Tải bản đầy đủ (.pdf) (339 trang)

Nghiên cứu lịch sử các thời kỳ Việt Nam (Tập 5 - Tái bản lần thứ nhất): Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.51 MB, 339 trang )

Chirtmg VI

THƯƠNG NGHIỆP

Bước sang thế kỷ XIX, trong điều kiện chính quyền trung ương
được củng cố, đất nước khơng cịn tình trạng chia cắt, quốc gia
thống nhất, cũng như một số ngành kinh tế khác, thương nghiệp có
điều kiện để phát triển.
I. NỘI THƯƠNG
l ề H oạt động thưong nghiệp của Nhà nước

Trong hoạt động thương nghiệp của Nhà nước ở nửa đầu thế kỷ
XIX, người ta thấy nổi bật vai trò của Nhà nước trong các khâu thu
mua, trưng mua các loại hàng hóa, việc đúc tiền và thống nhất tiền
tệ, việc định ra và thống nhất các dụng cụ đo lường trong cả nước.
Thu mua các loại hàng hóa
Cũng như ờ những triều đại trước, ngồi việc thu gom hàng hóa
bằng con đường thu thuế, Nhà nước vẫn tiến hành việc thu mua
thường kỳ hàng năm các loại sản vật hàng hóa.
Việc thu mua các loại kim loại như vàng, bạc, địng, chì, kẽm,
gang sắt... được Nhà nước coi trọng hàng đầu vì đây là lĩnh vực
hàng hóa Nhà nước độc quyền, không cho phép người dân được
mua bán riêng.
Đồng: Đồng là sàn phẩm được Nhà nước chú trọng thu mua
bời nó là thứ nguyên liệu cần thiết để đúc tiền, chế tạo vũ khí và
sản xuất các thứ đồ gia dụng. Các mỏ đồng nước ta đều tập trung ở
phía Bắc nên hầu hết các trấn, thành phía Bắc đều được huy động
383


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5



vào việc thu mua địng. Đó là các địa phương như Hà Nội, Hải
Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tun Quang, Hưng Hố, trong đó chi
có Tun Quang và Hưng Hố là có mỏ đồng đang khai thác. Riêng
mỏ đồng Tụ Long ở Tuyên Quang hàng năm phải bán cho Nhà
nước 100.000 cân đồng với giá khi cao nhất là 10 lạng bạc, khi thấp
nhất là 7,5 lạng bạc cho 100 cân1. Để đảm bảo số lượng đồng thu
mua khi cần thiết, Nhà nước còn cấp trước tiền cho các hộ khai
thác đồng.
- Vàng bạc: Vàng, bạc là hai thứ kim loại q, nó khơng chi có
giá trị sử dụng khi dùng chế tác các đồ trang sức, trang trí nội thất
cho Hồng gia, mà cịn dùng để trao đổi, tích luỹ. Chính vì vậy
vàng bạc là hai thứ kim loại mà Nhà nước đặc biệt chú ý để thu
mua. Nhà nước có hai cách thu mua vàng: Thứ nhất, tiến hành mua
trực tiếp tại các mỏ vàng. Chi dụ của bộ Hộ vào năm 1831: "Các
chủ mỏ hàng năm ngoài số vàng phải nộp theo thuế lệ, mỗi mò phải
bán cho Nhà nước 50 lạng vàng"2. Cách thứ hai, Nhà nước giao cho
các tinh phải mua một số lượng nhất định theo giá của Nhà nước
đặt ra. Thí dụ, riêng trong năm 1841, tất cả các tinh Hà Nội, Thái
Nguyên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang đều phải
mua xấp xi 100 lạng vàng cho Nhà nước.
- Thóc gạo: Nhà nước thịi Nguyễn thu mua thóc gạo khơng
theo định kỳ bởi hàng năm số thóc gạo thu ở nguồn thuế là chính.
Chủ yếu số thóc gạo được thu mua trong những dịp đặc biệt như phải
chu cấp cho quân tính trong những chiến dịch đàn áp các cuộc nổi dậy
hay kiểm thóc trong các kho dự trữ thấy bị thiếu hụt nhiều, v.v... Năm
1815, thành Gia Định mua thêm số thóc là 231.766 hộc với giá mỗi
hộc 2 tiền 30 đồng3. Năm 1827, trấn Biên Hoà được lệnh mua 5
1. Trương Thị Yến, Chính sách thương nghiệp của triều Nguyễn nứa đầu
thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ, Viện Sử học, 2003, tr. 63.

2. Thực lục, tập

m, sđd, tr. 214.

3. Hội điển, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1993, tập V, tr. 35.

384


Chương VI. T hư ơng nghiệp
vạn hộc, Bình Thuận mua 3 vạn hộc1. Năm 1835, ở cả Bắc Kỳ và
Nam Kỳ đều có binh biến nên năm này tất cá các tinh đều phải thu
mua thóc cho Nhà nước. Riêng thóc nếp là thứ triều đình cần dùng
cho những dịp tế lễ hội hè... được mua thường xuyên hàng năm là
1.100 hộc, thường giao cho Bắc thành đảm nhiệm. Giá thu mua
thóc nếp vào năm 1834 là 4 quan 1 hộc.
Mặt hàng thứ ba trong danh mục thu mua của triều đình là các
sản vật địa phương như đường, mắm, sơn, mật ong, hồ tiêu, sa
nhân, sừng tê, ngà voi, v.v... Các loại gia súc, gia cầm như trâu, bò,
gà... hải sản như cá, tôm, cua, hải sâm, mực, v.v... cũng là đối
tượng được Nhà nước thu mua.
Đường-. Đường là sàn vật chính của hai tinh Quảng Nam, Quàng
Ngãi. Mức thu mua trung bình mỗi năm là 20 vạn cân. Giá thu mua
của Nhà nước mỗi năm một khác, chước lượng theo giá thị trường.
Bảng 36: Giá đường Nhà nước thu mua
Năm

1821

1823


Đon vị

Loại đirờng

100 cân

100 cân

Tiền

1

12 quan

2

11 quan

3

10 quan 5 tiền

1

7 quan 5 tiền

2

7 quan


3

6 quan 5 tiền

Nguồn: Hội điển sự lệ, tập V, sđd.
Bảng trên cho thấy giá thu mua đường ở năm cao nhất (1821),
và giá thu mua ở năm thấp nhất (1823). Những năm trước và sau đó
giá có sự xê dịch ít nhiều.

1. Hội điển, tập V, sđd, tr. 437.

385


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5

Nhà nước có chính sách khuyến khích đối với các hộ sản
xuất đường cụ thể là cho họ ứng trước tiền hoặc thóc để lấy vốn
sản xuất.
Lụa: Thế kỳ XIX, lụa khơng cịn là mặt hàng xuất khẩu có giá
ưị cao như ở những thế kỷ trước nên Nhà nước chi thu mua với số
lượng vừa phải, đáp ứng nhu cầu sừ dụng và làm quà biếu của triều
đình. Một số tình ờ Bắc Kỳ phải thường xuyên thu mua lụa cho
Nhà nước là Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Yên; ở Nam Kỳ có hai tình
Quảng Nam và Gia Định.
Nhìn chung, Nhà nước thu mua rất nhiều mặt hàng và vụn vặt.
Chi tính riêng các loại sản vật Nhà nước thu mua ở các tỉnh từ Thừa
Thiên đến Hà Tiên theo danh mục đã có tới 25 loại hàng1, s ố lượng
thu mua ở các tinh cũng khác nhau và luôn thay đổi theo thời gian

và việc kiểm tra kiểm sốt khơng chặt chẽ của Nhà nước đã dẫn tới
nạn "trưng thu hà lạm" khá phổ biến.
Trong việc thu mua hàng hóa của Nhà nước có thể thấy rõ
mục đích trước hết là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của quan lại triều
đình, sau nữa là phục vụ công việc ngoại giao, xây dựng cơ sở
vật chất và phục vụ cho việc trang bị vũ khí cho lực lượng quân sự
bảo vệ quốc gia. Nhu cầu thu mua hàng hóa để cung cấp cho hoạt
động thương nghiệp trong nước và nước ngồi cũng có nhưng
khơng đáng kổ. Chính vì thế việc thu mua cùa Nhà nước khơng có

tác dụng kích thích nhiều đối với sản xuất hàng hóa hay lun thơng
tiêu dùng.
Thống nhất các đơn vị đo lường
Việc thống nhất các đơn vị đo lường đã được chính quyền họ
Nguyễn chú ý ngay từ những ngày đầu để đáp ứng nhu cầu lưu
thông hàng hóa và thu gom các loại thuế, về cơ bản các đơn vị
được quy định như sau:

1. Trương Thị Yến, Chính sách thương nghiệp..., Luận án đã dẫn, tr. 205.

386


Chưcmg VI. T hương nghiệp
Đơn vị đo chiều dài:
Trượng = 10 thước = 4 m
Ngũ (Bộ) = 5 thước = 2 m
Thước = 10 tấc = 0,4 m
Tấc = 10 phân = 0,04 m
Lý (dặm) = 360 bộ = 720 m

Dơn vị đo diện tích:
Mầu = 10 sào = 3.600 m2
Sào = 5 thước = 360 m2
Thước = 10 tấc = 24 m2
Tấc (thốn) = 10 phân = 2 m2
Đơn vị đo trọng lượng
Tạ = 10 yến = 60, 460 kg
Yến = 10 cân = 6,045 kg
C ân = 16 lạng - 604, 5 00 gr

Lạng = 10 đồng = 37,783 gr
Đơn vị đo dung tích
Phương (vng, gạt) = 30 đắu = 30 lít

Thùng = 20 đấu = 20 lít
Đấu = 2 bát = 1 lít
Bát = 5 lẻ = 0,5 lít
Hộc = 26 thăng = 60 lít
Thăng = 10 cấp = 2 lít
Đơn vị tiền tệ
Vàng bạc (1 đom vị vàng tương đương 34 đơn vị bạc)
Nén = 10 lạng = 377,831 gr
387


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5

Lạng = 10 tiền = 37,783 gr
Tiền (đồng) = 10 phân = 3,778 gr
Phân = 10 ly = 0, 377gr

Ly = 10 hào = 0, 037gr
Tiền đồng;
Quan = 10 tiền
Tiền = 60 đồng
Đồng (đơn vị cơ bản)1.
Trên cơ sở những đơn vị cơ bản đã được thống nhất, cứ vài
năm Nhà nước lại cho tiến hành kiểm tra rồi ban hành những dụng
cụ tiêu chuẩn cấp phát cho các địa phương trên cả nước.
Đúc tiền và thắng nhất tiền tệ
Ngay khi mới thành lập vương triều, để khẳng định quyền lực
và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, vua Gia Long đã cho
thành lập Bắc thành tuyền cục vào năm 1803 với nhiệm vụ đúc ra
các loại tiền dùng thống nhất trên cả nước. Sau này các cục đúc tiền
còn được mờ ra ờ Huế và Gia Định. Tiền, vàng với tư cách là vật
ngang giá được thể hiện dưới 2 hình thức:
- Các thoi (hay còn gọi là đĩnh, thỏi) vàng và bạc.
- Các loại tiền: tiền vàng, tiền bạc, tiền đồng, tiền kẽm.
Trong suốt thời Nguyễn, sử đã ghi lại việc Nhà nước tổ chức
đúc tiền khá thường xuyên. Đặc biệt, dưới các triều vua Gia Long,
Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Các loại tiền được đúc với số
lượng nhiều, phong phú về thể loại và có chất lượng tốt. Bên cạnh
1. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thể kỷ XIX, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
1999, tr. 85
Tham khảo Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam des origines à 1858,
Paris, 1982.

388


Chương VI. T hư ơng nghiệp

những loại tiền do triều đình Nguyễn đúc, các loại tiền thời trước
vẫn được phép lưu hành (trừ tiền thời Tây Sơn) với số lượng khơng
nhiều, ngồi ra trên thị trường cịn có sự hiện diện của các đồng bạc
nước ngoài như tiền Tây Ban Nha, đô la Mỹ, bảng Anh và đồng
bạc Mễ Tây Cơ.

Anh: Tiền G ia Long thông bảo
Nguồn: .

Anh: Tiền vàng thời Thiệu Trị: Thiệu Trị thông bảo
Nguồn: vi.wikipedia.org.

389


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5

B ảng 37: Các loại tiền có giá trị lưu thơng
do triều Nguyễn đúc ở nửa đầu thế kỷ XIX

Niên hiệu
vua
Gia Long

Minh
Mệnh

Loại tiền

Gia Long thông bảo


C hất liệu

Năm
đầu tiên
sản xuất

đồng

1803

Gia Long thông bảo (7 phân)

kẽm

1813

Gia Long thông bảo (6 phân)

đồng

1814

Minh Mệnh thông bảo (6 phân)

đồng

1820

đồng


1822

Minh Mệnh thông bảo (lớn)

(kẽm+thiếc)
Minh Mệnh thông bảo (9 phân)

đồng (kẽm)

1825

Minh Mệnh thông bảo (lđồng)

đông

1827

Thiệu Trị Thiệu Trị thông bảo (9 phân)

đồng

1841

Thiệu Trị thông bảo (6 phân)

đồng

1841


Thiệu Trị thông bảo (6 phân)

kẽm

1841

Tự Đức thông bảo

đồng

1848

Tự Đức thông bảo

kẽm

1848

Tự Đức

Nguồn: Đỗ Văn Ninh, Tiền cổ Việt Nam, sđd.

Nhà nước thời Nguyễn đã có nhiều biện pháp để quản lý việc
sản xuất và phát hành tiền. Đạo luật cấm đúc trộm tiền được ban
hành từ đời Gia Long. Tại các cơ sở đúc tiền của Nhà nước, các hộ
tư nhân, sau khi được Nhà nước cho phép có thể mang nguyên liệu
đến để gia công với sự giám sát về chất lượng sản phẩm. Những
390



Chương Vỉ. T h ư ơn g nghiệp
đồng tiền có chất lượng đảm bảo và có giá trị ổn định được lưu
thông trên thị trường tạo điều kiện cho hoạt động thương nghiệp
trong nước phát triển, minh chứng cho sự phồn thịnh về kinh tế của
quốc gia ờ thời kỳ này.
Thuế thương nghiệp
Để đảm bảo thu nhập về tài chính cho quốc gia, cũng như các triều
đại trước, chính quyền họ Nguyễn vẫn duy trì các loại thuế, trong đó
có 3 loại thuế có ảnh hường trực tiếp đến kinh tế công thương nghiệp
là thuế quan tân, thuế chuyên lợi (hay thuế sản vật) và thuế chợ.
Thuế "quan tân "
Đây là loại thuế được quy định theo điều lệ rõ ràng từ thế kỳ XVII
(năm Bảo Thái thứ tư - 1723) nhằm đánh vào những người buôn bán,
chủ yếu là bn bán đường dài. Triều đình khơng trực tiếp thu thuế
mà cho các tư nhân lãnh trưng việc thu thuế ở những cửa quan, tấn sở.
Mức thuế được định ra Ưong kỳ hạn 5 năm. Người buôn đi qua các
quan sở (sờ tuần ty), làm bảng kê khai, sau khi nộp thuế sẽ được phát
một loại giấy chứng chi, qua nhiều cửa quan cũng chi nộp một lần.
Một năm đi nhiều chuyến thì sẽ phải nộp nhiều lần.
Cách đánh thuế hàng hóa ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ khác nhau. Cách
đánh thuế này cũng được đặt ra từ thời Trịnh - Nguyễn do sự tồn tại
cùa hai chính quyền ớ Đàng Trong và Đàng Ngồi, nhưng đến thời
Nguyễn vẫn khơng có sự thay đổi. Ờ Bắc Kỳ, Nhà nước đánh thuế
theo tỉ lệ 1/40 số hàng hóa, cịn ở Nam Kỳ lại đo theo thước, tấc bề
ngang của các ghe thuyền chở hàng để đánh thuế. Sự không đồng nhất
trong cách đánh thuế đã tạo khe hờ cho việc tham nhũng của chính
quyền sở tại và tầng lớp đứng ra lãnh trung việc thu thuể.
Thuế "biệt nạp"
Đây là loại thuế đánh vào các ngành nghề thủ công và nguồn
thu nông - lâm sản tại các địa phương. Theo quy định của Nhà

nước, hàng năm, những hộ, phường làm nghề thủ công sẽ phải nộp
cho Nhà nirớc một lượng sản phẩm nhất định, Nhà nước sẽ cho họ
391


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5

được miễn trừ thuế thân, nghĩa vụ binh dịch và lao dịch. Bảng 38
dưới đây là thí dụ về mức thuế cho các hộ làm nghề sắt ở một số
địa phương.
Bảng 38: Thuế sát đối với các hộ lam nghề sát ở các địa phương

Tên
địa phương

Mức thuế
trước
năm 1834

Mức thuế
từ sau
n im 1843

Sắt sống

Sắt chín

Sắt sống

Sắt chín


Hà Tĩnh, Nghệ An

100 cân

60 cân

100 cân

60 cân

Thanh Hố

40 cân

28 cân

60 cân

Bắc Ninh

60 cân

48 cân

60 cân

Quàng Nam

50 cân


30 cân

60 cân

Biên Hoà

50 cân

35 cân

60 cân

Gia Định, Định
Tường, Vĩnh Long,
An Giang, Hà Tiên

50 cân

38 cân

50 cân

10 lạng

Nguồn: Thực lục, tập rv, sđd.
Trong hình thức thuế "biệt nạp”, Nhà nước gần như hoàn toàn thu
bằng hiện vật. Hiện tượng cho nộp thế bằng tiền cũng có nhưng khơng
phổ biến. Mục đích của loại thuế này chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu
dùng, tặng phẩm của triều đình. Chính vì vậy, loại thuế này sẽ hạn chế

số nguyên liệu và sản phẩm nông nghiệp, thủ cơng nghiệp biến thành
hàng hóa trên thị trường, bởi thế khơng có tác dụng kích thích đối với
sản xuất hàng hóa và lưu thơng tiêu dùng trong nước.
Thuế pho, chợ
Thuế phố, chợ ở thời Nguyễn không phải là một ngạch thuế cố
định. Nó chi được thu ở những đô thị lớn, như Hà Nội, kinh đô
392


Chương VI. T hương nghiệp
Huế, G ia Đ ịnh, v.v... Trong n hữ ng đơ thị này cũng chỉ có n hữ ng
phố hoặc chợ có quy mơ lớn, bn bán sầm uất mới phải chịu thuế.
Chợ Gia Hội ở Huế được lập ra vào năm 1837, tại đây còn có 3 dãy
phố dài. Theo quy định của Nhà nước, "các người bày hàng ở phố
chợ chia ra từng hạng đánh thuế, hàng năm nộp 1.286 quan tiền"1.
Việc thu thuế ở các phố chợ cũng chi duy trì trong một thời gian
không dài, chợ Gia Hội được bãi thuế vào năm 1848. Các chợ
huyện, xã ở các địa phương không bị Nhà nước đánh thuế.
2ễ Hoạt động thương nghiệp của nhân dân

2. /. Các đơ thị với vai trị trung tâm thưemg nghiệp
Cho đến nửa đầu thế kỷ XIX ở nước ta đã có rất nhiều đơ thị
với vai trị ưung tâm thương nghiệp. Theo dịng chảy của thời gian
có những đơ thị thực sự lụi tàn và chi cịn trong ký ức như Thanh
Hà, Phố Hiến... có những thương cảng quốc tế nổi tiếng nay thưa
thớt thuyền bè như Hội An, đồng thời cũng có những đơ thị tiếp tục
tồn tại và ngày càng phồn vinh như Thăng Long - Hà Nội hay Sài
Gòn - Gia Định. Ở nửa đầu thế kỷ XIX, tại ba khu vực Trung,
Nam, Bắc có thể kể đến ba đơ thị, có tuổi đời dài ngắn khác nhau,
có quy mơ lớn nhỏ khác nhau nhưng đây là những trung tâm

thương nghiệp tiêu biểu.
Hà Nội
Bước sang thế kỷ XIX, Thăng Long - Hà Nội2 chuyển dần từ vị
trí một kinh đơ sang trấn thành rồi tinh thành. Vai trị chính trị của
nó trong thực tế có bị giảm sút song vị trí trung tâm kinh tế của nó

1. Thực lục, tập V, sđd, tr. 100.
2. Phải đến năm 1831 khi vua Minh Mệnh cải tồ bộ máy hành chính, bỏ các
trấn, chia cả nước thành 29 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên, địa danh Hà Nội
mới xuất hiện. Tinh Hà Nội lúc này bao gồm 4 phủ là Hoài Đức (gồm cả
kinh thành Thăng Long), ứ n g Hồ, Lý Nhân và Thường Tín, lấy khu vực
kinh thành Thăng Long cũ làm tinh lỵ.

393


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 5

vẫn không thể thay thế được. Có thể cho đến bây giờ, việc tách
khỏi yếu tố phụ thuộc và cũng là yếu tố kích thích ban đầu - khu
vực thành - sẽ tạo điều kiện cho yếu tố thị của Hà Nội phát triển
một cách độc lập.
Từ một kinh đô với 36 phố phường, sang thế kỷ XIX, Hà Nội chỉ
cịn 21 phố. Tồn bộ khu vực bn bán tập trung ở phía Đơng thành
phố, nơi tiếp giáp với sông Hồng. Các phố vẫn bán cùng một loại
hàng như các nông lâm sản hay các sản phẩm thủ công. Những người
thợ thủ công tại các vùng ra Thăng Long - Kẻ Chợ hành nghề từ thế
kỷ XVII như dân Đan Loan (Hải Dương) ra phố Hàng Đào làm nghề
nhuộm. Dân Trâu Khê (Hải Dương) và Định Cơng (Hà Nội), Đồng
Sâm (Thái Bình) làm nghề chế tác bạc ở phố Hàng Bạc. Thợ khảm

Chuyên Mỹ (Hà Tây) ra hành nghề ở phố Hàng Khay, v.v... Các thợ
thủ công đã thực sự coi Hà Nội là q hương thứ hai của mình. Tính
chun nghiệp trong nghề buôn bán được thể hiện khi điều khiển các
cửa hàng, cửa hiệu là những thương gia cố định chứ không phải là bất
cứ một đại diện nào của làng thù cơng. Họ có liên hệ chặt chẽ trong
việc tiêu thụ nguyên vật liệu và cung cấp nguồn hàng với các làng thủ
công quanh Hà Nội như làng giấy Yên Thái (Bưởi), làng Trích Sài,
làng the La Cả, làng đúc đồng Ngũ Xã, làng gốm Bát Tràng, v.v...
Trừ một số phố như Quảng Đông, Hàng Buồm, Phúc Kiến, Mã
Mây... tập trung các thương nhân Hoa kiều có vẻ khang trang, cịn
lại đa số các phố phường còn hẹp, nhà và cửa hàng đều lợp mái
tranh. Những người Pháp đến Hà Nội vào thời kỳ này khơng khịi
ngạc nhiên khi thấy những cửa hàng đơn sơ, không rực rỡ sắc màu
với những kho đụn chất đống nhưng mọc lên san sát, náo nhiệt và
hoạt động suốt ngày. Khơng có tư liệu cho biết số dân ở Hà Nội
vào khoảng thời gian này, nhưng theo ước đoán của các chứng
nhân đương đại phương Tây vào những năm 70 của thế kỷ XIX, Hà
Nội có khoảng từ 10 đến 15 vạn người1.

1. Nhiều tác giả, Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn, Nguyễn Thừa Hỷ dẫn
theo O.Bourde: De Pars au Tonkin, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 2000, tr. 18.
394


Chương VI. T h ư ơn g nghiệp
Bên cạnh khu vực phố phường sầm uất tập trung ở phía Đơng
thành phố, Hà Nội trong thế kỷ XIX cịn có mạng lưới chợ rải đều
khắp nội ngoại thành. Trong nội thành có 9 chợ lớn là chợ Cửa
Đơng, chợ Cừa Nam, chợ Huyện, chợ Bác Cử, chợ Bà Đá, chợ Ông
Nước, chợ Văn Cừ, chợ Mới. Ở ngoại thành tại các huyện có chợ

huyện, xã có chợ xã, chợ họp theo phiên thường kỳ và khơng trùng
nhau. Chỉ tính riêng chợ huyện, theo thống kê của sách Đại Nam
nhất thống chí, Hà Nội thời kỳ này có tới 34 chợ1.
Do điều kiện lịch sử, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận
lợi, hoạt động thương nghiệp của Hà Nội trong thế kỷ XIX vẫn
không ngừng phát triển. Nông lâm sản và các sản phẩm thủ công
ở khắp mọi miền đất nước theo các lái buôn đường dài đổ về Hà
Nội để rồi từ đây lại toả đi muôn nơi. Sự lun thơng hàng hóa chính
là mạch máu tạo nên sức sống cho thành phố lẽ ra vẫn phải là Đe
đô này.
Đà Nang
Vào thế kỷ XVI, XVII, khi đô thị cảng Hội An cịn đang phồn
thịnh, Đà Năng đã đóng vai trò quan trọng là một tiền cảng của Hội
An. Khi đến Hội An, các thuyền bè đều phải cập bến theo cửa biển
Đại Chiêm nhưng cửa biển này không thích hợp với các loại thuyền
có trọng tải lớn như thuyền của các nước phương Tây. Do có vị trí
địa lý thuận lợi như: cửa sông Hàn đố ra một vùng biến sâu được
che chắn bởi Hải Vân và dãy núi Phước Tường cùng mỏm Sơn Trà;
Đà Nằng cách Hội An khơng xa (khoảng 30km), lại có con sơng c ổ
Cị thơng với Hội An có thể dễ dàng chuyển hàng hóa từ thuyền lớn
sang các thuyền nhỏ chở đến Hội An hoặc chuyển hàng mua được
từ thương cảng Hội An về Đà Nằng. Vì thế người phương Tây khi
đến buôn bán ở nước ta đã đặc biệt chú ý đến hải cảng này. Việc
thu gom các loại hàng hóa cần phải có thời gian, do vậy vịnh Đà
Nằng chính là một địa điểm thích hợp và hết sức an tồn cho các
1. Đại Nam nhất thống chí, sđd.
395


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5


tàu thuyền phương Tây neo đậu: "Đó là một trong những cảng lớn
và vững chắc nhất được thấy... Nó rất sâu nên khi cần thiết phải di
chuyển các tàu bè vẫn yên ồn dù gió to bão lớn. Đáy biển chứa đầy
bùn nên bỏ neo rất bám "1.
Từ thế kỷ XVIII, khi hoạt động thương nghiệp ở Hội An bắt
đầu sa sút do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, vai trò
của cửa biển Đà Năng càng trở nên quan trọng. Các chúa Nguyễn
đã cho thành lập ờ đây các trạm thu thuế, kiểm sốt việc ra vào của
các tàu bn phương Tây. Tại đây đã có những kho hàng của các
lái bn phương Tây, hoạt động buôn bán trở nên tấp nập. Do có vị
trí đặc biệt trên con đường hàng hải Bắc Nam và quốc tế, Đà Năng
cịn có vai trị quan trọng về quân sự.
Đen thời Nguyễn, Đà Năng đã trở thành hải cảng duy nhất mà
các tàu Tây phương được phép cập bến để ngoại giao và buôn bán2.
Tại đây các vua triều Nguyễn cũng có nhiều cơng trình phịng thủ
bảo vệ bờ biển. Bộ mặt của một đơ thị ngày càng rõ nét với đường
phố khang trang. Khu vực làng Hải Châu là nơi tập trung các hoạt
động thương mại và dịch vụ. Khu vực chợ Hàn vốn là thương cảng
cũ nay được mở rộng thêm để triều đình lập nên những cơ quan
như Nha Thương bạc, Tàu vụ... để thu thuế và làm các thủ tục xuất
nhập cảnh.
Cũng như ở các đơ thị khác, Đà Năng có hệ thống chợ làng và
chợ liên làng. Chợ Hàn ở làng Hải Châu và chợ cá Thanh Khê là hai
chợ hình thành sớm nhất. Hai chợ lớn là chợ An Hải và chợ Hàn
thu hút dân cư của 6, 7 xã lân cận đến họp, đã từng có sự cạnh tranh

1. Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn, Nguyễn Văn Đăng dẫn theo: Le Séjour
en Indochine de Ư Am bassade de Lord M acartney (1793) - Revue
Indochinoise, 1924, sđd, tr. 87.

2. Dưới thời vua Gia Long tàu buôn các nuớc phương Tây có thể cập bến
một số ở cửa Thi Nại (Bình Định), Gia Định hay ở Huế nhưng từ thời
Minh Mệnh tàu thuyền phương Tây chi được đến cảng Đà Năng.

396


Chương VI. T hư ơng nghiệp
đến mức phải khiếu kiện nhờ chính quyền can thiệp1. Trong các
chợ người ta bán đủ các mặt hàng nhưng chủ yếu là hải sản, lâm
thổ sản và gia súc, đặc biệt đã có những quầy hàng tạp hóa cố định.
Các chợ mờ ra khơng chi nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của
người dân sở tại mà còn phục vụ cho một đổi tượng là binh lính
triều đình và các thuỷ thủ tàu viễn dương. Đà Nằng có ba nghề thủ
cơng chủ yếu là làm muối, nung vơi và đóng thuyền. Dân làng Nại
Hiên nổi tiếng với kỹ thuật làm muối bằng cách đun sôi cô đặc
nước biển trong các dụng cụ làm bằng tre, trát đất bên ngồi. Nghề
nung vơi bằng ngun liệu vỏ hàu, vỏ hến khá phát triển đáp ứng
nhu cầu xây dựng và phát triển đơ thị. Nghề đóng ghe bàu có từ lâu
đời tiếp tục phát triển nhằm phục vụ việc vận chuyển hàng hóa. Các
nghề đánh bắt thuỷ hải sản nước lợ, nước mặn cũng phát đạt ở các
làng Nại Hiên, Mỹ Khê, Hoá Châu.
Với lợi thế là một cảng biển ngoại thương chính thức, Đà Năng
đã phần nào tiếp thu được ảnh hưởng của hoạt động ngoại thương;
nhưng trong thực tế những cơ hội phát triển của đô thị cảng này bị
hạn chế rất nhiều bời chính sách ngoại thương khơng cởi mở của
chính quyền nhà Nguyễn.
Sài Gòn - Gia Định
N âm 1802, khi G ia L o n g lẽn ng ô i H o àn g đé, lập k in h đ ô ừ P h ú


Xuân, Sài Gòn - Gia Định chi còn là vị trí thù phủ của đất Nam Bộ
với tên gọi là Gia Định thành. Gia Định thành bao gồm 5 ưấn:
Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên, đến năm
1831 đổi thành 6 tinh. Sài Gòn nằm trong trấn Phiên An. Năm
1836, sau khi dẹp xong vụ nổi dậy của Lê Văn Khôi, vua Minh
Mệnh đã cho phá thành Bát Quái và xây thành Phụng, gọi là thành
Gia Định. Sài Gòn lúc này chi còn là vị trí thủ phủ của một tỉnh,
trực thuộc Kinh đơ Huế.

1. Đô thị Việt Nam thời Nguyễn, sđd, tr. 95.
3 97


LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5

Khi vai ưị chính trị giảm bớt, vị trí trung tâm kinh tế của Sài
Gòn vẫn tiếp tục phát triển. Các tác giả phương Tây đến Sài Gịn
vào thời gian này mơ tà về hai khu đô thị: "Cách nhau chừng 3 dặm
đường, Pingeh (Ben Nghé), nơi có dinh Thống đốc và thành trì,
nằm ở phía Tây sơng lớn, và Saigun (Sài Gịn) chính thức lại nằm
cạnh một rạch nhỏ chảy thông sang Pingeh. Saigun là địa sở quan
trọng cùa thương nghiệp và nơi cư trú của người Tàu và khách
thương khác, mặc dầu trên rạch gần đó chi có thuyền bè nhỏ tới lui
được, còn tàu thuyền lớn phải đậu cả lại Pingeh"1. Bộ mặt của đơ
thị Sài Gịn có thể được minh họa cụ thể hom khi các nhà nghiên
cứu quan sát các bản đồ được người Pháp vẽ vào thời Gia Long. Ở
phía Đơng của thành Gia Định, nghĩa là mặt trơng ra sơng Thị
Nghè và ở phía Nam tức mặt trông ra sông Bến Nghé là các dãy
phố phường với dân cư đông đúc và hoạt động buôn bán sầm uất.
Ngược lại, phía Tây và Tây Bắc của thành phố, phố xá và dân cư

thưa thớt hơn. Từ cửa Tây đi về phía Chợ Lớn lại là một khu đơ thị
phồn vinh tập trung người dân buôn bán và làm nghề thủ công. Dọc
theo con đường bộ và đường sông nối liền hai khu đơ thị là những
xóm làng trù mật2, về quy mô thành phố, các tác giả phương Tây
cũng cho rằng Sài Gòn ở thời kỳ này "đường phố rộng rãi quang
đãng, phố xá ngay hàng thẳng lối", mỗi khu đô thị Bến Nghé hay
Chợ Lớn đều "to bằng kinh đơ Băng Cốc của nước Xiêm".
Sài Gịn ở nửa đầu thế kỷ XIX có hai khu đơ thị và 40 thơn.
Dân số vào năm 1819 có khoảng 60.000 nguời. Dân cư Sài Gịn
chủ yếu sống bàng nghề bn bán và các nghề thủ cơng, ngồi ra
tại các thơn làng người dân vẫn sống bằng nghề nông. Phố xá có
những cửa hiệu lớn khang trang của người Hoa và người Việt bán

1. Joum al o f an embassy from the govem or general o f India to the corts o f
Siam and Cochinchina; exhibiting a view o f the actual stale o f those

kingdoms by John Crawfurd. London. Henry Colbum 1828. Dần theo
Trần Văn Giàu... Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 199.
2. Trần Văn Giàu, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, sđd, tr. 244.
398


Chương VI. T hương nghiệp
tơ lụa, đồ gốm, thuốc bắc và các loại lâm thổ sản, hàng gia dụng.
Phố xá khi xưa đã được Ngô Nhân Tĩnh (một thành viên trong "Gia
Định tam gia") miêu tả lại trong c ổ Gia Định vịnh:
Đông đảo thay phường Mỹ Hội,
Sum nghiêm bấy làng Tân Khai.
Ngói liễn đi lân, pho thương khách tồ ngang dãy dọc.
Hiên sè cánh én, nhà quan dân hàng van, hàng dài...'

Người Âu, người Phi và người Án Độ, người Cao Miên... cũng
có mặt ở thành phố này khiến cho nó mang dáng dấp của một đơ thị
quốc tế.
Thù cơng nghiệp ờ Sài Gịn khá phát triển với những cơng
xưởng cùa Nhà nước như xưởng Chu sư chun đóng các loại tàu
thuyền cho quân đội và các loại thuyền ghe vận tải. Xưởng nằm
trên bờ sơng Thị Nghè, có quy mơ lớn. Ngồi ra, Nhà nước cịn có
các xưởng đúc tiền, xưởng đúc súng, xưởng làm gạch ngói phục vụ
cho các cơng trình xây dựng. Thủ cơng nghiệp truyền thống cũng
vẫn tồn tại với nhiều nghề phong phú như nghề xay xát gạo ở Bình
Tây, nghề rèn ở xóm Mậu Tài, nghề dệt ờ xóm Lĩnh, xóm Lụa..ề
Từ cuối thế kỳ XVIII, tại Sài Gịn đã hình thành một mạng lưới
chợ lớn nhỏ. Các chợ đã trở nên nổi tiếng như chợ Cây Đa, chợ
bén Nghê, chợ Bén Sói, chợ tỉiều Khiển, chợ Thị Nghè, chợ Tân
Kiểng, chợ Bình An... có cả những chợ bán bn họp vào ban đêm.
Miêu tả cùa một người Nhật Bản vào năm 1794 cho thấy quang
cảnh của một phiên chợ Sài Gòn: "Hàng ngày từ sáng sớm cho đến
quá trưa, người ta mang những hàng hóa đến, người thì đội đầu,
người thì xách tay, người thì vác trên lưng. Họ tranh đua nhau bày
biện hàng hóa trong các gian hàng. Ở đây việc mua bán thật nhộn
nhịp khác thường. Chúng tôi lấy làm lạ khi thấy toàn là giới đàn bà
1. Vương Hồng
2004, ư. 99.

sển dẫn

trong: Sài Còn năm xưa, Nxb. TP Hồ Chí Minh,

399



LỊCH SỬ VIỆT NAM - TẬP 5

con gái buôn bán mà không thấy ở chợ một người đàn ông nào..."1.
Cảnh thuyền bè ngược xuôi, bán buôn tấp nập trên cảng Sài Gịn
cũng khiến nhiều người nước ngồi đến đây thực sự ngạc nhiên.
Bến cảng Sài Gịn khơng chi là điểm tập trung, ln chuyển bn
bán hàng hóa trong nước mà cịn là địa điểm giao thương của các
tàu nước ngồi. Các mặt hàng mà các lái bn nước ngồi như
Trung Quốc, Singapore, Xiêm... ưa chuộng là gạo, trầu cau, cá khơ,
đường, hạt tiêu, v.v...
Sài Gịn là một đơ thị trẻ có lợi thế lớn do nằm giữa một bình
ngun trù phú, là đầu mối giao thông thuận lợi về đường bộ,
đường sông và đường biển. Sinh ra trên một vùng đất mới, kinh tế
hàng hóa sớm phát triển, thành phố có sức vươn lên mãnh liệt với
hoạt động kinh tế sôi nổi, trở thành một đô thị lớn nhất ở vùng cực
Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX.

2.2. Chợ
Mạng lưới thị trường địa phương dưới dạng chợ đã có từ lâu
đời. Sự phát triển về mặt số lượng cũng nhu sự phong phú về mặt
hàng hóa của nó đã phản ánh sinh động hoạt động thương nghiệp
của nhân dân. Chợ địa phương là môi trường hoạt động của những
người buôn bán nhỏ, những thợ thù công và nông dân, họ đến đây
để mua nguyên liệu và đem bán những sản phẩm lao động của
mình. Các lái bn đường dài cũng đến đây vơ vét những mặt hàng
cần thiết. Song chủ yếu chợ vẫn phục vụ nhu cầu sinh hoạt mang
tính chất tự cấp tự túc của nhân dân địa phương.
Chợ thường được nhóm họp tại những địa điểm rộng rãi, bằng
phăng, có vị trí trung tâm của làng hay của một khu vực, thường ở

trên trục đường giao thông hoặc gần những địa điểm dễ tập kết và
giải toả hàng hóa như bến sơng. Hình thức chợ chùa (hay cịn gọi là

1. Kondo Morishega, Nam phiêu ký, 1794, B.F.E.O, 1993. Dần theo Nguyễn
Thừa Hỷ, Đô thị Việt Nam thời Nguyễn, sđd, tr. 165.

400


Chương VI. T h ư ơn g nghiệp
chợ Tam Bảo) họp tại sân chùa hoặc gần chùa, có từ thế kỷ XVII
đến nay vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phương. Thời gian nhóm họp
chợ cũng khác nhau. Có chợ họp hằng ngày, đó là loại chợ có ở các
làng, chợ họp theo phiên (một tháng vài lần vào những ngày chẵn
hay lẻ), đây là loại chợ vùng của cả xã, hoặc chung cho vài xã.
Thông thường các phiên chợ trong một điạ phương thường họp
luân phiên nhau.
Theo thống kê của sách Đại Nam nhất thống chí, ở các tinh
vùng đồng bằng Bắc Bộ ưong nửa đầu thế kỷ XIX có số lượng chợ
xấp xi bằng nhau: Hà Nội 34 chợ, Bắc Ninh 43 chợ, Ninh Bình 31
chợ, Hải Dương 31 chợ... Quy mô một chợ ở thời kỳ này như thế
nào? Hãy xem các sử gia triều Nguyễn mô tả về một chợ được mở
ra ở Hà Nội vào năm 1829: "Mờ chợ Nam Thọ ở phường Phúc
Tuy, chung quanh làm 100 gian quán, ờ trong các quán có 4 dãy
nhà, mỗi dãy 14 gian, ở giữa dựng đình Lạc H ội"1. Theo nhận xét
của sách Đại Nam nhất thống chí thì đây là một chợ lớn ưong tinh,
nhưng chắc chắn trong số 34 chợ của Hà Nội, chợ Nam Thọ cũng
không phải là chợ lớn nhất. Hoạt động thường kỳ của chợ này là
"1 tháng 6 phiên, nhiều người họp chợ, buôn bán đủ các mặt hàng"2.
M.D Chaigneau trong hồi ký của mình đã mơ tả chợ Được ờ Kinh đơ

Huế rất tì mì, nó mang đầy đủ những nét đặc trưng của một chợ địa
phương trong thế kỳ XIX: "Dân buôn đàn ông cũng như đàn bà đứng
hoặc ngồi xổm, bày la liệt tnrớc mật họ đù thử hàng và mời mợc
khách hàng bằng miệng, bằng tay, bằng mắt. Ở đây nhóm những
người đánh cá, da dẻ sám nắng, mặc áo chồng nâu, quần cộc... họ
đội nón và đứng đằng sau những thùng đầy cá tươi còn đang quẫy. Ờ
kia là những người bán thịt lợn tươi đang bán lẻ cho những người
mua thịt chín và thịt sống cịn chảy máu bày trên một mảnh ván
vng. Xa xa là những người hàng xén cùng với nhừng hũ muối,
1. Thục lục, tập II, sđd, tr. 547.
2. Đại Nam nhất thống chí, sđd, tập 3, tr. 189.

401


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 5

những lọ hạt tiêu, ớt hoặc hương liệu khác của họ; những người bán
hoa quả với những mâm tre đầy cam ổi, chuối, v.v..."1.

Anh: Phổ Chợ Bưởi xưa
Nguồn: Hà Nội - Tư liệu ảnh, Viện Thông tin Khoa học xã hội xuất bản,
Hà Nội, 2000.
Ở nư ớ c ta cho đ ến nử a đầu thế k ỷ X IX , các đô thị, phố, chợ,

quán... vẫn mang tính chất thị trường địa phương. Trên đà phát
triển của kinh tế hàng hóa các thị trường địa phương có xu hướng
ngày càng mở rộng; nhưng vẫn chưa thấy có biểu hiện của sự liên
kết, tập trung để tiến tới sự ra đời của thị trường cả nước. Điều
này chứng tỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ chưa phát triển đến mức địi

hỏi phải có sự hình thành một thị trường dân tộc - thị trường tư
bàn chủ nghĩa.

1. M.D Chaignenau, Souvenirs de Hue, Cochinchine, P.Imp xn, 271 p, sup. 163.

402


Chương VI. T h ư ơn g nghiệp
Bảng 39: Phố, chợ, quán
(Thống kê theo ghi chép cùa sách Đại Nam nhất thong chí)
Tên địa phương

Thừa Thiên

Phố

Chợ

12

61

Q n

Qng Bình

16

8


Hà Tĩnh

59

23

Thanh Hố

44

18

Qng Nam
Quảng Ngãi
Bình Định

32

11

22

15

Phú n

14

Khánh Hồ

Bình Thuận

7

Hà Nội

60

13
21

Ninh Bình
Hưng n
Nam Định

34
31

3

14

2

42

Hải Dương

Quàng Yên
Bắc Ninh

Thái Nguyên

9

4

31
14

7

1

41

1

11

18
38

2
2

4

Sơn Tây
Hưng Hoá


2

Tuyên Quang
Lạng Sơn

7

7

13

5

Cao Bằng

2

8

Hà Tiên

4

Biên Hoà

17

Định Tường

13


Vĩnh Long
An Giang
Gia Định

19

2

2

12
9
403


LỊCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 5

2.3. Các phường buôn
Trong hoạt động thương nghiệp của nhân dân ờ thế kỷ XIX có
một hiện tượng đặc biệt; đó là sự xuất hiện của các phường buôn.
Tục ngữ của ông cha ta có câu: "Bn có bạn, bán có phường"
dường như để nói về hoạt động của những phường bn này. Tài
liệu khảo sát thực tế mới chỉ cho thấy có 2 loại phường buôn1:
- Phường buôn bán nguyên liệu và thành phẩm của nghề thủ công.
- Phường buôn thực phẩm (thịt lợn).
Tại làng rèn Nho Lâm, một làng nổi tiếng về nghề rèn sắt lâu
đời ở Nghệ An có 3 phường buôn mang tên phường Vịnh, phường
Bèo và phường Hạng. Tên của phường chính là tên của khu vực
chợ mà phường đó được quy định hoạt động. Cả 3 phường đều

bn nguyên liệu của nghề rèn nhu than, quặng sắt,... và thành
phẩm của thợ thủ công Nho Lâm. Người buôn ở chợ nào thì vào
phường ấy, nếu khơng gia nhập phường sẽ bị phường vây hãm, làm
phá sản. Trong mỗi phường, ngồi những biện pháp đồn kết cịn
có những luật lệ nghiêm khắc. Đó là sự quy định về giá cả mua
bán, không cho phép bất cứ thành viên nào của phường vì mưu cầu
lợi ích riêng mà tự tăng hoặc giảm giá.
Ở vùng Chèm ven sông Hồng (Từ Liêm, Hà Nội) cũng có một
phường quang gánh gọi là phường Long Đằng. Phường buôn bán
song mây, sản xuất những đôi quang gánh bán ở Hà Nội và các
vùng lân cận. Mỗi tháng 2 kỳ, phường cử người ra bến sông Hồng
mua song, mây. Những người này có quyền đặt giá, thoả thuận mua
bán và chịu trách nhiệm phân phối đều cho các thành viên trong
phường, giá bán quang gánh tại các chợ gần, xa cũng được phường
quy định rõ ràng.
1. Tư liệu do GS. Phan Đại Doãn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội cung cấp.

404


Chương VI. T hư ơng nghiệp
Vùng xã Mao Điền (Thuận Thành, Bắc Ninh xưa) có một phường
bn thịt lợn. Thành viên của phường bán thịt khắp các chợ huyện
Thuận Thành và Gia Bình. Cũng như các phường bn khác, phường
thịt lợn cũng có quy định chặt chẽ về giá cả, địa bàn hoạt động và
các biện pháp tương ượ nhau khi gặp khó khăn1.
Các làng bn
Các làng bn đã ra đời và hoạt động từ thế kỳ XVIII ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Theo định nghĩa cùa các nhà nghiên cứu: "làng
buôn là làng trong khoảng thời gian dài hàng thế kỷ, đa số dân làng

lấy việc buôn bán làm nghiệp chính và nguồn sống chính cùa họ
cũng là do bn bán đem lại" . Có ba làng bn tiêu biểu phản ánh
hoạt động thương nghiệp của nhân dân đã được khảo sát đó là Đa
Ngưu, Báo Đáp và Phù Lưu.
Đa Ngưu là một làng thuộc huyện Châu Giang, Hưng Yên, làng
chuyên buôn bán thuốc Bắc, tồn tại cho đến những năm đầu của thế
kỳ XX. 70% suất đinh của làng tham gia bn bán và 2/3 dân làng
hồn tồn sống bằng nghề bn. Làng có vị trí thuận lợi, nằm trên
bờ sông Kim Ngưu - con sông nối liền Thăng Long - Hà Nội và
phố Hiến. Dân làng buôn các vị thuốc Bắc và cả nguyên liệu để bào
che thuốc. Nhiều người làm ăn phát đạt mở được các hiệu thuốc lớn
ở các tỉnh thành còn đại bộ phận thuộc dạng buôn bán nhỏ, cắp
tráp, quấy bồ đi khắp các địa phương vừa băt mạch kê đơn vừa bán
thuốc. Khi buôn bán kiếm được một số vốn, người Đa Ngưu lại về
làng tậu ruộng, làm nhà, họ vẫn luôn gắn bó với quê hương như
những người tiểu thương kiêm nơng dân.
Làng Báo Đáp ở Nam Định người dân có nghề buôn từ thế kỷ
trước. Người dân đi buôn ngụ cư ở nhiều nơi, mặt hàng buôn là
1. Trương Thị Yến, "Vài nét về thương nghiệp Việt Nam nứa đầu thế kỳ XIX",
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sù, số 6/1993.
2. Nguyễn Quang Ngọc, về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỳ XVIII,
XIX, Hội Sừ học Việt Nam, H„ 1993, ứ. 71.
405


LịCH SỪ VIỆT NAM - TẬP 5

thuốc nhuộm và vải, có người cịn kết hợp cả việc nhuộm th tại
các địa phương. Phần lớn các gia đình trong làng đều có đàn ơng đi
bn bán xa, phụ nữ ở nhà lo việc gia đình và làm thêm nghề nơng,

nghề thủ cơng... Người dân Báo Đáp có nghề bn khá lâu đời
nhưng đại đa số họ vẫn chi là những hộ nơng dân bn bán nhỏ, có
được đồng vốn lại quay về làng tậu ruộng rồi thuê người làm. số
người có vốn lớn để mờ mang kinh doanh tại các đô thị khơng nhiều.
Làng Phù Lưu có tên nơm là kẻ Giầu thuộc huyện Từ Sơn tình
Bắc Ninh. Vốn xa xưa đây là làng nơng nghiệp có vị trí ngay sát
đường quan lộ nối từ cửa ải Lạng Sơn ờ phía Bắc với Kinh đô
Thăng Long, trên một khu vực tập trung các làng làm nghề thủ
cơng. Do có vị trí thuận lợi nên từ thế kỷ XV làng đã nổi tiếng vì có
một chợ lớn, người dân khắp nơi mang hàng hóa đến trao đổi bn
bán sầm uất. Đến thế kỷ XVII, do sự tác động của kinh tế hàng hóa,
làng đã thực sự trờ thành một làng bn với tên gọi Thị thôn, một
trong những trung tâm buôn bán của vùng Kinh Bắc1. Chợ Giầu
làng Phù Lưu họp một tháng 6 phiên. Chợ có vài chục quầy hàng,
cửa hiệu cố định. Mặt hàng chính trao đổi tại chợ và còn mang đi
trao đổi ở khắp nơi là the lụa. Ngồi ra cịn có các mặt hàng thủ
cơng khác như đồ gia dụng, gồm đồ sứ, đồ đồng, chiếu, võng, đồ

nan, tre..., các loại công cụ sản xuất của nhà nông như cuốc xẻng,
cầy bừa... các loại lương thực thực phẩm như ngô, gạo, bún, bánh...
cũng được bày bán ở đây. Các lái bn ờ các tình thuộc đồng bằng
sơng Hồng như Hải Dương, Sơn Tây, Nam Định... và cả những lái
buôn đường dài ở các tỉnh miền núi như Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Cao Bằng... thường xuyên qua lại nơi đây. Theo số liệu điều tra vào
khoảng cuối thế kỷ XIX, gần 80% số hộ trong làng tham gia vào
các hoạt động bn bán, trong đó người phụ nữ đóng vai trị chủ
yếu2. Người dân Phù Lưu đi bn đi bán khắp nơi vẫn lấy đất quê
mình làm cơ sờ chính nên họ gắn bó chặt chẽ với q hương.
1. về một số làng buôn..., sđd, tr. 123.
2. về một số làng buôn..., sđd, tr. 126.

406


Chương VI. T hương nghiệp
II. NGOẠI THƯƠNG
1.

V iệc buôn bán giao dịch với một số nước láng giềng và

một số nước trong khu vực Đ ông Nam Á

Quan hệ ngoại giao buôn bán giữa nước ta với các nước láng
giềng và một số nước trong khu vực Đông Nam Á đã có truyền
thống từ lâu đời do điều kiện địa lý thuận lợi cũng như sự gần gũi
về chủng tộc, sự tương đồng về văn hóa. Hoạt động ngoại thương
được tiến hành theo hai tuyến: đường bộ và đường biển.
Bảng 40: Tiền thuế ở 7 trường giao dịch của tỉnh Bình Thuận'
T rirịng giao dịch
Húc Châm

Giang Mâu

Phan Lý

Mai Nương

Thị Nê

Thịi điểm


Tiền thuế (quan)

Trước năm 1853

1.315

Từ 1853 trở về sau

600

Trước năm 1853

2.250

Từ 1853 trở về sau

1.120

Trước năm 1853

3.635

Từ 1853 trờ về sau

1.800

Trước năm 1853

1.329


Từ 1853 trở vê sau

660

Trước năm 1853

1.045

Từ 1853 trở về sau

520

Trước năm 1853

417

Từ 1835 trở về sau

200

Hạ hàng phù

Trước năm 1853

416

Thượng hàng phù

Từ 1835 trờ về sau


200

Thơn Xích hậu

1. Chính sách thương nghiệp... Luận án đã dẫn, tr. 61.
407


×