so với nhiều nước
tư bản phát triển. Đội quân thất nghiệp ngày càng đơng thêm.
Cùng với sự suy thối về kinh tế, tài chính, sự khủng hoảng về
tinh thần và chia rẽ về chính trị trong xã hội Mỹ cũng ngày càng
tăng. Con số hơn 100.000 binh lính M ỹ bị thương, bị chết và mất
tích trên chiến trường Việt Nam càng làm cho người Mỹ nhận ra
rằng chiến tranh Việt Nam là nguồn gốc gây tai họa cho cuộc sống
cùa người Mỹ.
Tinh hình đó đã làm gay gắt thêm mâu thuẫn trong nội bộ nước
Mỹ, đẩy sự chống đối của các tầng lớp nhân dân đối với chính
quyền lên cao, làm cho nội bộ giới lãnh đạo Mỹ bị phân hóa. Làn
sóng chống chính phủ, phản đối cuộc chiến tranh cùa Mỹ ở Việt
Nam ngày càng dâng cao, các cuộc bãi khóa, biểu tình, các vụ ám
sát liên tiếp nổ ra.
Trước thất bại quân sự ở chiến trường Việt Nam, trước tình
hình kinh tế - xã hội M ỹ sa sút và trước sức ép rộng lớn của nước
M ỹ và c ủ a th e g iớ i p h ả n đôi c h iê n tra n h V iệt N am , g iớ i câ m q u y ên

M ỹ nhận thấy cán cân thế giới đang có những biến đổi khơng có lợi
cho Mỹ. Chiến lược của Mỹ tỏ ra không đủ sức chống đỡ với sự
phát triển của lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Vì vậy,
M ỹ chủ trương điều chỉnh chiến lược hịng tiếp tục thực hiện chính
sách bá chù tồn cầu và duy trì sự thống trị của M ỹ ở miền Nam
Việt Nam bàng chủ nghĩa thực dân mới.

Trước hết Giônxơn thực biện chủ trương "phi Mỹ hóa chiến
tranh", giao trách nhiệm cho chính quyền Sài Gịn, chấm dứt sự
dính líu trên bộ cùa quân đội M ỹ ở miền Nam Việt Nam, chấm dứt
277


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 13
không điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận
đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và M ặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam. Chủ trương "phi M ỹ hóa chiến
tranh" của chính quyền Giơnxơn chưa tiến hành được bao lâu thì
ngày 2 0 -1 -1 9 6 9 , N íchxơn được bầu làm Tổng thống M ỹ thay
Giônxơn và bắt đầu thực hiện một chiến lược tồn cầu mới mang
tên "Học thuyết Níchxom" và chiến lược quân sự "Răn đe thực tế"
thay cho chiến lược "Phản ứng linh hoạt" đã bị phá sản.
Học thuyết Níchxơn được xây dựng trên ba nguyên tắc "Tập thể
tham gia", "Sức mạnh cùa Mỹ" và "San sàng thương lượng".
Mục tiêu cùa học thuyết Níchxơn là giảm bớt các cam kết quốc
tế của M ỹ, đòi hòi các đồng minh phải chia sẻ trách nhiệm , nhưng
Mỹ vẫn duy trì lực lượng quốc phòng mạnh để giữ thế cân bằng và
răn đe, đảm bảo khẳng định vị trí lãnh đạo thế giới tự do của Mỹ.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, M ỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn
trong các nước này, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc, lợi
dụng tính đa cực về chính trị trong phong trào Cộng sản và Công
nhân quốc tế để chia rẽ, lôi kéo các nước lớn, m ua chuộc và uy hiếp
các nước nhỏ. Đối với phong trào giải phóng dân tộc, Níchxơn chủ
trương vừa dụ dỗ, m ua chuộc vừa đe dọa các nước đang đấu
tranh chống lại M ỹ và các thế lực đế quốc khác. Rút kinh nghiệm
thất bại ở Việt Nam, M ỹ tìm cách hạn chế việc sử dụng quân Mỹ,
th ự c h iệ n liẽ n m in h k h u vực, d ù n g n g ư ờ i đ ịa p h u ư n g đ á n h n g ư ờ i


địa phương.
Riêng ở châu Á, Níchxơn chủ trương đẩy mạnh liên minh khu
vực, nhất là tại Đông Nam châu Á, đặc biệt đề cao vai trị của Nhật
Bản, lấy N am Việt Nam làm thí điểm để tập hợp tay sai ở châu Á
đàn áp phong trào cách mạng ở đây. Đối với miền Nam Việt Nam,
Níchxơn điều chinh chủ trương ''phi M ỹ hóa chiến tranh” của
Giơnxơn thành ''Việt Nam hóa chiến tranh". Phi M ỹ hóa là một
kế hoạch thuần túy về quân sự nhằm tránh cho quân M ỹ khỏi bị
thất bại nặng nề bằng cách duy trì cục diện chiến trường không bị

278


Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..
xấu thêm, đồng thời tiến hành thương lượng để hòng rút khỏi cuộc
chiến tranh trong danh dự. "Việt Nam hóa chiến tranh" là một chiến
lược hồn chỉnh về qn sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm tiếp
tục thực hiện âm mưu cơ bản của Mỹ là bám giữ miền Nam Việt
Nam, giảm bớt sự dính líu của quân đội Mỹ trên bộ, nhưng phải
giành thế mạnh trên chiến trường để kết thúc chiến tranh bàng
thương lượng theo điều kiện cùa Mỹ. Thực chất đây là chủ trương
dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam, dùng người Đông
Dương đánh người Đông Dương với tiền bạc, vũ khí, trang bị của
M ỹ và do M ỹ chỉ huy.
Ke hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" được Mỹ dự định thực
hiện làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1, từ năm 1969 đến năm 1970: Tăng cường lực lượng
quân sự để đù sức đối phó với lực lượng chủ lực của Việt Nam, rút
một bộ phận quân M ỹ về nước. Tăng cường kiểm sốt những vùng

đơng dân quan trọng, đẩy mạnh chiến dịch bình định nơng thôn.
- Giai đoạn 2, từ giữa năm 1970 đến giữa năm 1971: Kiểm sốt
hầu hết những vùng đơng dân, rút đại bộ phận quân chiến đấu Mỹ,
giao cho quân đội Sài Gịn đảm nhiệm việc đối phó với qn Giải
phóng trên chiến trường.
- Giai đoạn 3, từ giữa năm 1971 đến giữa năm 1972: Hoàn tất
n h ữ n g m ụ c tic u c ủ a "V iệt N a m h ó a c h iế n tra n h " . C h ín h q u y ề n và

quân đội Sài Gòn đủ mạnh để đánh bại lực lượng cách mạng ở miền
Nam Việt Nam.
Đe thực hiện kế hoạch trên, M ỹ đã đề ra 5 biện pháp quan trọng:
1. Xây dựng quân đội Sài Gòn thành lực lượng mạnh đủ sức
đương đầu với lực lượng vũ trang Giải phóng và dùng quân đội Sài Gòn
làm nòng cốt cho việc tập hợp các quân đội đồng minh ở khu vực.
2. Cùng cố và ổn định chính quyền Sài Gịn các cấp, tăng cường
đẩy mạnh và phát triển nền kinh tế miền Nam Việt Nam.
279


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
3. Tập trung thực hiện chương trình bình định, bảo đảm an ninh
lãnh thổ Việt Nam.
4. Tập hợp liên minh phản động khu vực do chính quyền và qn
đội Nam Việt Nam đóng vai trò nòng cốt.
5. Chặn đứng các nguồn tiếp tế chi viện cho cách mạng nước
Việt Nam, xúc tiến các hoạt động ngoại giao để kiềm chế, cô lập
cuộc chiến tranh của nhân dân V iệt Nam.
Triển khai thực hiện kế hoạch trên, M ỹ gấp rút củng cố bộ máy
chi đạo của M ỹ ở miền Nam Việt Nam bao gồm Đại sứ quán, Bộ
Tư lệnh quân sự M ỹ M ACV, phân cục tình báo CIA và hệ thống cố

vấn dân sự, qn sự. Chính quyền Sài Gịn ban hành lệnh tổng
động viên, bắt lính đơn qn, phát triển và hiện đại hóa quân đội.
Trong gần 4 năm (1969-1972), địch đã nâng số quân chù lực, quân
địa phương (bảo an, dân vệ) từ 70 vạn lên 110 vạn, lực lượng bán
vũ trang (phòng vệ dân sự) từ 150 vạn lên 200 vạn. Phát triển và
hiện đại hóa quân đội được M ỹ coi là m ột trong số những biện
pháp chủ yếu quyết định thành bại của chiến lược "Việt Nam hóa
chiến tranh", do đó qn đội Sài Gịn là quân đội đông nhất trong
số các nước đồng minh của Mỹ.
Đẻ hiện đại hóa qn đội Sài Gịn, đế quốc M ỹ gấp rút đưa nhanh
và tăng cường vào miền Nam một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược,
phương tiện chiến tranh. Từ đầu năm 1969 đến giữa năm 1970, M ỹ
đã tăng gấp đôi số lượng xe tăng, xe thiết giáp, pháo các loại cho
các sư đoàn bộ binh chù lực quân đội Sài Gòn, trang bị đầy đủ vũ
khí hiện đại cho lục qn. Tiếp đó, M ỹ bắt đầu đẩy mạnh việc hiện
đại hóa khơng qn, hải quân và pháo binh nhằm từng bước xây
dựng quân đội Sài Gòn đảm nhiệm nhiệm vụ tác chiến trên sông,
trên biển và trên không. Đen cuối năm 1972, quân đội Sài Gịn đã
có 110 m áy bay chiến đấu các loại, 1.897 xe tăng và xe thiết giáp,
1.300 khẩu pháo, 1.600 tàu chiến.
Đi đơi với việc củng cố chính quyền, tăng cường lực lượng
quân đội, đế quốc M ỹ và chính quyền Sài Gịn liên tục mở ra các
280


Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..,
cuộc hành quân phản kích hịng đẩy lực lượng của ta ra xa vùng
thành thị và nông thôn, đồng thời dùng khối lượng bom đạn gấp hai
lần trước đây đánh phá, hủy diệt các vùng giải phóng, các vùng căn
cứ, hệ thống kho tàng, hành lang tiếp tế, tuyến vận tải chiến lược

559 của ta. Mỹ và quân đội Sài Gòn thiết lập hệ thống đồn bốt
giăng khắp các vùng đồng bằng, vùng giáp ranh để kiểm soát việc
di chuyển lực lượng cùa ta và việc đi lại làm ăn cùa nhân dân, ngăn
chặn nguồn tiếp tế hậu cần.
M ột điều khác biệt lớn giữa chiến lược "Việt N am hóa chiến
tranh" của Níchxơn với các chiến lược chiến tranh khác của M ỹ
trước đây, là lần này chúng rất coi trọng vùng nơng thơn, coi bình
định nơng thơn là biện pháp chù chốt quyết định sự tồn vong của
chính quyền Sài Gịn, sự thành bại của chiến lược "Việt Nam hóa
chiến tranh". "Chúng coi vấn đề giành dân lần này là "keo cuối
cùng, thăng là ở đây và thua cũng là ở đẫy", coi địa bàn chù yêu
của cuộc chiến tranh điền địa là ấp xã và giải quyết ấp xã là căn
bàn giải quyết được cuộc chiến tranh" 1.
Đe thực hiện cuộc "chiến tranh giành dân" này, M ỹ thành lập
cơ quan chi đạo bình định MAC CORSS trên cơ sở hợp nhất các cơ
quan chỉ đạo bình định của Bộ Tư lệnh quân sự M ỹ M ACV, của sứ
quán M ỹ và Phân cục tình báo Trung ương M ỹ CIA tại Sài Gòn.
C ơ quan này đặt dưới sự chỉ đạo của A. Bram - Tư lệnh quân viễn
c h in h M ỹ và C ô h ai - P h â n c ụ c U ư ở ng C IA tại S ài GÒ 11 đ ư ự c sử

dụng làm phụ tá cho A.Bram. Bộ máy bình định của chính quyền
Sài Gịn cũng được kiện tồn từ trung ương đến địa phương. Chính
quyền Sài Gịn giải tán Bộ Xây dựng nơng thơn và thay vào đó
thành lập Hội đồng Bình định Trung ương do Thù tướng Trần
Thiện Khiêm làm Chủ tịch và Trung tâm bình định Trung ương do
chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo. Ở cấp tỉnh, tỉnh trưởng
1. Ban Chi đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tống kết cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thang lợi và bài học, Nxb. Chính trị
Quốc gia, H. 1995, tr. 88.


281


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
vừa kiêm tiểu khu trưởng vừa nắm việc chi đạo tồn bộ cơng tác
bình định.
C ơng tác bình định được M ỹ và chính quyền Sài Gòn triển khai
quyết liệt từ giữa năm 1969 bằng hàng loạt biện pháp khác nhau
với các thủ đoạn vừa cứng rắn vừa mềm dẻo, mua chuộc.
v ề quân sự, cùng với việc thực hiện chiến dịch Phượng hoàng
nhằm tiêu diệt các cơ quan của ta, M ỹ và chính quyền Sài Gịn đã
huy động từ 60 - 70% số quân chủ lực cùng đại bộ phận lực lượng
bảo an, dân vệ, 40.000 cán bộ bình định, hàng vạn cảnh sát dã chiến
liên tục càn quét, đánh phá, chà đi sát lại các vùng nông thôn.
"Tranh thù trái tim khối óc cùa nơng d â n ", tách nơng dân ra
khỏi lực lượng cách mạng là mục tiêu chính và là nhiệm vụ trọng
yếu của chính sách bình định của M ỹ và chính quyền Sài Gịn. Đe
thực hiện âm mưu thâm độc đó, ngày 26-3-1970, chính quyền Sài
Gịn ban hành luật "Người cày có ruộng" gồm 6 chương, 22 điều
với nội dung cơ bàn là: hạ thấp suất lưu trí để lại cho địa chủ từ 100
ha (theo dụ số 57 của Ngơ Đình Diệm ) xuống cịn 15 ha ở Nam Bộ
và 5 ha ở Trung Bộ, cấp khơng ruộng cho nơng dân và xóa bỏ chế
độ tá canh.
Luật "Người cày có ruộng" của Nguyễn Văn Thiệu, đi đơi với
việc xóa bỏ chế độ tá canh, chuyển địa chủ sang kinh doanh tư bản
ch ù n g h ĩa , cò n th ự c h iệ n v iệ c c ấ p k h ô n g ru ộ n g đ ất c h o n ơ n g dân.

Theo Luật này, chính phủ "truất hữu" ruộng đất của địa chủ cấp không
cho mỗi gia đình nơng dân hiện canh tối đa là 3 ha ở Nam Bộ, 1 ha
ở Trung Bộ (điều 12).

Tất nhiên luật này vẫn đảm bảo quyền lợi cho giai cấp địa chủ
dưới hình thức khác và ưu tiên cấp đất cho quan chức chính quyền
và quân đội, song việc cấp khơng ruộng đất cho nơng dân thể hiện
tính hai m ặt trong chính sách ruộng đất cùa M ỹ và chính quyền Sài
Gịn. Bên cạnh mặt tích cực của chính sách này là xóa bỏ chế độ tá
canh, xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, tạo ra tàng lớp tiểu nông
282


Chương IV. Đánh thăng một bước quan trọng..
kinh doanh sản xuất hàng hóa, thì việc "hữu sản hóa nơng dân", ép
nơng dân nhận "chứng khốn", chính quyền Sài Gịn buộc nơng dân
phải thừa nhận rằng chính chế độ này đã đem lại ruộng đất cho họ
và từ đó hy vọng sẽ xóa bỏ được ảnh hưởng cùa cách mạng trong
nơng dân miền Nam, buộc nông dân vào guồng máy của chính
quyền Sài Gịn. M ỹ và chính quyền Sài Gịn không giấu diếm ý đồ
của chúng: "Công cuộc cải cách điền địa của ta không phải đơn
thuần là công tác kinh tế xã hội mà là công tác chiến lược vô cùng
quan trọng đ ể đánh bại cộng sản... nông dân sẽ nhận ra rằng
Chính phù Việt Nam Cộng hịa thành thực m ang lại hạnh phúc cho
nhân dân. Khi đó nơng dân sẽ tự nguyện hợp tác với chính phù đê
chong lại cộng sản"'.
Sau 4 năm thực hiện Luật "Người cày có ruộng", đến năm 1974,
trên thực tế, chính quyền Sài Gòn đã cấp được khoảng 1,2 triệu ha
ruộng đất cho 750 nghìn hộ nơng dân với khoảng 5 triệu người2.
Cùng với việc ban hành Luật "Người cày có ruộng", đế quốc
Mỹ và chính quyền Sài Gịn tiến hành chính sách đơ thị hóa cưỡng
bức nhằm tách nơng dân ra khỏi cách mạng, khống chế, kìm kẹp
chặt chẽ nơng dân. M ỹ và chính quyền Sài G ịn lấy Đ ồng bằng
sông Cửu Long làm ưọng điểm thi hành chính sách bình định nơng

thơn với các biện pháp tổng hợp: qn sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa tư tưởng; vừa khủng bố, đánh phá, vừa dụ dỗ, lừa bịp nhằm
dòn đòng bao ta vao các khu tập ưung, 'khu tru m ật”, "áp chién
lược", "ấp tân sinh". Địch tập trung ở vùng này 3 sư đoàn quân đội
Sài G ịn, 4 lữ đồn qn M ỹ cùng 68 nghìn bảo an và hàng chục
nghìn cảnh sát, dân vệ, cán bộ bình đ ịn h ... tiến hành bình định quyết
liệt giành giật nông dân, nông thôn với cách mạng.

1. Luật N gư ờ i cày có ruộng, Cục C hinh huấn xuất bàn, Sài Gòn, 1970,
tr. 35-36
2. Đặng Phong, Kinh tế miền Nam Việt Nam thời kỳ 1955-1975, Nxb. KHXH,
H.2004, ư 262.

283


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
Chính sách bình định nơng thơn và chính sách đơ thị hóa cưỡng
bức tàn bạo và thâm độc của M ỹ và chính quyền Sài Gịn đã làm
cho tình hình kinh tế - xã hội miền Nam có những biến động lớn. Ở
nơng thơn, hàng triệu nông dân phải rời bỏ làng mạc, ruộng đồng
để vào các trại tập trung hoặc tha phương càu thực, đi vào thành thị
kiếm ăn. Trong khi đó ở thành thị, dân số tăng lên đột ngột, tình
trạng thất nghiệp gia tăng.
Theo thống kê của chính quyền Sài Gịn thì ở miền Nam "năm
1960, 80% dân số là nơng dân, ngư dân. Vì tình trạng chiến tranh,
một số dân cư đi vào thành thị hay bị nghề nơng đi làm tại các căn
cứ quân đội nên dân số hiện nay sống tại nơng thơn cịn lại khoảng
60% "'. Cịn ờ thành thị, năm 1954, dân số Sài Gịn có 1.614.000
người thì đến năm 1970 đã lên tới 2.254.000 người. Các thành phố

thuộc Đồng bằng sông Cửu Long năm 1954 chi có 520.000 người,
đến năm 1970 đã lên tới 1.230.000 người2.
Chính sách bình định của M ỹ và chính quyền Sài Gòn còn gây
nên sự xáo trộn về ruộng đất, làm giảm sút nghiêm trọng diện tích
canh tác ờ miền Nam. Việc giảm sút ruộng đất canh tác, trước hết
do việc chính quyền cưỡng bức nhân dân vào các khu tập trung, đốt
phá nhà cửa, chặt phá vườn tược, cây ăn trái, phá hàng chục vạn
hécta ruộng đồng để lập "khu trù mật", và sau nữa do bị tàn phá bời
bom đạn, chất độc hóa học và việc cướp đất để xây dựng các cơng
trìn h q u â n sự.

Tất cả những biện pháp trong kế hoạch bình định của M ỹ và
chính quyền Sài Gịn đã dẫn tới sự giảm sút của nền nông nghiệp
miền Nam. Ngành trồng lúa bị giảm trung bình từ 30 - 80%, do
nơng dân bò ruộng hoặc do tập quán canh tác bị xáo trộn. Từ chỗ là

1. Kế hoạch 5 năm phát triển nông thôn, Bộ Cải cách điền địa xuất bàn, Sài
Gòn, 1970, tr. 25.
2. Ban Kinh tế Trung ương Cục miền Nam, Thống kê dân số, diện tích, sản
lượng. Báo cáo năm 1971.
284


Chương /V. Đánh thắng một bước quan trọng...
m ột trong những trung tâm xuất khẩu gạo của thế giới, đến năm
1965, miền Nam Việt Nam đã phải nhập lúa gạo và tỷ lệ nhập ngày
một tăng.
Thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", cùng với việc
xây dựng và củng cố qn đội và chính quyền, tiến hành bình định
nơng thơn, M ỹ và chính quyền Sài Gịn thực hiện một số chù trương

nhằm đẩy mạnh sự phát ưiển kinh tế miền Nam theo xu hướng tư
bản chù nghĩa.

về nông nghiệp, đi đôi với việc thi hành Luật "Người cày có
ruộng", M ỹ và chính quyền Sài Gịn đẩy mạnh chính sách "canh tân
hóa nơng nghiệp". Riêng từ năm 1968 đến năm 1971, miền Nam đã
nhập 157.436 máy nông nghiệp các loại của Nhật, Pháp, Mỹ, Tây
Đức, trong đó có 18.493 máy cày tay và máy cày 4 bánh trên dưới
30 m ã lực, 444 m áy gặt đập lúa, 2.152 máy bơm nước. Tính đến
năm 1974, miền Nam đã nhập hơn 186.000 máy nơng nghiệp các
loại, trong đó có 20.000 máy cày.
Chính sách kinh tế của chính quyền Sài Gịn đã có tác động tích
cực đến sự phát triển của nông nghiệp. Trong những năm 19701973, sản xuất nông nghiệp miền Nam có sự tăng trưởng nhất định.
Diện tích trồng lúa chiếm 80% diện tích canh tác và sản lượng lúa
chiếm 60% giá trị sản lượng nông nghiệp. Song việc thâm canh,
tă n g vụ c ò n h ạn ch c , năn g su â t b ìn h q u ân c ũ n g ch ì m ới đ ạt tru n g

bình 2,2 tấn/ha. Không những vậy, do sự cạnh tranh của nông sản
nhập khẩu, sự tàn phá của chiến tranh, sản xuất nông nghiệp vẫn chi
dừng lại ở mức phục vụ nhu cầu trong nước.
Điều đáng nhấn mạnh là, với Luật "Người cày có ruộng" và với
các chính sách "hiện đại hóa nơng thơn", "canh tân hóa nơng
nghiệp", M ỹ và chính quyền Sài Gòn tạo ra cơ sở kinh tế cho nhân
viên, tạo ra tầng lớp tiểu nông, tư sản nông thôn làm chỗ dựa kinh tế,
chính trị, xã hội cho chế độ thực dân mới của Mỹ. Đen những năm
đầu của thập kỷ 70, cơ cấu kinh tế - xã hội ở nông thôn miền Nam đã
285


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 13

chuyển biến theo hướng phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong nông
nghiệp, nông thôn miền N am đã xuất hiện đồng thời ba quá trình cơ
bản: q trình xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, q trình trung
nơng hóa và q trình phân hóa nơng dân. Đến trước ngày miền
Nam hồn tồn giải phóng, trong nơng thơn miền Nam, giai cấp địa
chủ và chế độ sở hữu phong kiến đã bị xóa bỏ về căn bàn. Trung
nông đã trở thành nhân vật trung tâm trong nền kinh tế nông thôn,
chiếm 70 - 80% số hộ và ruộng đất. Khác với trước đây, tầng lớp
trung nơng mới này khơng chi có ruộng, có lao động, mà cịn có
vốn, máy móc và có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, khả
năng quản lý. Bên cạnh tầng lớp trung nông đông đảo, trong nông
thôn miền Nam cịn có tầng lớp nơng dân làm th và tầng lớp phú
nông - tư sản. Tầng lớp nông dân làm th (bao gồm những hộ nơng
dân hồn tồn khơng có đất phải đi làm thuê để sống và những hộ
nông dân thiếu đất để canh tác, nên chủ yếu cũng đi làm thuê để
sống) chiếm một tỷ lệ khá lớn (m ột số vùng có tới 30 - 40%). Tầng
lớp tư sản nông dân (chủ đồn điền và trang trại tư bản chủ nghĩa,
chủ máy móc cho thuê và bóc lột nhân cơng theo lối tư bản chủ
nghĩa) đang trong quá trình hình thành, chiếm khoảng 3,7% số hộ
và 12,33% diện tích canh tác. Tuy vậy, tầng lớp tư sản nông thôn
mới bắt đầu phát triển, chưa thành giai cấp tư sàn nơng thơn có vai
trị chi phổi nền nông nghiệp và nông thôn như ở các quốc gia tư
b ản ch ủ n g h ĩa .

về công nghiệp, chính quyền Sài Gịn thi hành chính sách mở
cửa, tăng cường liên doanh với nước ngoài. Song do điều kiện
chiến tranh, các cơng ty nước ngồi đầu tư khơng nhiều và chủ yếu
trên lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và thực phẩm. Các cơ sờ công
nghiệp miền Nam thời kỳ này chủ yếu là liên doanh mà phần lớn là
các công ty tư nhân. Các cơ sờ sản xuất tập trung chủ yếu ở Sài

Gòn - Gia Định và Khu cơng nghiệp Biên Hịa. Các ngành kinh
doanh cơng nghiệp chủ yếu là điện, nước, cơ khí, hóa chất, địa chất,
công nghiệp nhẹ, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, da, dệt, đồ gỗ, giấy
286


Chương IV. Đánh thăng một bước quan trọng..,
và thủy tinh. Trong những ngành trên, phát triên nhất là các ngành
sản xuất hóa chất, cơng nghiệp nhẹ và cơng nghiệp thực phẩm.
Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và chế biến phần lớn là nhập
của nước ngoài.
Tuy thiết lập được nhiều cơ sở sàn xuất mới, song phần lớn các
cơ sở sản xuất đều thuộc loại vừa và nhỏ. Giá trị sản phẩm công
nghiệp hằng năm chỉ bằng 1/3 giá trị sản phẩm nông nghiệp và chi
chiếm 1/10 giá trị sản phẩm trong nước. Ngành công nghiệp nặng
hầu như không phát triển ngồi một số cơ sở thăm dị và khai thác
dầu khí. Khoảng 70% giá trị sản phẩm cơng nghiệp là thực phẩm và
hàng dệt làm bằng nguyên liệu nhập khẩu.
Dưới chế độ thực dân mới, thương nghiệp và ngân hàng ở miền
Nam là những ngành phát triển nhất. Năm 1955, chính quyền Sài
Gịn cấp khoảng 50.000 mơn bài, chủ yếu là cho các ngành kinh
doanh thương nghiệp, đến cuối năm 1972, số môn bài được cấp đã
lên tới 219.000 chiếc, tăng gấp 4 lần. Hầu hết các cơ sở kinh doanh
thương nghiệp đều thuộc loại nhị dưới hình thức cá thề và tập thể.
Theo tờ đặc san của "Nghiệp đồn xuất nhập càng Việt Nam" năm
1973, thì ở miền Nam có 2.998 cơng ty và 183.000 hộ kinh doanh
cá thể. Trong số các cơng ty đó có 2.920 thuộc loại nhỏ, trong số hộ
cá thể có 180.000 hộ xếp vào loại vừa và nhỏ.
v ề ngân hàng, tro n g g ia i đ o ạ n n à y c ù n g với s ự phát triể n c ủ a h ệ
thống ngân hàng ngoại thương, mạng lưới ngân hàng nông thôn gia

tăng mạnh mẽ. Hệ thống ngân hàng nơng thơn đóng vai trị lớn
trong việc thực hiện chương trình "Người cày có ruộng", ''Canh tân
hóa nơng nghiệp" của chính quyền Sài Gịn. Trong những năm này,
tư sản người Hoa vẫn giữ vai trò chi phối trong cả nội thương và
ngoại thương miền Nam.

N hư vậy, trong thời kỳ từ 1969 đến 1973, kinh tế miền Nam có
phát triển hơn so với những năm trước. Vì mục tiêu phục vụ chiến
ưanh nên hạ tầng cơ sở, bến bãi và giao thông vận tải được chú ý

287


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 13
đầu tư và có những tiến bộ rõ rệt. Nhiều nhà máy quy mô lớn, kỹ
thuật hiện đại được xây dựng. Tính đến năm 1974, Sài Gịn - Gia
Định đã có khoảng 38.000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, đội ngũ công
nhân ở miền Nam phát triển khá nhanh. Năm 1969, số lượng công
nhân ờ thành thị là 67 vạn, đến năm 1970 tăng lên trên 70 vạn. Tuy
vậy, là một nền kinh tế phụ thuộc, nhất là về tài chính và nguyên
liệu và vì mục đích phục vụ chiến tranh, cho nên nền kinh tế miền
Nam mất cân đối về cơ cấu và khơng ổn định. Trong vịng 13 năm
(1960-1973), tổng sản phẩm quốc nội của nền kinh tế miền Nam
tăng khoảng 50% (1960: 81 tỷ đồng, 1973: 122,8 tỷ đồng) tăng trung
bình 4% một năm. Trong nơng nghiệp, tốc độ tăng chậm và bấp
bênh. Nếu lấy năm 1961 là năm cơ bản thì giá trị sản lượng nơng,
lâm, ngư nghiệp năm 1972 là 111,9%, tăng khoảng 20%, trung bình
2% một năm, thấp hom nhịp độ tăng dân số. Trong cơng nghiệp,
tính từ 1961 đến 1972, giá trị sản lượng đạt mức trung bình 12%

một năm.
Đi đơi với việc tăng cường viện trợ quân sự, xây dựng và củng
cố bộ máy chính quyền, qn đội, tăng cường bình định nơng thơn,
đẩy mạnh sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản vào nền kinh tế miền
Nam, đế quốc M ỹ tích cực xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo
quyệt nhằm cô lập cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Từ khi
lên nắm quyền, Tổng thong M ỹ Níchxom và các trợ lý đã tiến hành
hàng loạt các chuyến công du đến Liên Xơ, Trung Quốc và các
nước khác với mục đích mặc cả nhằm hạn chế sự ủng hộ, giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tiến bộ trên thế giới đối
với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, xuyên tạc, đánh lạc
hướng cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và phong trào cách
mạng của nhân dân các nước. Tại cuộc đàm phán tại Paris, chúng nêu
ra những điều kiện không thể chấp nhận được để cố tình phá hoại,
trì hỗn giải pháp cho vấn đề hịa bình ở Việt Nam. Ngày 14-5-1969,
chính quyền Níchxơn đưa ra đề nghị 8 điểm, ngang ngược đòi miền
Bắc cũng như Mỹ và chư hầu cùng rút quân ra khỏi miền Nam Việt

288


Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..,
Nam, chống lại việc thành lập Chính phù liên hiệp của nhân dân
miền Nam. Trong cuộc gặp riêng Trường đồn Việt Nam (8-1969),
Kítxinhgiơ hăm dọa: "Neu đến ngày 1-11-1969 mà không đạt được
tiến bộ nào thì M ỹ sẽ tính đến thực hiện nhũng biện pháp có hậu
quá nghiêm trọng".
Trong khi đó, M ỹ vẫn duy trì các hoạt động trinh sát, tiếp tục
ném bom đường mịn Hồ Chí Minh, đánh phá các hệ thống kho tàng,
bến bãi, các phương tiện vận chuyển cùa ta nhằm ngăn chặn các hoạt

động tiếp tế cùa miền Bắc cho chiến trường miền Nam.
Song song với việc thực hiện kế hoạch "Việt Nam hóa chiến
tranh", đế quốc M ỹ đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt ở Lào, dùng
khơng qn, biệt kích đánh phá vùng dọc biên giới Việt Nam - Lào,
Việt Nam - Campuchia, ráo riết chuẩn bị để mở rộng chiến tranh ra
tồn bán đảo Đơng Dương.
Những âm mưu và hoạt động mới của đế quốc Mỹ làm cho
cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam căng thẳng và phức tạp horn
trước. Chiến tranh ác liệt và lan rộng trên bán đảo Đông Dương.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đứng trước những thử
thách mới.
II.

ĐÁNH BẠI M Ộ T BƯỚC QUAN TRỌNG CHIÉN LƯỢC

"VIỆT NAM HÓA CHIF.N TR ANH" CỈTA MỸ

1. Tinh thế cách mạng miền Nam và sự chuyển hưửng chỉ
đ ạo củ a Đ ảng
Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tet Mậu Thân năm 1968 đã tạo
ra một bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm
phá sản chiến lược "Chiến tranh cục b ộ ", buộc Mỹ phải xuống
thang chiến tranh. Song do bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ chưa
chịu từ bỏ âm mưu duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.
Lợi dụng sai lầm của ta trong việc chậm chuyển huớng tấn công sau
Tết Mậu Thân, bỏ lỏng vùng nơng thơn, M ỹ và chính quyền Sài Gòn
289


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẠP 13

đã tiến hành liên tiếp các cuộc phản kích quyết liệt đẩy lùi chù
lực của ta ra xa các vùng ven thành phố, thị xã, các khu đông dân
cư và các đường giao thông chiến lược. Sau cuộc T ổng tấn công
Tết M ậu Thân năm 1968, ta do mất bàn đạp tấn công, lực lượng
hao hụt, vũ khí đạn dược, lương thực, thuốc men bị mất mát tiêu
hao chư a kịp bổ sung, khó khăn ngày càng chồng chất. Lực lượng
chủ lực của ta buộc phải lùi dần về vùng giáp ranh và rừng núi.
T inh hình khó khăn đó đã làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ
bi quan, dao động.
Tuy đứng trước tình hình khó khăn và phức tạp, qn và dân ta
vẫn tích cực thực hiện Chỉ thị tháng 11-1968 của Bộ Chính trị
"chuẩn bị đợt cao điểm cơng kích vào mùa Xn, tiếp đó chuẩn bị
đợt cao điểm cơng kích và khởi nghĩa vào mùa Hè và những đợt
sau nữa nhàm giành thắng lợi xoay chuyển cục diện chiến trường
có lợi cho ta " 1.
Đe thực hiện những nhiệm vụ trên, chiến trường miền Nam
được bổ sung thêm một số trung đoàn pháo binh, các đơn vị binh
chủng kỹ thuật, vũ khí, khí tài hiện đại và 13 tiểu đồn, 99 đại đội,
35 trung đội đặc cơng. Tại các căn cứ cách mạng, Đảng ủy và Bộ
Tư lệnh các quân khu, m ặt trận một mặt tăng cường công tác huấn
luyện chiến đấu, mặt khác phát động phong trào tăng gia sản xuất,
xây dựng căn cứ hậu phương trực tiếp của cuộc kháng chiến, tự sản
xuất một phần lương thực, thực phẩm.
Trong lúc vừa chuẩn bị lực lượng cho các đợt phản công mới,
quân và dân miền N am vừa đánh trả quyết liệt các cuộc hành quân
lấn chiếm của địch. Lực lượng vũ trang Tây Ninh liên tiếp đánh bại
các cuộc hành quân Bình Tây 48, Bình Tây 49, Bình Tây 50 của
M ỹ và quân đội Sài Gòn vùng núi Chu Pa. Quân và dân hai tinh
Quảng Trị, Thừa Thiên bẻ gãy cuộc hành quân Cái hẻm Điuây của


1. Những sự kiện lịch sứ Đảng, tập III, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985,
tr. 451.
290


Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..
Mỹ và chính quyền Sài Gịn ở vùng núi C ơcava, đánh thiệt hại
Trung đồn 9 lính thủy đánh bộ M ỹ và m ột số đơn vị quân đội Việt
Nam Cộng hòa. Lực lượng vũ trang Nam Bộ kiên cường đánh bại
cuộc hành quân của M ỹ và quân đội Sài Gòn vào căn cứ Ư Minh
(Rạch Giá), tập kích sân bay Lộ Tẻ, Sở Chi huy Sư đoàn 25 Mỹ tại
Đồng Dù, tiến cơng cụm qn M ỹ ở Thị Tính (Thủ Dầu Một) gây
cho địch nhiều thiệt hại.
Trong khi đó tại Paris ngày 25-1-1969, phiên họp đầu tiên cùa
Hội nghị bốn bên về Việt Nam chính thức khai mạc. Phái đồn
Chính phù nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do Bộ trưởng Xuân
Thủy làm Trưởng đoàn, ủ y viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Đức Thọ làm cố vấn đặc biệt;
phái đoàn M ặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do ơng
Trần Bửu Kiếm làm Trường đồn, bà Nguyễn Thị Bình và ơng
Trần Hồi Nam làm Phó Trường đồn, c ầ m đầu phái đoàn Hoa Kỳ
là Hariman; phái đồn Việt Nam C ộng hịa là Nguyễn Cao Kỳ và
Phạm Đăng Lâm. Mặc dù ngồi vào bàn đàm phán, thừa nhận Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chính quyền Níchxơn
chủ trương kéo dài hội nghị để giành the mạnh trên chiến trường.
Vì thế ngay trong phiên họp đầu tiên này, phía M ỹ vẫn bám giữ
điều kiện yêu cầu cả hai bên M ỹ và Việt Nam "cùng rút quân", khôi
phục khu phi quân sự, tôn trọng Hiệp định G iơnevơ 1962 về Lào,
tô n trọ n g ch ù q u y ê n C a m p u c h ia . Q u a n đ iê m trê n c ủ a M ỹ đ ã đ ặt
ngang hàng kẻ xâm lược với người chống xâm lược, do đó Hội nghị

vừa mở ra đã bế tắc.
Sau cuộc đàm phán đầu tiên không kết quả, thực hiện kế hoạch
của Bộ Tổng tham mưu và Trung ương C ục, đêm 22 rạng ngày
23-2-1969, quân và dân miền Nam đã m ờ cuộc tiến công đồng loạt.
Tại miền Đông Nam Bộ, lực lượng vũ trang đã tập kích sân bay
Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hịa, khu kho Long Bình, các căn cứ
Mỹ ờ Dầu Tiếng, Trà Cao, Tràng Lớn, Đức Hòa và bè gãy cuộc hành
quân Cái Nêm Sát Lát của hơn 1 vạn quân địch đánh vào Dầu Tiếng.
291


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
Trên chiến trường Đ ồng bằng sơng Cửu Long, ta pháo kích vào các
thị xã và sân bay M ỹ Tho, Bến Tre, c ầ n Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau. Tại Nam Trung Bộ, ta tập kích cảng Ninh Chữ, tiểu khu
Phan Thiết, thị xã Đ à Lạt, sân bay Thành Sơn. Tại chiến trường
Tây Nguyên, lực lượng vũ trang của ta sau khi đánh bại cuộc hành
quân thí điểm phi M ỹ hóa ờ vùng Chu Pa đã chuyển sang tấn cơng
vào tuyến phịng thủ của địch ở phía Tây thị xã Công Tum, bao
vây, uy hiếp các căn cứ quân đội Việt N am Cộng hòa ở Plây c ầ n ,
Đức Cơ, Kleng, đánh m ạnh vào hậu cú của Lữ đồn 1 M ỹ ờ Tân
Phá, tập kích quân M ỹ ở sân bay Đắc Tô, buộc quân M ỹ phải rút
khỏi Kleng, lui về tuyến phòng ngự cơ bản ở thị xã Công Tum và
trên trục đường 14. Đặc biệt tại Khu IV, các lực lượng cùa ta đã
đồng loạt đánh vào 9 thị xã và thành phố, 33 chi khu quân sự và
quận lỵ, 8 thị trấn và các sân bay, bến cảng, khu kho dự trữ chiến
lược, trận địa pháo, sở chi huy, bãi xe cơ giới, gây cho địch nhiều
thiệt hại.
Ket thúc hơn m ột tháng tấn công đầu Xuân 1969, quân và dân
miền Nam đã đánh vào 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận huyện

và nhiều kho tàng, sân bay, sở chỉ huy của M ỹ và quân đội Sài
Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực địch, đặc biệt là
quân Mỹ, phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh. Tuy
nhiên, hiệu quả của đợt tấn công không như ý định của chúng ta.
D o n h ữ n g k h u y ế t đ iế m c ủ a ta tr o n g v iệ c c h ỉ đ ạ o c á c đ ợ t tô n g tan

công và nổi d ậy trước đây chưa được khắc phục, lực lượng vũ
trang của ta bị tiêu hao chư a kịp bổ sung, cho nên cường độ các
đợt tấn cơng cịn nhỏ, rời rạc, kết quả cịn hạn chế, khơng hỗ trợ
được cho phong trào chống bình định m à địch đang ráo riết thực
hiện ở các vùng nông thôn. Sau cuộc tổng tấn công này, vùng
giải phỏng và vùng làm chủ của chúng ta tiếp tục bị thu hẹp lại.
Lực lượng vũ trang bị tiêu hao và tiếp tục phải lùi dần lên vùng
rừng núi. C ơ sở cách m ạng bị tổn thất, thế trận chiến tranh nhân
dân bị ảnh hường nghiêm trọng, cục diện chiến trường tiếp tục
xấu đi.
292


Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..
Trước tình hình đó, tháng 5-1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã họp xác định và ra Nghị quyết "Ve tình hình
và nhiệm vụ" của tồn Đảng, tồn dân và tồn qn.
Bộ Chính trị khảng định những thắng lợi của quân và dân ta từ
cuộc Tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt đầu Xuân Mậu Thân 1968
đến nay là hết sức to lớn và có ý nghTa chiến lược, đồng thời cũng
nêu lên những nhược điểm và khó khăn cùa ta trong thời gian qua
và nhận định rằng mặc dù chúng có gây cho ta nhũng khó khăn
nhất định, nhưng đế quốc Mỹ đã bị những thất bại nặng nề về mọi
mặt, ý chí xâm lược đã bị lung lay rõ rệt, chúng đã buộc phải xuống

thang từng bước và khó lịng duy trì cuộc chiến tranh xâm lược với
quy mô hiện nay trong một thời gian dài.
Trên cơ sở nhận định trên, Bộ Chính trị nhấn m ạnh rằng địch ít
có khả năng tăng qn ồ ạt và m ở rộng chiến tranh cục bộ ra cả
nước, nhưng cuộc chiến tranh có thể diễn ra theo hai khả năng: Một
là, Mỹ buộc phải kết thúc sớm chiến tranh bằng giải pháp chính trị
mà chúng có thể chấp nhận được; Hai là, sức tấn công của ta không
mạnh, M ỹ sê cố kéo dài chiến tranh trong một thời gian, tìm cách
kết thúc chiến tranh trên thế mạnh. Chiến tranh diễn ra theo khả
năng nào là tùy thuộc vào sự nỗ lực của ta và sự khó khăn quân sự,
tài chính, chính trị cùa Mỹ.
Chính từ cách nhìn đó, Bộ Chính trị đã nhận định: "Chúng ta
đang đứng trước thời cơ lớn đế thừa thăng tiến lên, đấy mạnh tiến
cơng tồn diện và liên tục, tiến lên một bước mới rất cơ bản, đánh
bại ý chí xâm lược cùa Mỹ". Nhiệm vụ trước mắt được Bộ Chính
trị đề ra là: "Động viên sự nỗ lực cao nhất cho toàn Đ ảng, toàn
quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được,
tiếp tục đẩy mạnh tổng cơng kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh ba
mũi giáp cơng, kết hợp với tấn công ngoại giao, ra sức xây dựng
lực lượng quân sự và chính trị, phát triển chiến lược tấn cơng một
cách tồn diện, liên tục và mạnh mẽ, làm thất bại các mục tiêu và
biện pháp phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh
293


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
ưên thế mạnh và chủ trương phi M ỹ hóa chiến ưanh của chúng,
đánh cho M ỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp và ta
giành được thắng lợi quyết định, tạo điều kiện để thực hiện một
miền Nam độc lập, dân chủ, hịa bình, trung lập, tiến tới thống nhất

nước n h à"1.
Bộ Chính trị yêu cầu các cấp, các địa phương và lực lượng vũ
trang kiên quyết giữ vững và phát triển thế tấn công, bao vây thường
xuyên, liên tục ở thành thị, đẩy mạnh giải phóng vùng nơng thôn,
làm chủ phần lớn các vùng nông thôn xung yếu, vùng rừng núi và
giáp ranh, chuẩn bị tốt chiến trường đánh tiêu diệt lớn.
Thực hiện Nghị quyết trên của Bộ Chính trị, đầu tháng 5-1969,
Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã họp và quyết định: Tiếp
tục phát triển thắng lợi đợt xuân, ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực và
phương tiện chiến tranh cùa M ỹ và quân đội Sài Gòn, tiếp tục đánh
bại về cơ bản kế hoạch bình định cấp tốc của địch; phát huy cách
đánh mạnh, đánh liên tục vào các đô thị, thị xã hơn nữa, nhất là các
thành phố Đà Nằng, Huế, Sài Gòn; đẩy mạnh đấu tranh chính trị,
binh vận; ra sức xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng chính
trị. Trung ương Cục chỉ thị cho các quân khu, các mặt trận chuẩn bị
m ở đ ợ t tấn công m ùa Hè 1969, dự định vào ngày 11-5.
Trong khi chiến trường đang chuẩn bị cho đợt tấn cơng mới thì
ngày 8-5-1969, tại Paris diễn ra phiên họp toàn thể lần thứ 16. Tại
phiên họp này, Đoàn đại biếu M ặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam V iệt Nam đã đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm , trong đó
nhấn m ạnh việc M ỹ phải rút qn khơng điều kiện ra khỏi miền
Nam V iệt Nam, quyền tự quyết của miền Nam Việt Nam do nhân
dân m iền Nam tự giải quyết, khơng có sự can thiệp của nước
ngoài. Nội dung của giải pháp toàn bộ 10 điểm thể hiện lập
trường có ngun tắc và chính sách mềm dẻo của ta trong việc
giải quyết hịa bình vấn đề miền Nam Việt Nam. Lập trường của

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tậ p , tập 30, Sđd, tr. 132.

294



Chương IV. Đánh thăng một bước quan trọng..
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã gây được sự
chú ý và ủng hộ rộng rãi cùa nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.
Tuy nhiên, đế quốc M ỹ vẫn tìm mọi cách phá hoại đàm phán, âm
mưu giành thế mạnh trên chiến trường, buộc ta phải chấp nhận điều
kiện có lợi cho chúng.
Trên chiến trường miền Nam, theo đúng kế hoạch đã định, ngày
11-5-1969, các lực lượng vũ trang giải phóng đã đồng loạt đánh
vào 830 mục tiêu của địch trên khắp miền Nam, trong đó có 57 căn
cứ, sở chỉ huy và 41 sân bay quân sự của địch.
Tại mặt trận Trị - Thiên, lực lượng vũ trang giải phóng đã đánh
bại cuộc hành quân của Mỹ và quân đội Sài G òn ra vùng thung
lũng A Lưới - A Búa. Qua 13 ngày chiến đấu, lực lượng vũ trang
Trị Thiên - Huế đã đánh thiệt hại Lữ đồn dù 187, loại khỏi vịng
chiến đấu 1.500 tên địch.
Tại Khu V, lực lượng vũ trang quân khu đã đánh vào trận địa
tên lừa HOK ở Đà Nang, Sờ Chi huy lính thủy đánh bộ M ỹ và Sờ
Chỉ huy Lữ đoàn 11, Lữ đoàn American và các cụm quân của các
đơn vị quân Mỹ. Trên chiến trường Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh mặt
trận hạ quyết tâm đánh vào tuyến phòng thủ cơ bản của địch ở Đắc
Tô. Đây là lần đầu tiên lực lượng vũ trang Tây Nguyên vận dụng
sáng tạo chiến thuật bao vây, áp sát, liên tục tấn công, đánh bại chiến
thuật di tản, co cụm, đóng chốt điểm cao của chúng. Ta đã diệt 3
tiểu đoàn địch, đánh thiệt hại 2 tiếu đoàn khác.
Tại miền Đông Nam Bộ, lực lượng vũ trang giải phóng đã tập
kích, pháo kích cảng Nhà Bè, khu kho Long Bình, căn cứ Nước
Trong, trường huấn luyện Quang Trung, sân bay Tân Sơn Nhất. Bộ
đội đặc công đã đánh sập cầu Lái Thiêu, tập kích khu kho qn sự

Gị Vấp. Các Sư đoàn 1, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 bộ đội
chủ lực M iền đã mờ chiến dịch Tây N inh - Bình Long - Long
Khánh, đánh vào tuyến phịng thủ phía ngồi tiêu diệt nhiều địch và
phá hủy nhiều kho tàng, phương tiện chiến tranh của chúng.
295


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
Sau hơn một tháng tấn cơng, lực lượng vũ trang giải phóng
miền Nam đã loại khỏi vịng chiến đấu 29 tiểu đồn và cụm địch
tương đương, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.
Trong tháng 6-1969, một sự kiện lớn làm nức lòng nhân dân và
các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam. Trong 3 ngày 6, 7 và 8
tháng 6, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp và quyết định
thành lập chế độ cộng hịa, bầu ra Chính phù Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng c ố van Chính phú.
Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Phó Chủ tịch ủ y ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được Đại hội bầu
làm Chủ tịch Chính phủ Cách m ạng Lâm thòi và Luật sư Nguyễn
Hữu Thọ - Chủ tịch Đoàn Chủ tịch ủ y ban Trung ương Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được bầu làm Chủ tịch
Hội đồng Cố vấn Chính phủ, Luật sư Trịnh Đình Thảo - Chù tịch
ủ y ban liên minh các lực lượng dân tộc, dân chù và hịa bình Việt
Nam làm Phó Chủ tịch. Đại hội đã ra lời hiệu triệu quân và dân
miền Nam tăng cường đoàn kết, ra sức chiến đấu, đưa sự nghiệp
kháng chiến đến thắng lợi hồn tồn.
Ngày 10-6-1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam đã họp phiên đầu tiên quyết định chương trình
hành động và cừ Bộ trường Bộ Ngoại giao Nguyễn Thị Bình làm
Trưởng đồn Đồn đại biểu của Chính phủ tại Hội nghị Paris về

V iệt N am th a y ch o Đ o àn đại b iểu c ủ a M ặt trậ n D â n tộ c g iải p h ó n g

miền Nam Việt Nam.
Việc thành lập Chính phủ C ách mạng Lâm thời Cộng hịa
miền Nam Việt Nam có một ý nghĩa rất lớn đối với cuộc đấu tranh
cách mạng của nhân dân ta, "đánh dấu những thắng lợi to lớn cùa
thời kỳ tong tấn công và noi dậy, sự trưởng thành cùa phong trào
cách m ạng miền N a m "\ Ngay sau khi thành lập, Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã được 23 nước

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng loàn tậ p , tập 30, Sđd, tr. 188.

296


Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..
xã hội chù nghĩa và dân tộc chù nghĩa công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao.
Trong lúc này ở miền Nam, chiến sự vẫn diễn ra rất ác liệt. Do
chưa thấy hết được những cố gắng và âm mưu mới cùa Mỹ, những
khó khăn của ta, cho nên ta vẫn tiếp tục mở các đợt tấn cơng vào
các đơ thị, bị ngỏ nơng thơn. Lợi dụng sơ hở đó, địch đã dồn lực
lượng phản kích quyết liệt vào các vùng nơng thơn đồng bằng, các
vùng giáp ranh, đẩy đại bộ phận chù lực của ta bật lên vùng rừng
núi. Tiếp đó M ỹ và quân đội Sài Gòn tập trung lực lượng ngăn chặn
ta ở vịng ngồi, đồng thời mở các cuộc hành quân đánh sâu vào
các căn cứ của ta, phá hủy kho tàng, cắt đứt hành lang tiếp tế, ngăn
chận quyết liệt tuyến vận tải 559.
Ở vòng trong, 60 đến 70% các đơn vị chủ lực Mỹ và quân đội
Sài Gòn cùng tồn bộ qn địa phương và lực lượng kìm kẹp liên tục

mở các chiến dịch bình định, giành giật quyết liệt ở vùng nông thôn
đồng bằng, lập lại thế kìm kẹp ở những nơi bị mất trong các đợt tổng
tấn cơng của ta, thiết lập quyền kiểm sốt trên các địa bàn có tầm quan
trọng chiến lược. Mỹ và quân đội Sài Gòn đề ra chi tiêu cụ thể: Năm
1969, phải tiêu diệt 30% cán bộ cơ sở cách mạng trong tổng số 98.763
người theo phát hiện của chúng và năm 1970 phải đảm bảo an ninh
100% cho 60% vùng lãnh thổ1. Để thực hiện được kế hoạch đó, Mỹ
và quân đội Sài Gòn đã tăng cường lực lượng và mờ rộng quy mô
h o ạt đ ộ n g dư ớ i sự ch ì đ ạo củ a b ộ m á y tô chứ c ho àn thiện. M ỹ và quân

đội Sài Gòn đã mở các cuộc hành quân lớn với sự phối hợp cùa các
đơn vị chủ lực, bảo an, dân vệ, cảnh sát, cán bộ và nhân viên bình định
vào các vùng ở Đồng bằng sơng Cửu Long, vùng quanh Sài Gịn, vùng
Đơng Nam Bộ, các tỉnh duyên hải miền Trung và Khu V. s ố lượng
quy mô các cuộc hành quân ngày càng lớn. Tại miền Đơng Nam Bộ,
trung bình hàng tháng địch mở hơn 300 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn
và hơn 420 cuộc tại Đồng bằng sông Cửu Long.

1. Tuyên bố ngày 12-6-1969 của Chính phủ Việt Nam Dân chù Cộng hòa.

297


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
Phối hợp các cuộc hành quân càn quét, địch triển khai mạnh mê
các hoạt động gián điệp, tình báo nhằm phát hiện, tiêu diệt các cơ
sở cách m ạng của ta. Hoạt động này được M ỹ và quân đội Sài Gòn
coi là biện pháp chủ chốt của "cuộc chiến tranh giành dân". Dưới
sự điều khiển và kiểm soát của CIA, các tổ chức "Phượng Hoàng",
"Thiên Nga" được xây dựng từ trung ương đến các địa phương và

hàng chục nghìn nhân viên của các tổ chức này được tung về khắp
các địa phương hoạt động chi điểm, phát hiện, ám sát, thủ tiêu, bắt
bớ cán bộ, du kích và cả những người bị tình nghi. C hương trình
Phượng Hồng đã gây nhiều thiệt hại cho lực lượng cách mạng,
nhiều cơ sở của ta đã bị địch phát hiện và bị tổn thất nặng nề.
Hoạt động ráo riết của địch cả về quân sự và bình định đã đẩy
cách mạng miền Nam vào tình thế hết sức khó khăn. Vùng giải
phóng bị thu hẹp dần. Đến cuối năm 1969, địch lấn chiếm và kiểm
soát hầu hết các vùng nơng thơn bao quanh Sài Gịn, các tinh Đông
Nam Bộ và các tỉnh cực Nam Trung Bộ. Tại vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, hầu hết các vùng giải phóng đã bị địch lấn chiếm , chi
cịn lại một số vùng ở căn cứ Đ ồng Tháp Mười và u Minh.
Lực lượng vũ trang của ta cũng bị tổn thất nặng nề. Các Sư đoàn
5, 7, 9 chủ lực M iền bị đẩy lên vùng biên giới Campuchia. Các đơn
vị vũ trang địa phương từ cấp huyện đến cấp quân khu chỉ còn lại
1/3 số lượng so với năm 1968. Lực lượng dân quân du kích xã, ấp,
p h â n k h u c ũ n g n àm tro n g tìn h trạ n g lư ư n g tự. T ìn h h ìn h đ ó d ẫ n đ én

tình trạng số cán bộ, chiến sĩ lánh ngũ, đào ngũ, đầu hàng địch ngày
càng tăng.
Không những vậy, tại các căn cứ và vùng giải phóng, bộ đội và
nhân dân ta gặp nhiều gian khổ, khó khăn. Mỹ dùng máy bay ném
bom, bắn pháo, rải chất độc hóa học phá hoại mùa màng. Các đom
vị chủ lực địch cùng với thám báo, biệt kích tăng cường lùng
sục, chặn các đường tiếp tế của ta. Việc bổ sung lực lượng, tiếp tế
vũ khí, đạn dược, lương thực và thuốc men cho vùng căn cứ vơ
cùng khó khăn. Bộ đội Khu V hy sinh hàng nghìn người trong khi
298



Chương IV. Đánh thắng một bước quan trọng..,
đi thu gom lương thực. Ờ căn cứ, bộ đội và nhân dân phải đào củ
mài, hái rau rừng, sắn, khoai thay cơm. Dự trừ lương thực đến giữa
năm 1969 chỉ đù nuôi sống bộ đội ta trong khoảng 1 năm. Đói rét
kéo dài khiến bệnh tật phát triển trong khi thuốc men không đủ.
Sức khỏe bộ đội và nhân dân bị đe dọa. Vũ khí, đạn dược bị thiếu
hụt lớn, khơng kịp bổ sung. Khả năng chiến đấu của bộ đội giảm
sút nghiêm trọng. Trước sự đánh phá dồn dập, ác liệt của kẻ thù,
Đảng bộ miền Nam bị tổn thất khá nặng nề. Riêng 6 tháng đầu năm
1969, trong tổng số đảng viên từ Khu V trở vào, đã có 1.823 đảng
viên bị chết, 846 bị bắt, 267 đầu hàng địch.
Trước tình hình khó khăn đó, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh
Miền vẫn kiên quyết giữ vững khối chủ lực mặc dù có ý kiến cho
rằng nên phân tán để bảo tồn lực lượng. Để khắc phục khó khăn,
Trung ương Cục và Quân ủy Miền phát động phong trào tăng gia
sản xuất, khai thác nguồn bảo đảm tại chỗ trong các lực lượng vũ
trang. Nhàm từng bước khôi phục thế trận chiến tranh nhân dân ở
nông thôn, nhân dân và lực lượng vũ trang kiên trì thực hiện
phương châm "ba bám": "Đảng bám dân, dân bám đất, bộ đội bám
địch". Bộ Tư lệnh các quân khu kiên quyết trụ lại ở các địa bàn
xung yếu.
Tháng 7-1969, Trung ương Cục miền Nam họp Hội nghị lần
thứ Chín đánh giá tình hình chiến trường và đề ra những chủ trương
m ớ i. S au klii p h â n líc h n g u y ê n n h â n d ã n lỏ i n h ữ n g k h ó k h ă n 11,

Trung ương Cục chủ trương:
- Đẩy mạnh tấn công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang,
đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất;
- Tăng cường công tác dân vận làm cơ sở vững chắc đẩy mạnh
phong trào đấu tranh chính trị và binh vận;

- Ra sức phát huy vai trò của chính quyền cách mạng, tăng cường
lãnh đạo cơng tác an ninh, đẩy mạnh mặt trận kinh tế, tài chính, ra
sức m ở rộng và xây dựng căn cứ địa;
299


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 13
- Quán triệt hom nữa lập trường và quan điểm giai cấp công
nhân trong tiến hành xây dụng Đảng về tư tường và tổ chức để đảm
bảo hồn thành nhiệm vụ trong mỗi tình huống;
- Phát huy thế chủ động, thế tấn công trên mặt trận chính trị và
tư tưởng, đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong thời
gian tớ i1.
Trung ương Cục quyết định phải tập trung lực lượng tiến cơng
làm thất bại chù trương "qt và giữ" và chính sách bình định cùa
địch. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải giành dân, giành đất, phát
triển thế lực của ta, căng địch và kéo địch ra để tiêu diệt và tiêu hao
đi đơi với việc mở rộng vùng giải phóng. Đe phù hợp với sự chuyển
biến của tình hình, Trung ương Cục quyết định tổ chức lại một số
chiến trường: Lập Khu VII gồm Phân khu 4, các tỉnh Biên Hòa, Bà
Rịa, Long Khánh và đặc khu rừng Sát. Các quận nội thành Sài Gòn
- Gia Định trước kia được tách thành các phân khu, nay nhập lại và
cử Nguyễn Văn Linh làm Bí thư Thành ủy. Tại miền Tây, Trung
ương Cục điều Võ Văn Kiệt về làm Bí thư Khu ủy, Lê Đức Anh
làm Tư lệnh Quân khu IX.
Giữa lúc chiến trường miền Nam đang trải qua thời kỳ gay go,
ác liệt thì ngày 2-9-1969, C hù tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại cùa
dân tộc Việt Nam, Người chiến sĩ kiên cường của phong trào Cộng
sản và phong trào giải phóng dân tộc thế giói qua địi. Người mất đi
là một tổn thất khơng gì bù đắp được cho cách mạng Việt Nam, là

niềm đau thương vô hạn đối với đồng bào, chiến sĩ cả nước và bè
bạn quốc tế.
Tại vùng giải phóng, Hội nghị Liên tịch ủ y ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các
lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình V iệt Nam đã quyết định
ngừng bắn ba ngày để thọ tang Chủ tịch Hồ C hí M inh và ra lời

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 30, Sđd, tr. 347-419.

300


×