PHĂN THỨ BA
VÂN HÓA
363
IX- ÃN, MẠC, ử, ĐI LẠI...
C âu h ỏ i 601: C h u yện ăn u ố n g tr o n g c u n g đ ìn h tr iề u đại
k h iế n ch o sử th ầ n N gô S ĩ L iên hạ b ú t “Vì th ế các vư ơng hầu
b ây giờ k h ô n g ai là k h ô n g h o à th u ậ n k ín h sơn, m à k h ơ n g có
lỗ i lệ c h v ì sự nh ơ n m ặ t k iê u că n g ”.
T rả lời: Đó là lời bình của sử gia Ngô Sĩ Liên khi chép về cảnh
cung đình T hăng Long thịi vua T rần Hoảng - tức T rần Thánh
Tông: “mỗi khi xong buổi chầu th ì vào trong điện và lan đình, cùng
nhau ăn uống, hoặc có kh i tối trời khơng về th i đặ t gối dài, chăn
rộng ngủ liền giường với nhau. Còn n h ư khi lễ lớn, chầu mừng, tân
khách, yến tiệc, th ì khơng p h â n biệt ngôi th ứ cao thấp. Vi th ế các
vương hầu bây giờ khơng ai là khơng hồ thuận kính sơn, m à
khơng có lỗi lệch vì sự nhơn m ặ t kiêu căng".
C âu h ỏ i 602: Thời T rần, ở b ến Đ ô n g của K inh th à n h có
đ iệ n “P h o n g T h ủ y”, nơi đ ể k h i xa giá đi ra trú ch â n ở đấy,
cá c qu an đưa đón . N h ư n g tê n d â n gia n , h ay tê n tụ c gọ i là
đ iệ n Hơ Trà (gọi ch è). V ì sao?
T rả lời: Theo sử cũ th ì mặc dù có tên là điện “Phong Thủy”nơi để vua trú chân... nhưng dân gian quen gọi là điện gọi chè, vì
thuở ấy dân T hăng Long, từ dần cho đến vua quan đểu có thói
quen dùng trầ u cau và chè xanh. Khi xa giá của vua đi ra, trú
chân ở đấy các quan dâng trầ u cau và chè.
364
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
C âu h ỏ i 603: “V ua tô i th u n g d u n g u ố n g rượu dưới trăng.
Đ êm tron g trẻo chư a đ ến lú c k h u y a k h o ắ t, tá m m ón báu
bày ra kh ắp bàn. Hũ rượu x u â n ró t đ ầy c h é n q u ỳ n h tư ơng”
Là cảnh ẩm th ự c củ a tr iề u đ ìn h nào?
T rả lời: Đó là một “Tiệc đêm ngắm non xa” của triều đình
nhà Lê thịi Lê Tư T h àn h (1442-1497) tức vua Lê T h án h Tông.
Nhưng, đấy không phải lần duy n h ấ t trong triề u đình Đơng
Kinh! Theo Thơ Lê Thánh Tơng thấy có những dịp vua tơi triều
đình thời ơng “Uống rượu vối khách”, “vừa uống rượu, vừa làm
thơ”, “thơ như rán g chiều n h ả óng ả”, “kẻ ngâm xen lẫn tiếng bình
ồn ào. Lúc bể tơi cúi đầu chào ra về, bóng tră n g trê n song cửa phía
đơng đã ló”. Khơng ít dịp, khi th ì “trong chén rượu anh vũ, tìn h
thêm cảm khái, người nghĩa sĩ, ấp ủ cái chí ngàn dặm, bũa lại “chủ
khách tra n h luận sôi nổi như sấm chuyển trong đêm, mà quên
phắt cả trông trong th à n h canh ba đã điểm”...
C âu h ỏ i 604: H ải T hượng Lãn Ô ng - Lê H ữu T rác từ n g
chép tớ i b ao n h iê u tê n lo ạ i m ứt có ở K inh đô?
T rả lời: Trong sách N ữ cơng thắng lãm , cụ H ải Thượng
(1720-1792) có h ẳ n mục riêng về loại m ứt, chép tới 30 tên loại
mứt: m ứt bí, m ứt th iê n mơn đơng, m ứt ngó sen, m ứt th a n h yên,
m ứt cam sành, m ứt chanh, m ứt quất, m ứt mơ, m ứt sấu, m ứt
khế, m ứt quả dầu dầu, m ứt củ cải, m ứt mướp đắng, m ứt hồng,
m ứt trá m trắ n g , m ứt dừa, m ứt quả lêm, m ứt hoa bưởi, m ứ t n ụ
bưởi, m ứt bưởi xanh, m ứt gừng, m ứt nhót, m ứt dứa, m ứt n h ãn ,
m ứt cư hiên, m ứt rẽ lan, m ứt mưốp hương, m ứt khoai lang, m ứt
cà pháo...
C âu h ỏ i 605: T rong tụ c ngữ, ca dao c ổ tr u y ề n c ủ a T h ă n g
L ong - Hà N ội có n h ữ n g câu về n ô n g sản , th ự c p h ẩm , d ặ c
sả n gắn với tê n làng, h o ặ c tê n đ ịa d an h khơng?
T rả lời: Vùng, xứ, q nào cũng có những câu tục ngữ, ca dao
365
Phần thứ ba: VĂN HÓA
cổ gắn những đặc sản (thực phẩm, món ăn, nơng sản...) vối những
tê n làng, tên xóm:
Xứ Nam (Hà Nam, Nam Định): “Rượu Vân La, cà Trác Bút,
bún Lộc H à”...,
Xứ Nghệ: “N h ú t T hanh Chương, tương Nam Đ àn”,
Xứ Quảng: “Nem chua Hòa Vang, bánh đỗ Hội An, khoai lang
T rà Kiệu, thơm rượu Tam Kỳ”...
N hưng chưa có vùng nào mà sô' lượng những câu tương tự lại
nh iều như ở Thăng Long - H à Nội!
C á c đ ặ c s ả n xư a
Đ ư ợ c n h ắ c đến qua
TT
C h ú th íc h /N a y th u ộ c
(a b c )
1
các câu
Bánh bỏng, kẹo, cốm, + Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
+ Tên nôm làng Kim Lũ -
Chè lam Lủ c ầ u
huyện T hanh Tri
+ Kim G iang, Đại Kim , quận
T hanh X uân
2
B ánh cuốn T h a n h Trì + T h a n h Trì có bán h cuốn + T ên làng th u ộ c huyện
T hanh Trì
ngon
+ P h ư à n g th u ộ c q u ậ n
H o à n g M ai
4
B ánh dì (dà y) Q uán
B ánh
G ánh
bánh dì Q uán G ánh
Bảnh tẻ Kẻ S o
cuốn
Thanh
Trì, + G á n h th u ộ c N hị K h ê T h ư ờ n g Tín
+ B ánh d à y làng Kẻ, bánh + So: tên nơm xã C ộng Hịa,
huyện H oài Đức
tẻ Kẻ So
+ Thóc Lại Yên, tiền Kẻ Giá,
cá Kẻ Canh, bánh dày làng
Kẻ, bánh tẻ Kẻ So
5
Bánh đ ú c Đ ơ Bùi
+ K hoai
lang
T riề u
bánh đ ú c Đ ơ Bùi
K húc, + T ên nôm của Y ên Xá T hanh Trì
+ Nay là 2 thơn thuộc xã Tân
Triều, huyện Thanh Trì)
6
Bánh đ ú c Làn g Tó
♦ Rượu hũ làng N gâu, bánh + Tên nôm làng Tả Thanh Oai,
đ ú c trâ u làng Tó
huyện Thanh Trì, có cầu Tó
bắc qua sơng Nhuệ
366
7
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
Bún sen T ứ Kỳ
+ Bún ngo n bún m át T ứ Kỳ + T ứ K ỳ (h a y Kẻ Lỷ) là m ột
P háp V â n cu a ốc đồn thì
th ơ n th u ộ c xã H oàng Liệt,
chẳng ngoa.
này là phường Hoàng Liệt H oàng M ai
8
Bưởi D iễn
+ C h ợ D iễn m ộ t th á n g sáu + V ù n g K ẻ D iễn gồm các
làng P hú D iễn, Đ ức Diễn,
phiên
Bưởi V à n g
trái
n g ọ t al
Đ ình
Q uán,
N gọc L ong,
q uên n h ớ về.
Kiều
Mai,
N g u yê n X á,
V ă n Trì
+ N ay th u ộ c P hú D iễn và
/
9
M inh K hai, huyện T ừ Liêm .
Cá, sâm cầm H ồ T ây + C á rô đ ầ m Sét, sâ m cầm + T h u ộ c q u ậ n T â y Hổ
Hổ Tây
+ Ối Q uảng Bá, cá hồ Tây
H àng Đ à o tơ lụa làm say
lò n g người.
10 C á rõ đ ầ m S ét
+ C á rô đầ m Sét, cá chép + Đ ầm th u ộ c làng S é t T h ịn h Liệt
đầ m Đ ại
+ C á rô đ ầ m Sét, cá chép + Nay thuộc phường Thịnh Liệt
+ Đ ại tứ c làng Đ ạ i Từ, xã Đ ại
sông Đ ơ
+ H uyện T h a n h Trì kia làng
T h ịn h
Liệt.
Đ ồn
cá
rơ
Kim ,
huyện
Thanh
Trì.
Đ ầm lốn ở bên làng g ọ i là
đầm Đ ại, còn gọi đ ầ m Linh
đầm S é t là ngon.
+ N hất béo n h ấ t bùi cá rô
Đ à m h o ặ c Lin h Đ ư ờng
Đ ầ m S ét
+ C á rô đ ầ m Sét, sâm cầm
Hổ T ây
+ Nước m ắ m kẻ Đ ô, cá rô
đ ầ m S ét
+ Rượu làng Mơ, cá rô đầm
S ét
11 C am C anh
+ C am
C anh,
hổng
D iễn, + T ên nơm chỉ làng Phương
cốm V ịng
+ Chẳng chua al gọi là chanh
Chẳng
ngọt al
gọi
cam
Canh chín vàng.
Ngọt thay cái quả cam tròn
Vừa th ơ m
còn ỏ C anh.
vừa m á t hãy
Canh
(xã
Xuân
Phương,
huyện
Từ
Liêm)
và
Vân
Canh (xã V ân Canh, huyện
Hoài Đức)
367
Phần thứ ba: VĂN HÓA
12 C h è vố i C ầu T iê n
+ C h è vối C ầu T iê n , bún + C ầ u T iê n trên đường Hà
Nội - V ăn Đ iển, ở địa phận
sen T ứ Kỳ
+ C ơm V ă n G iáp, tá p c ầ u
G iền, chè q uán T iê n , tiền
S é t - T hịnh
Liệt -
T h a n h Trì
+ Phường T hịnh Liệt.
T h a n h N ghệ
13 C h u ố i Sù
là n g
+ Tên
+ G iò C hèm , nem V ẽ,
chuối Sù
nôm
làng
Phú
Xá
huyện T ừ Liêm, nay thuộc
phường Phú Thượng, quận
T â y Hồ
14 C ốm V òng
+ T h ợ s ố m , cốm V ịng
+ T ên nơm thơn Dịch V ọng,
+ G ià n h C áo, g ạ o V ò n g
th u ộ c
+ Gắng công kén hộ cốm vòng
h u yệ n T ừ Liêm
xã
D ịch
V ọng,
Kén hồng B ạch h ạ c cho + N ay là phường D ịch V ọng,
quậ n C ầ u G iấy
lịng ai vui
+ Thái Đơ làm kẹo mạch nha
Kẻ V ò n g làm cố m đ ể mà
tiế n vua.
"B ằ ng vải, B ằng dưa, Linh + Bằng gọi tẳ t tên làng Bằng
15 Dưa làng B ằng Hạ
cua,
Tứ
bún”
(vả i
B ằng T hư ợng,
quả
dưa quả
B ằng Hạ, cua Lin h Đ àm
Củ
đậu
có
B ằng
Thượng
quận H ồng Mai
Dưa hấu B ằng Hạ đâu bì
được chăng.
+ T hơn V ă n ng ọ t nước nhãn
lồng
Trưa hè H oàng Liệt, B ắc
H ồng xem dưa
+ D ư địa c h í t h ế k ỷ X V của
Trãi.
n h ấ t th ố n g c h í
xó m
Hạ,
Bằng
tổng
Q u a n g Liệt - T hanh Trì
thiếu gì
N guyễn
2
Bằng
+ T h u ộ c phường H oằng Liệt,
và bủn T ứ Kỳ
+
Liệt,
Thượng,
Đại
Nam
th ế kỷ XIX
giải thích rõ hơn: "Q uả vải
các xã Trường Cát, Cát
Đơng đều có, duy các xã
Thanh Liệt và Bằng Liệt là
tốt nhất, có lệ thượng tiến"
J
368
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
X em th ứ tự s ố 28
16 Đ ậu M ơ
17 G ạo T á m M ễ Trì
+ C ốm V ò n g , gạo tám Mễ + Làng M ễ Trì, huyện Từ Liêm
Trì
T ương
B ần,
húng
Láng
cịn gì ngon hơn?
+ Mễ Trì thơm gạo tám xoan,
D ự hương, dé cánh th ó c
vàng nh ư tơ
18 G iò C hèm ,
+ G iò C hèm , nem V ẽ
+ T ên nôm của làng T h ụ y
P hương, huyện T ừ Liêm
19 Húng Láng
+ Dưa La, húng Láng, nem + T ên nôm của Y ê n Lãng
Báng, tương Bần
+ M ạ Đ ơ Bùi, m ùi kẻ Láng
gần
Bảo
K hánh,
th à n h T h ă n g Long
+ Cá kẻ Canh, hành kẻ Láng + N ay
+ Đi đâu mà chẳng biết ta
cửa
th u ộ c
phường Láng
T h ư ợ n g ,q u ặ n Đ ố n g Đ a
Ta ở kẻ Láng vốn nhà trổng
rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thìa là, cải cúc, đủ mùi
hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà
Bí đao, đậu ván, vốn nhà
trồng nên
Anh giúp em đôi quang tám
dẻ cho bền
Mượn người lịch sự gánh
lẽn kinh kỳ
+ Kẻ chơi m ột huyện T h a n h
Trì
M ọc thì g ạ o xáo, Láng th '
trồng rau
20 Hồng xiêm K ẻ Giàn
+ Hồng xiêm làng ‘G iàn, mũ + T ên nôm làng C á o Đ ỉn h ,
nan làng V ẽ
nay là m ộ t th ô n th u ộ c xã
X u â n Đỉnh
369
Phần thứ ba: VĂN HÓA
21
Khoai lang Triều Khúc + T iề n là n g M oc, th ó c làng
Nay thuộc huyện Thanh Trì
K hoang, khoai lang T riều
K húc, bánh đ ú c Đ ơ Bùi
22
K ẹo m ạch nha An Phú + An Phú có ruộng tứ bể + A n Phú, Đ ồi M ơn, Tiên
C ó ao tắ m m át có nghề
kẹo nha
Thượng
+ N ay th u ộ c phường N ghĩa
+ An Phú nấu kẹo mạch nha
Đ ô, quân c ầ u G iấy
Làng V ò n g làm cốm để
m à tiế n vua
23
N em Vẽ
+ Người ơi, người có nhớ quê + Tên nơm của xã Đơng Ngạc
GIỊ C hèm , nem V ẽ, quạt
lá đề n h ư xưa
24
N ước m ắ m K ẻ Đ ô
+ X e m th ứ tự s ố 10
+ Tên nôm của làng Q uỳnh
Đ ơ (T hanh Trì)
25 T á p cẩu T iên
+ C ơm V ă n G iáp, tá p c ầ u + X em th ứ tự s ố 12
G iền, ch è quá n T iên, tiền
T h a n h N ghệ
26
Ối Q u ả n g Bá
+ X e m th ứ tự s ố 9
+ Phường thuộc thôn Thượng,
huyện V ĩn h T huận
+ T h u ộ c phường Q uảng An,
quận T â y Hổ
27
Rượu Làng T h ụ y
+ D ư đ ịa c h í - t h ế k ỷ X V , + Gọi tắ t T h ụ y C hương, còn
Nguyễn
Trãi ghi:
phuờng
Thụy Chuơng nấu ruỢu ngon
là phường, sau đổi T hụy
Khuê, huyện Vĩnh Thuận.
+ Làng T h ụ y nấu rượu la đà + Phố T h ụ y Khuê,
cả đêm
28
Rượu Kẻ M ơ
quận T â y Hổ
+ Rượu Kẻ Mơ, cờ M ộ Trạch
+ Kẻ M ơ bao gồm H oàng
+ Làng M ơ cất rượu cay nồng
Mai, M ai Đ ộng, H ồng Mai
+ Cơm Mơ thịt nướng kho Tàu + Đ ịa
phận
Tương
anh say
quận Hai Bà Trưng
+D Ư đ ịa c h l - t h ế k ỷ X V ,
N guyễn
T rã i
đã
nhắc
đ ế n ngh ề là m rư ợu củ a
H o à n g M ai
M al,
các
Rượu M ơ em ró t cả bầu
Mai
phường
Đ ộng,
370
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HẢ NỘI...
29 Vải, nhãn, hồng của + Bằng vải, Bằng dưa, Lĩnh + Q u a n g
làng Q uang
cua, T ứ bún
(gọi tắt tên
làng
Q uang Liệt)
+ Ối Đ ịn h C ơng, nhãn lồng + Thanh Liêt, hện Thanh Trì
làng Q uang
+ V ải
ngo n
thì nhất
làng
B ằng. K h ắ p th à n h Hà Nội
hỏi rằ n g đâu hơn
+ ớ t c a y là ớ t Đ ịnh C ông
N hãn ngon là loại nhãn
lổng là n g Q uang
Còn sang bên Gia Lâm, với: cải Táo, cháo Dương, tương sủ i;.,
Qua Hoài Đức, Thạch ThâT, Phúc Thọ, Ba Vì, h ết nhớ “rượu
Đơng Lâm, bầu Tri Lai, khoai Tăng Cấu, dưa h ấu Yên Bồ, cháo
làng Ghề... đã lại “Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông v iê n ’...
Về Mỹ Đức với “R au sắng chùa Hương”...
T hật không thể nào kể hết!
C âu h ỏ i 606: Có th ể k ể được h ế t cá c m ó n quấ củ a n g ư ở i
Hà N ội không?
T rả lời: T h ật khó mà kể hết!
Trong sách Ba mươi sáu phô'phường, Thạch Lam (1910-1942)
đã dành hẳn một mục Quà H à Nội để kể về các món quà theo m ùa,
theo thời tiết, the'o giờ ăn, theo hình dáng, theo chun mơn... th eo
mặn, ngọt, theo... thơi thì đủ loại mà vẫn phải hơn một lần “V ẫn
quà H à Nội”, “Phụ thêm vào phở”, “Bổ khuyết”, “Vài th ứ n ữ a ”.
N hững phụ thêm , bổ khuyết ấy..., dài khơng kém chính v ăn m à
nào đã hết đâu. Đấy là thòi Thạch Lam, còn bây giờ đã có lu ậ n á n
thạc sĩ, tiến sĩ về “Quà H à Nội - Việt N am ”, vẫn e rằn g phải có h ẳ n
một ngành “khảo quả!” Bởi quà... tức là người.
C âu h ỏ i 607: “R ận rồ n g ” - m ột tro n g “T hư ơng n h ớ m ư ờ i
h a i” củ a nh à văn Vũ B ằn g về Hà N ội là m ó n gì?
T rả lời: Vũ Bằng dành h ẳn “tháng một thương về nhữ ng ngày
nhê bụng con rận rồng”, hay rõ hơn là truyền kỳ về con cà cuống.
Phần thử ba: VĂN HĨA
371
Khắp đồng bằng, hồ ao, sơng rạch Việt Nam ngày trước ln có
nhiều cịn cà cuống. H à Nội đầu th ế kỷ, trong ký ức của nhà văn Vũ
B ằng “cort đường từ Lò Sũ về Bờ Hồ... đến Bà Kiệu, lá rụng và cà
cuổng bay cứ rào rào làm lu cả bóng đèn điện ngoài đường”.
Tục truyền, người Việt từ sớm đã từng ăn cà cng và chính
T riệu Đà đã gửi cho vua H án món này với tên gọi “quế đố” - con
sâ u quế. Vuá H án cũng phải tấm tắc vì món thơm mùi quế. Nhưng
k h i có người bảo rằn g đó chỉ là giơng sơng ở dưới nước, vua H án
p h á n “Đà nói láo” (Đà chi cng dã), từ đó mà có tên “đà cuông” rồi
th à n h “cà cuông”.
Người H à Nội sành món trứ ng cà cuống: “những chùm trứng
x an h xanh, vàng vàng như hoa cà, hoa cải”, th ịt cà cuôhg “nhận
n h ận , bùi bùi, beo béo mà lại th a n h thanh... có th ể ăn cả trăm con
không biết chán”... Và hơn h ết là nưổc mắm thơm cà cuống ăn với
b á n h cuốn, cháo ám, chả...
Vì thế, “trên các đường phô" H à Nội, những người đàn bà đi bán
cà cuông, đội th ú n g ở trê n đầu, tay đung đưa đi trong im lặng
không rao một tiếng m à tài thế, nhà nào cũng biết để gọi vào
m u a ”. Cần gì câu, cà cuống “hữu xạ tự nhiên hương” mà!
C âu h ỏ i 608: V ù n g v e n Hồ T ây có lo ạ i quả gì gắn với hai
đ ịâ đanh?
T rả lời: Khơng ít những lồi hoa, lồi quả thường có kèm theo
địa danh như đào N hật Tân, n h ãn lồng Hưng Yên...
Hồng xiêm (tên khoa học là A chrassapota) có m ặt ở khắp nơi.
nhưng chỉ có ỏ H à Nội, vùng Ven Hồ Tây có loại quả gắn với hai địa
danh, đó là hồng xiêm X uân Đỉnh) ngọt, mịn, thơm đến thế.
C âu h ỏ i 609: S en và cốm ở Hà N ội có gì liê n quan?
T rả lời: Sen ở đầm, hồ, ao sạch, và đầu bảng là: Đây hoa thiên
lý, đây sen Tây Hồ.
Cốm được làm từ nếp cái hoa vàng, trồng trên các cánh đồng
bờ xôi ruộng m ật của Từ Liêm - cất lên tin h chất cốm Vòng.
372
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
Khơng biết từ bao giị h ạ t cốm xanh như h ạ t ngọc ấy lại được
người H à Nội đựng, bọc bằng chiếc “đĩa lá” men xanh để trở th àn h
th u H à Nội, “gió thổi m ùa th u hương cốm mới” (Nguyễn Đ ình Thi),
“m ùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa vỉa hè thơm bước
chân qua” (Trịnh Công Sơn).
C âu h ỏ i 610: Người xư a, như câu ca dao cổ, m u ơn “ch o
lịng ai v u i” đ ã “cô" cô n g ” là m v iệ c gì?
T rả lời: Có nhiều cách để vui lòng nhau, nhưng trong m ùa đi
chạm ngõ, xin cưới, “ra m ắt” của gái tra i mỗi độ th u về người xưa
đã hóa th â n trong câu ca dao để đưa ra chuẩn:
G ắng công kén hộ cơm Vịng,
Kén hồng Bạch Hạc cho lịng ai vui.
Cốm Vịng đã tin h thơm, nhưng phải có hồng Bạch Hạc mới
trọn vẹn th à n h cặp, th àn h mâm, h ài hòa sắc m àu, hương vị...
C âu hỏi 611: Các nhà văn Thạch Lam, Ngu yen Tuân, Vũ B ằng
dã đ á n h g iá ph ở Hà N ội n h ư th ế nào?
T rả lời: Khi viết về Quà H à Nội, Thạch Lam (1910-1942) cho
rằng: “Phở là một thứ quà th ậ t đặc biệt của H à Nội, không chỉ riên g
ở H à Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở H à Nội mới ngon. Đó là th ứ
quà suốt ngày của tấ t cả các hạng người, n h ất là công chức v à thợ
thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trư a và ăn phở tối”.
Vũ B ằng (1913-1984) từng viết hết phở gà đến phở bò của H à
Thành, đã n h ận xét: “Phở đơi vối một hạng người, khơng cịn là
một món ăn nữa mà là một thứ nghiện, như nghiện thuôc lào,
thuốc lá, trà tươi,...”.
Nguyễn T uân (1910-1987) khi đang ỏ tậ n th ủ đô P h ầ n L an,
nhớ về H à Nội đã viết hẳn m ột tùy b ú t Phở. Theo ông, phở: “m ột
miếng ăn kỳ diệu của tấ t cả những người Việt N am chân ch ín h ” và
theo ông dù có ăn phở ở đâu cũng “không bao giờ có th ể ngon được
bằng b át phở cổ truyền Hà Nội ăn ngay bên lò th a n đỏ lửa g iữ a
ngàn năm văn vật này”.
Phần thứ ba: VĂN HÓA
373
C âu hỏi 612: Q u á n b á n h tô m nổi tiế n g c ủ a H à N ội là ở đâu ?
T r ả lời: H à Nội có nhiều quán bánh tôm. Nhưng, từ những
năm 50 th ế kỷ XX trở lại, quán bánh tôm Hồ Tây dẫu không phải
là quán duy n h ấ t ở H à Nội, nhưng bánh tôm Hồ Tây đã đi vào kỷ
niệm của nhiều th ế hệ người H à Nội và người đến Thủ đô.
C âu h ỏ i 613: P h ạ m Đ ìn h H ổ (1768-1839) v iế t vể n g ư ờ i
T h ăn g Long u ố n g chè n h ư th ế nào?
T rả lời: Tác giả của Vũ trung tùy bút đã dành h ẳn một mục để
“cách uốhg chè” để viết về cách uống chè của người Thăng Long,
trong đó có cả ơng nữa:
“Ta sinh trưởng đương lúc th ịn h thòi đời c ả n h Hưng, trong
nước vô sự, các nhà quý tộc, các con em nhà q thích đều đua
chuộng xa xỉ, có khi m ua m ột bộ ấm chén đến vài mươi lạng bạc.
Thường có nhiều người đến chơi các hiệu chè, thăm dị các phơ"
bn, vác tiền h ế t quan này, chục khác để m ua lấy trà ngon. Lúc
ngồi rỗi, pha trà uống vối nhau, lại đánh cuộc xem chè đầu xuân
năm nay sớm hay muộn, giá chè năm nay cao hay hạ. Kẻ th ì ưa
th a n h hương, người thì thích h ậ u vị. Kén hiệu, trỏ tên m ua cho
được chè ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đ ặt tiền
m ua cho được hiệu chè C hính Sơn, gửi tà u buôn đ ặt m ua cho được
kiểu ấm chén mối lạ, cách hiếu thượng đến th ế là cùng cực”.
Khi Phạm Đ ình Hổ về dạy học ở thơn K hánh Vân, tổng Hà
Liễu “các học trị K inh th à n h cũng thưồng gửi quà về hỏi thăm , tuy
cơm rau nước lã không được dư giả cho lắm, nhưng chè tà u thì
khơng lúc nào thiếu”... Khi rả n h rỗi ông “thường cùng với người
đàn anh trong làng là Nho sinh họ Tô dạo chùa Vân, pha chè hg
nước, hoặc trèo lên cái gị ba tầng ở phía tây xóm ấy rồi múc nưốc
suối để pha chè uống chơi”.
Trong cách cảm của ông “chè th ú vị là ở chỗ cái tinh nó sạch
sẽ, cái hương nó thơm tho. Buổi sáng gió m át, buổi chiều tră n g
trong, với bạn rượu nàng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung
pha ấm chè ra thưởng thức để có th ể tỉn h được mộng trần , rửa
374
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
được lịng tục...”. Vì thế, ơng cho rằng: “nếm chè ở trong đám rụồi
nhặng bày ấm chén ở cửa chợ bụi bặm trong lúc ồn ào đinh óc, vơ
vấn rộn lọng, thì dẫu ấm cổ đẹp đẽ, chè ngon n g át lừng, ta chẳng
thây uống chè như th ế thì có th ú vị gì. Giá có gặp ơng tiên chè th ì
cũng cho lời nói ta làm phải”.
C âu h ỏ i 614: “Q uán ẹ ó c Ịiêu xiêu m ột câu thơ...”, q u á n ở
Hà N ơi thường bán gì?
T rả lời: “Q n cóc liêu xiêu một câu thơ” là lịi ca trong m ột
bài h á t về Hà Nội. N hưng H à Nội khơng gọi là qn cóc. Chỉ có
những quán dựng tạm bên các ngả đường H à Nội, nơị dễ d àn g
nhâm nhi chén rượu trắng, chén trà mà người H à Nội cũng n h ư
khách đến Thủ đơ rấ t khó qn.
C âu h ỏ i 615: B ia được sả n x u ấ t tạ i Hà N ội từ bao giờ?
T rả lời: Năm 1890 người Pháp đã xây dựng nhà máy bia tạ i
Hà Nội (chủ yếu là để phục vụ họ và nhũng công chức Việt N am
tai một sô" th à n h phô" lớn ỏ m iền Bắc). N hà máy bia mối đầu m an g
tên một người Pháp là Hommel, sản xuất chỉ 150 lít/ngày do 30
người lao động được Pháp đào tạo. Sau khi H à Nội dược giải p h óng
(1954), nhà máy bia đổi tên là N hà máy Bia H à Nội (Nay lạ T ổng
công ty cổ phần bia - rượu - nước giải k h á t Hà Nội).
C ậu h ỏ i 616: B iạ hơi Hà N ội x u ấ t h iệ n từ bao giờ?
T rả lời: Cho đến năm 1963, người H à Nội vẫn chỉ biết uống
bia chai!
Theo lời của chính những cán bộ công n h ân N hà máy Bia H à
Nội, thì: Đầu quý 1-1963, bia Hữu Nghị ra đời. Ngay sau khi s ả n
xuất xong, nhà máy đem bia lên báo cáo với Bác Hồ nhưng k h ô n g
gặp được Bác, đã gửi lại bác Vũ Kỳ lúc đó là th ư ký của Bạc Hồ.
Hai hôm sau, nhà máy nhận được thự của Bác. Trong th ư Bác Hồ
nói: “Hoan nghênh các chú đã sản x uất được sản phẩm m ang tìn h
hữu nghị, nhưng các chú nhớ đừng tự mãn, đồng thời không được
Phạn thứ bạ: VĂN HÓA
375
gửi sản phẩm biếu xén cho ai”.“Bia hơi H à Nội là loại gì mà phải
đựng vào thùng phuy?”. H iểu được ý Bác nhắc khéo về vấn đề bao
bì của bia H à Nội chưa được ổn, anh em trong N hà máy đã bàn bạc
với n h au sản xuất bằng được th ù n g đựng bia. Sau một thời gian
nghiên cứu, bằng nguyên v ật liệu sẵn có trong nước, anh em trong
N hà máy đã chế tạo th à n h cơng thùng đựng bia 50 lít.
M ột lần khác, Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuống thăm mỏ
than (Quảng Ninh). T hủ tướng hỏi anh em công nhân mỏ than:
Anh em có nguyện vọng gì khơng? Thưa Thủ tướng, chúng tơi chỉ
có nguyện vọng là được uống bia ạ! Sau lần ấy, Thủ tướng đã chỉ
thị cho N hà máy Bia Hà Nội phải sản xuất bia phục vụ cho anh chị
em công nhân vùng than. H ai th án g sau, N hà máy Bia Hà Nội đã
chế tạo ra thùng chứa xitéc loại 10.000 lít bia để trên xe tải chở bia
xuống vùng mỏ phục vụ cho anh em công nhân và dược anh em
công n hân vùng th a n đón n h ận với niềm vui sướng.
Đó chính là nền móng cho sự ra đời và phát triển của bia hơi
Hà Nội ngày nay.
C â u h ỏ i 617: Q u ả n g c ạ o m ó n gì H à N ội th ư ờ n g k è m th e o
“ 100% ” ?
T rả lởi: Hà Nội thời kinh tế th ị trường, quảng cáo đầy đường,
đầy phô"... Từ trục chính đường cao tốc Nội Bài về đã sừng sững
những đường, cột, những biển quảng cáo cao như nhà cao tầng...
đến những dòng quảng cáo mời chào, b ắt m ắt, bắt... tú i tiền người
tiêu dùng... mn hình, vạn trạng... Nhưng, dễ nhận ra một thứ
quảng cáo kèm theo dịng 100%, đó là bia hơi Hà Nội. Lạ thật! Hà
Nội tụ hội những quán bia đủ các hãng nhưng khơng có loại bia
hơi nào kèm với 100% như bia hơi Hà Nội,
Để bán được nhiều hàng hơn? C ũ rg có!... Nhưng hơn cả là vì
uy tín của bia hơi H à Nội... và hợp với “gu” của người thưởng thức.
C âu h ỏ i 618: T h ạ c h L am (1910-1942) k h i v iế t vể q u à H à
Nội đ ã d ù n g h ìn h ả n h gì d ể gọi c h ợ Đ ồ n g X u ân ?
Trả lời: Nếu dân gian đã từng gọi chợ Đồng Xuân là nơi “vui nhất”,
376
NGÀN NÄM LỊCH sử, VÄN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
“to n h ất” - một thòi của H à T hành, th ì trong Quà H à Nội, Thạch
Lam đã viết: Chợ Đồng X uân - cái “bụng” của th à n h phô", là nơi mà
những vật liệu cần cho các cao lâu từ các vùng quê và ngoại ô dồn
đến. 0 đây, chúng ta được thấy các thực phẩm cịn giữ ngun
hình trước khi biến th à n h các món xào n ấ u ngon lành dưới b àn tay
của những đầu bếp nổi danh hay các bà nội trợ. T ất cả của ngon
vật lạ các nơi đều đem đến để hiến cho sự thưởng thức sàn h sỏi của
người Hà Nội.
C âu h ỏ i 619: N gười T h ă n g L on g - Hà N ội từ n g đ ế n ch ợ
nào đ ể m ua h oa quả?
JTrả lời: H ãy tìm đến những câu ca dao xưa để đọc những chỉ
dẫn, chẳng hạn:
Bán m ít chợ Đông,
B án hồng chợ Tây.
Chợ Đông, tức là chợ Bạch Mã (nay là phố H àng Buồm), c ầ u
Đông (nay là k h u vực ngã tư phô" Ngõ Gạch và H àng Đường). S au
chuyển lên chợ Đồng Xuân.
Chợ Tây (nay là khu vực bến ôtô Kim Mã, sau chuyển về chợ
Ngọc Hà).
Đâ"y là những chợ “chuyên”, còn nếu như “vui chân đến chợ
Đồng Xuân”, qua thống kê của bài ca dao xưa:
Giữa chợ có anh hàng dừa,
H àng cam, hàng quýt, hàng dưa, hàng hồng...
Quá một chút nữa là những hàng lê, hàng sấu, hay bưởi, bòng...
C âu h ỏ i 620: Con cá lă n g củ a v ù n g V iệt T rì là m n ê n m ó n
ăn n ổi tiế n g n ào củ a v ù n g Hà N ội?
T rả lời: Có cá đổ vạ cho cơm. Cá là thực đơn phổ biến của
người Việt.
“H àng Cá” - một phơ" của Thăng Long cũng có từ lâu. N h ư n g
“Chả Cá” th à n h tên cả một phơ" đến làm nhịa n h ạ t tên phô" H à n g
Sơn trước đó, rồi lại nổi tiếng với cụ Lã Vọng tay xách cần, ta y xâu
cá bưốc ra từ văn học... như rủ, như mịi thì lại là sán g tạo - hay
Phần thứ ba: VĂN HÓA
377
đồng sáng tạo với ẩm thực H à Nội của gia đình họ Đồn gốc xứ
Đơng - cụ Trưởng M ền gần một th ế kỷ nay.
Cùng vói những bún, lạc rang, thì là, h àn h hoa,... mắm tôm và
không thể thiếu được tin h dầu cà cng, con cá lăng của vùng Việt
Trì qua bàn tay vàng của các th ế hệ đầu bếp tài hoa đã làm nên
món ăn tin h diệu của người H à Nội - chả cá Lã Vọng.
C âu h ỏ i 621: Thời T rần, tr o n g lần đ ến T hăng Long, sứ
giả nhà N g u y ên là T rần P h u đã gh i lạ i m ột tập quán của
người Hà N ội xưa. Đ ó là tậ p q u án gì?
T rả lời: Đó là tục ăn trầ u “người sang dùng ơng nhổ bằng
đồng có thằng nhỏ m ang kè kè theo bên cạnh, cả ngày tóp tép nhai
trầ u khơng ngót m iệng”.
Cũng là m iếng trầ u , nhưng người H à Nội lại cắt lá trầ u để têm
cách điệu th à n h hai cánh phượng, quả cau chỉ tước vỏ một nửa,
tiện chũm, bổ tư, bổ sáu rồi úp vào nhau, đặt trong cơi đồng bóng
sáng lộn. Trong bộ đồ ăn trầ u cịn có chiếc ống nhổ bằng đồng thau
đựng quết trầu.
C âu h ỏ i 622: Người con gái làn g rượu nổi tiến g của Thăng
Long - Hà N ội, k h i đi bán rượu đã k h u yến cáo điều gì?
T rả lời: Hãy nhố lời cô gái ấy:
E m là con gái Kẻ Mơ
E m đi bán rượu tình cờ gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Rượu lạt uống lắm củng say
Người khơn nói lắm. hết hay hóa nhàm !
Hố ra đâu chỉ vì lợi nhuận, chỉ cho một đòi!
C âu h ỏ i 623: Với Vũ B ằng - n gư ờ i con Hà N ội xa q,
những m ón gì là “m iế n g n gon Hà N ộ i”?
T rả lời: “M iếng ngon nhớ lâ u ” - như ông cha ta đã tổng kết.
378
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
Phải cách xa Hà Nội, với Vũ Bằng, phở bò, phở gà, bánh cuốn,
bánh đúc, cốm Vòng, rươị, gỏi, bún, chả cá, th ịt cầy, tiế t canh cháo
lòng... là “miếng ngon H à Nội”. Trong khi nhiều cái ngọt cái ngon
chỉ là đầu lưỡi, “đánh lừa ta và đem lại cho ta dư vị cay cay, đặng
đắng”, thì theo Vũ Bằng “dụy chỉ có m iếng ngon H à N ội là không
đánh lừa ai cả”.
C âu h ỏ i 624: “Ta ở tr o n g th âm cu n g , sưởi lò th a n th ú,
m ăc 'áo hồ câu (áo da cá o )”... là vị vua n à o tự k ể vể ăn ở củ a
m ình ở tro n g c ấ m th à n h T h ăn g Long?
T rả lời: Đó là câu của vua Lý N hật Tơn (Miếu hiệu là Lý
Thánh Tơng) - khi nói với tả hữu vào m ùa đông đúng dịp đại hàn
năm At M ùi (năm 1055) - cho thấy một nét về vua Lý ăn mặc th ế
nào ở Thăng Long.
C âu h ỏ i 625: Q ua co n m ắ t T rần P h u - sứ g iả n h à N g u y ên
san g T h ăn g L ong th ời T rần cho b iế t ngư ời T h ặn g L ong ăn
m ặc nh ư th ế nào?
T rả lời: Vào m ùa xuân năm Quý Tỵ (1293), Lương Tằng và
T rần Phu dẫn đầu đoàn sứ giả trên ngàn người n h à Nguyên đến
Thăng Long.
Trong thời gian 52 ngày lưu lại, những gì m ắt th ấy ta i nghe ở
Kinh đô Đại Việt đã được viên sứ giả này gửi gắm vào tập thơ
Giao Châu cảo của mình. Qua tập phóng sự bằng thơ này có th ể
thấy một sơ" cách ăn mặc của người Kinh kỳ Thăng Long thuở ấy:
Vua T rần búi tóc - bọc và buộc tóc bằng the, hai bên vấn tóc lộ
ra, xõa xuống gáy, vai.
Dân phần lớn đi đất, cũng có người đi dép da nhưng đến khi
đến cung điện của vua thì cởi ra. Mọi người đều mặc áo m àu đen,
cổ áo làm bằng the. Riêng đàn bà thì thêm miếng vải trắ n g rộng
khoảng 4 tấc (12-13cm) viền vào cổ áo. Đ àn ôưg cạo đầu, dùng
k h ăn xanh thẫm có một dây sắ t ghim vào để trù m đầu. M ặt trước
của khăn cao lên một thước (khoảng 3cm) gập cong xuống rồi dùng
Phần thứ ba: VÃN HĨA
379
dải buộc túm lại phía sau. Ngày thường ở nhà để đầu trần, lúc tiếp
khách mói đôi khăn. Người k h á giả, quan chức nếu đị xa có người
hầu đem khăn theo. Đ àn bà cắt tóc ngắn cịn khoảng ba tậc rồi
túm lại bc lên đỉnh đầu, uốn cong đi tóc rồi buộc lại giống cây
b ú t lơng. Người giàu có thể cài trâm đồi mồỉ, người thường dùng
trâm bóng bằng sừng hay xương. Nơ tì thì đóng khơ". Đàn ơng đều
xăm m ình bằng những nét chằng chịt, ngoằn ngoèo như trên trông
đồng. N hiều người xăm ở bụng chữ “nghĩa dĩ quên khu, hình vu
báo quốc” (Vì nghĩa quên th ân , báo đền ơn nước).
C âu h ỏ i 626: N gười n h à N g u y ên từ n g h ỏ i lạ i “ tô i ngh e
dồn rằn g T h ế tử - tứ c v u a Trần - người n h ẹ nhõm như th ầ n
tiê n có p h ải th ế kh ôn g?” là a i vậy?
T rả lời: Đó là câu chuyện xảy ra vào đời vua T rần M ạnh - tức
T rần M inh Tông năm 1314 sau ngày sứ nhà Nguyên sang Thăng
Long đọc quốc thư. Vua T rần M ạnh ban yến, Vua Trần mặc áo
tràn g vạt vằng là m àu vàng, đội mũ có Thao.
Sứ giả nhà Nguyên tấm tắc “nhẹ nhõm như người Tiên!”,
Khi sứ giả về nước, kể lại vẻ th an h tú của Vua. Đến viên sứ giả
lần sau của nhà N guyên sang, dò hỏi: Tơi nghe đồn rằng Thê tử có
vẻ người th a n h tú nhẹ nhõm như th ần tiên, có phải không?
Sứ th ầ n nhà T rần trả lời: Đ úng như thế, song cũng là tiêu biểu
cho phong th ái của cả nước vậy!
C âu hỏi 627: Trai gái xưa “May áo c h à n g c ù n g sóng áo em ”
bằng th ứ lụa vừa thanh, vừa bón g của làng nào ở Hà Nội?
T rả lời:
“L ụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng,
M ay áo chàng cụng sóng áo em ”.
Làng Trúc chính là làng Trúc Bạch, bên hồ Trúc Bạch nằm
trong vành đai dệt vải lụa tơ tằm nổi tiếng bên Hồ Tây từ Yên
Thái, Trích Sài, Nghi Tàm đổ lại.
380
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
Trong rấ t nhiều nơi dệt vải, dệt lụa nổi tiếng của Việt Nam,
của Thăng Long - Hà Nội chỉ có làng này do có lụa và nghề lụa mà
có tên hồ, tên làng
C âu h ỏ i 628: T h ăn g L ong xư a có b ao n h iê u p h ố (tên
phố) ch u y ên p h ụ c vụ ch o y, tr a n g phục?
T rả lời: N hững câu ca dao có thể vì bị câu thúc bởi vần vè, nên
chỉ mới kể ra những phố H àng Hài, H àng Giầy, H àng Nón, H àng
Bơng. Thực tế, ngồi những phơ" trên cịn có các phơ" như: H àng
Chỉ, Hàng Da, H àng Dép, H àng Đào, H àng Đẫy, H àng Lam, H àng
Lược, H àng Nón, H àng Q uạt, nghĩa là khoảng 1/3 các phô" “h àn g ”
chuyên lo chuyện mặc, chuyện “diện” của Thăng Long.
C âu h ỏ i 629: T h eo tiê u c h u ẩ n “đ à n bà m ă c y ế m h ở lư ờ n
m ôi x in h ”, người Hà N ội xư a từ n g đi sắm y ếm ở đâu?
T rả lời: B án m ít chợ Đơng,
B án hồng chợ Tây,
B án m ây chợ Huyện,
B án quyến chợ Đào.
Cứ theo lời bảng chỉ dẫn dân gian â"y tìm đến chợ H àng Đào tức phơ' H àng Đào để m ua quyến (một th ứ lụa mà sách A n N a m
chí nguyên tả là “thứ lụa trắn g đẹp như vẽ, khổ rộng đến 3 thước),
“vốn ấy là những thứ mặc thường của ta ”.
Đến H àng Đào, ở sô" nhà 38, tấm bia dựng năm 1856 cịn cho
biết rõ hơn ở đây có chợ bán yếm quyến (Quyến yếm thị) kề ngay
đình Đồng Lạc - nơi dựng bia.
Chiếc áo bôn dầy đã được nhắc đến trong nhiều câu ca dao của
người Thăng Long - Hà Nội:
- Thuyền anh đã cạn lên đây,
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.
- Đàn ơng đóng k h ố đuôi lươn,
Đàn bà mặc yếm hờ lườn mới xinh.
Phần thứ ba: VĂN HÓA
381
C â u h ỏ i 6 3 0 : P h ạm Đ ìn h H ổ th ư ờ n g n h ắ c đ ế n bao n h iêu
lo ạ i n ón ở T h ăn g Long?
T r ả lờ i: Mục Nón đội trong sách Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ
kể đến 13 loại nón, từ nón “tiêm quang đẩu nhược” giống như nón
khua, đầu nhọn làm bằng vỏ m ăng nứa mà bà con dân tộc đội, cịn
có đến 12 loại nón m à dân cứ các hạng ở Thăng Long cuối th ế kỷ
XVIII dùng như sau:
Tên nón
1
N goan xác
A i đ ộ i, p h ổ b iế n ỏ đ â u
M ềm giải, T a m giang
Vào
khoảng
năm
1775-1776
khi
P hạm Đ ình H ổ 7-8 tuổi, cá c ông già
thư ờng đội
2
Phương đẩu đại
N ón lá, ch ỗ đội đầu C o n nhà quan, học trị, các học hữu
hình vu ơ n g
- C o n gái, con trai, đàn ông, đàn bà ở
kinh kỳ
3
C ổ C hâu
N ón dâu
- Họ hàng nhà quan và các ơng già
- Người có tang 1 năm trỏ xuống có
th ê m quai m ây
4
Liên diệp
Lá sen
N gười lớn và trẻ con
5
T iểu liên diệp
N ón nhỡ khn
T rẻ con
6
X n lơi tiểu
N ón sọ nhỏ
Đ à n ỏng và đàn bà thơn q
7
T oan bì
N ón v ỏ bứa
Đ àn ông và đàn bà thôn quê
8
T rạo lạp
N ón ch é o vành
Lính tráng
9
V iên đẩu
N ón
N gười hầu hạ, vợ con lính tráng
Khua
- N hà sư, th ầ y tu
- S a u n ă m 1786, lính tráng bỏ nón
viê n cơ đ ể đội nón này
10 C ẩu diện
N ón m ăt lờ
- N gười có ta n g
1 năm trở xuống
b u ộ c th ê m sợi quai trắng
- N h à q u a n và người có quyền th ế có
ta n g
382
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
11 Xn lơi đại
Nón cạp
Người có tang
12 Viên cơ
Nón N ghệ
- N gười tro n g T hanh,
kiêu binh, kh oảng năm
Nghệ, quân
1782-1783
loạn kiê u b inh, cậy côhg làm càn,
nhiều người đội đ ể giống lính
- S a u n ă m 1786 lại bỏ, đội nón cẩu
diện
C âu h ỏ i 631: Đ ầ u t h ế k ỷ XX ở H à N ội từ n g p h ổ b iế n loại
giầy, d ẻ p , g u ố c n à o ?
T rả lời: Cụ H oàng Đạo Thúy (1897-1994) đã kể đến các loại
guốc, dép, giầy... mà cụ thấy, nghe kể lại ở H à Nội đầu th ế kỷ XX,
đó là:
Tên g u ố c,
TT
A i th íc h d ù n g
Đ ặ c đ iể m h ìn h d á n g
g ià y , d é p
1
G uốc N ghệ
Đẽo bằng g ố c tre, m ũi cong
lên, qu a i m ây
2
G uốc K inh
Đ ế lòng m ực sơn trắ n g m uốt, T ừ H u ế đ e m ra làm q u à thì
m ũi vó c hổng, thêu kim tu yế n q u ý hóa lắm
3
G uốc Sài G ịn
Nhẹ, gọn, xinh xắn, rẻ tiền, G ó t sen đi lách cá ch , vui tai
cá c cô rấ t thích đi
thấp, gọn
4
G uốc phi mã
T h e o kiểu g uốc Sài G òn cao T ộ t b ậ c là hiệu P h ú c M ỹ ở
lênh khênh
Q uán T hánh
K hông m ở rộng đ ư ợ c m ấy
vì khơng th u ậ n tiệ n
5
D ép m ột (a)
Một lần da trâu có quai ngang, T h ơ n g dụng n h ấ t vớ i các
có kh u yế t để cho ngón chân bà, c á c cơ làm ăn
cái vào. T iệ n , lại vững
6
D ép m ột (b)
C ũng là dép một, nhưng quai C á c bà hàng p h ố cũ n g đi
ch ữ "n h â n "
- hai
nhung có lót lụa
nét,
bọc
Phẩn thứ bá: VĂN HỎA
7
D ép cong
383
L à m b ằng 3, 4 lần da dầy, C á c bà m ua cho cá c em
đón g lại bằng đan h tre, mũi gái 15, 16 tuổi
cong, qu a i nhung. R ất nặng
8
G iày m õm nhái,
Đ ế da, rhũi nhung, th ê u hạt C ác bà bỏ ngay dép để đi
m õm ngoé
cườm
9
G iầ y da lộn
10
G iày G ia Đ ịnh
giày m õm ngoé
C ác ông đi ở nhà
M ũi b ằng da láng
Biểu tượng của người lịch
sự, các ông dận khi đi ra
đường
11
G iày “S áng đá"
C ác chú bồi bếp nhặt khi
T ây sang
12
G iầy Đ ơ C ulơ
13
G iầ y "ban"
Hai m àu
C ác ông
nghị, các quan
cho là sang nhất. Đi ăn cưới,
đeo bài ngà, ngồi xe song
1
14
m ã... giầ y ban nổi lắm
"H ài vă n " (a) "H ài
Đ ế vải bồi, m ũi thêu
C ác m ợ đi hàl m ỏ phượng
chỉ dùng trong ngày cưới
m ỏ phượng" (b)
rồi cất làm kỷ niệm
15
Hài S ảo
D ép bện rơm có quai gai buộc Lính thú đi đưịng đá khơng
vào chân
16
Hia
đau chân
C ác quan viên đi lễ, mua â
phố M ã V ĩ
C âu h ỏ i 632:
S o n g s o n g h a i c h iế c th u y ề n đ ìn h ,
Đ ầ u rồng, đ u ô i p h ư ơ n g đ ó n g đ ỉn h h a i h à n g .
M ộ t c h iế c em c h ở n ă m n à n g ,
H a i c h iế c em c h ở m ư ờ i n à n g ra đi.
Các cô gái Hà T h àn h lên th u y ề n d in h , th u y ền rồ n g di
dâu vậy?
T r ả lời: Tưởng như là cảnh đi thuyền. Mà thun đình,
thuyền rồng đi phượng hẳn hoi. N hưng, đó là đơi guốc một thời
xưa của các cơ, các bà ở Hà Thành!
384
NGÀN NĂM LỊCH sử, VĂN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
C âu h ỏ i 633: N gười H à N ội q u e n v ớ i m ũ b ả o h iể m ch o
người th a m g ia g ia o th ô n g t ừ b a o giờ?
T rả lời: Trên th ế giới, lịch sử ghi nhận m ũ bảo hiểm xuất hiện
cùng thòi với chiến tran h , nhằm bảo vệ phần quan trọng n h ất của
cơ thể là đầu trước những loại vũ khí như dao, kiếm, mác... Chiếc
mũ bảo hiểm dần dần thâm nhập sâu vào đòi sống, được phổ biến
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như hàng không vũ trụ , quân đội,
thể thao... người vào phân xưởng cũng đội mũ bảo vệ.
Tại Hà Nội cũng như ở Việt Nam, Nghị quyết 32/2007 ngày 296-2007 của Chịnh phủ về m ột số’ giải pháp cấp bách nhằm kiềm
chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, đã quy định:
a) Từ ngày 15-9-2007, người đi mô tô, xe gắn máy trên các quốc
lộ bắt buộc phải đội m ũ bảo hiểm.
b) Từ ngày 15-12-2007, người đi mô tô, xe gắn máy trê n tấ t cả
các tuyến đường b ắt buộc phải đội mũ bảo hiểm.
Từ đó đến nay, m ũ bảo hiểm trở th àn h “một p h ần tấ t yếu của
cuộc sông” người H à Nội!
C âu h ỏ i 634: T h ờ i Lý - T r ầ n , c ác v u a ở k h u v ự c n à o k i n h
th à n h ?
T rả lời: Thăng Long thời Lý - Trần về cơ bản có 3 khu vực: La
Thành, Long phụng th àn h (gọi từ đòi Trần) và Cấm Thành. Cấm
Thành chia làm 2 phần: trước và sau điện chính - nơi hội triều (Càn
Nguyên - thời Trần). Phía sau điện là quần thể kiến trúc phục vụ
cho sinh hoạt của vua và gia đình (hậu cung) nơi có nhiều cung, có
nhiều vườn cầy ăn quả, vườn hoa, hồ, ao, có cầu bắc qua làm nơi v u a
và cung nhân thưởng ngoạn. Vào đời Trần, có thể kể đến:
- Cung Lệ Thiên,Thưởng X u â n : Năm 1236, m ùa hạ, th á n g 6,
nước to, v3 trà n vào. Bấy giờ Hiển Hoàng Tri T h án h từ cung T rầ n
Liễu nhân nước to, đi thuyền vào chầu, th ấy người phi cũ của triề u
Lý liền cưỡng dâm ỏ cung Lệ Thiên. Đ ình th ầ n hặc tâu, vì th ế m ối
đổi tên cung Thưởng Xuân, giáng Hiển làm Hoài Vương; năm 1238:
tháng 7 nưốc to vỡ trà n vào cung Thưởng Xuân...
Phần thứ ba: VĂN HÓA
385
- Điện Song Quế, Điện Lạc T h a n h : H ai điện này cùng dựng vào
m ùa đông, th án g 10-1363: “cho khởi đào hồ ở vườn ngự trong hậu
Cung. Trong hồ xếp đá làm núi, bốn m ạch đều khai ngòi cho chảy
thông nhau. Trên bờ hồ trồng thông, tre và các thứ hoa thơm cỏ lạ.
Lại nuôi chim quý, th ú lạ trong đó. Phía tây hồ trồng hai cây quế.
Bên điện Lạc T hanh có hồ Lạc T hanh, lại đào một hồ nhỏ khác. Sai
người H ải Đông chở nưốc m ặn chứa vào đó, đem các thứ hải vật
như đồi mồi, cua, cá nuôi ở trong hồ. Lại sai người Hóa Châu chỏ
cá sấu đến th ả vào đó. Lại có hồ T hanh Ngư để th ả cá th an h phụ
(cá diếc). Đ ặt chức khách đô để trông coi”.
C â u h ỏ i 635: Có n g ơ i n h à ở T h ăn g L ong đời Trần, m à
“T ron g n h à k h ô n g n gày nào là k h ô n g m ở cu ộc h á t xướng,
làm trò, m à k h ô n g ai ch o là sa y đắm ... tộ t cù n g xa xỉ như
Q uách Tử N gh i m à k h ô n g ai c h ê ” là n h à củ a ai?
T rả lời: Đó là ngơi n h à của một trong những vị hoàng tử thịi
T rần Cảnh - H ồng tử, Tá T hánh Thái sư Chiêu Văn Vương T rần
N h ật D uật (1254-1331) - sinh ra và m ất ỏ Thăng Long, làm quan
trả i qua 4 triều, ba lần coi giữ trấ n lớn.
C â u h ỏ i 636: N hà c ủ a a i c h ỉ “hơn c u n g đất h ẹp nửa đầy
ga i” v ẫ n có b ó n g h o a n g h iê n g và o h iê n cửa?
T rả lời: Đó là câu thơ của Nguyễn Trãi trong bài Họa vần
Hồng mơn Thị Lang N guyễn Cúc Pha m ừng nhà mới của ông.
Nguyễn T rãi chỉ tả cảnh nhà mình: Chỗ quạnh chỉ hơn một
cung đ ất mà nửa đầy bụi gai, mừng được thơ mối để ghi chỗ ngồi.
Cong gạo nếp đong ln, rượu vợ nấu,...
Cịn qua thơ m ừng n h à mới ứ c T rai của Hồng mơn Thị Lang
Nguyễn Cúc Pha là Nguyễn Mông T uân (quê ở Vân Khê, Đơng
Sơn, T hanh Hóa, sống cùng thịi và đỗ Thái học sinh cùng khoa
năm 1400 vối Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn. Ông th am gia nghĩa quân
Lam Sơn khi cuộc k h áng chiến đang bước vào thời kỳ tổng phản
công, được Lê Lợi tin dùng vào việc văn từ. Dưới các triều Lê Thái Tổ,
386
NGÀN NĂM LỊCH sử, VÄN HÓA THĂNG LONG - HÀ NỘI...
Lê Thái Tông, ông đã cùng Nguyễn T rãi và Lý Tử Tấn làm giám
khảo các khoa th i Hội) thì cịn biết nhà của Nguyễn T rãi - vị Thừa
Chỉ của triều đình nhà Lê sơ ỏ Đơng Kinh vẻn vẹn ba gian, mà vẫn
có hoa và chứa đầy sách trê n vách!
C âu h ỏ i 637: N hữ n g n gôi n h à xư a th ư ờ n g th ấ p th o á n g
“bụ i h ồ n g h o a trú c, m ai lồ n g tră n g so i” tr o n g th ơ v ă n c ủ a
nhữ ng th i s ĩ nào?
T rả lời: N hững ngôi n h à xưa chỉ cịn th ấp thống trong thơ
văn. N hưng có điều là ngoại trừ những cung điện lâu đài của vua
chúa, quan sang, các ngơi n h à cịn được biết đến đều là nhà của th i
sĩ, nhà văn, và n h à nào cũng có cây, có hoa!
T hế kỷ XV, có ít n h ấ t vài ba ngôi n h à được phác họa bằng thơ.
Từ ngôi nhà của ứ c T rai vẻn vẹn “hơn cung đấ t hẹp nửa đầy g a i”
ven bờ Tơ Lịch.
Ngơi nhà dựng ở phía nam th àn h đã mấy m ùa xuân, của B ản g
nhãn Nguyễn N hư Đổ (1424-1525) có vườn thuốc, đ ấ t ra u lần lượt
mở mang, lối hẻm không ngại gắn liền với đường tía, giậu th ấ p
nhưng cách xa vởi bụi hồng. Ao hồ tạ n h mưa, ếch kêu vang tai; s â n
nhà có bóng m át, chim hót véo von, hoa Trúc sẵn đủ hứng th ú
th an h đạm. Mỗi buổi tan chầu ở triều đình về, vị Thượng th ư bộ
Lại, kiêm T ế tử u Quốc tử giám vui vẻ với “chim th i tiếng hót, cây
đùa bóng sân” quên cảnh bần hàn.
Hoặc đến hơn 10 năm ở đất Đông Kinh mà ngôi nhà ở phườ ng
Vườn Tỏi của Tiến sĩ, Phó Nguyên soái hội Tao Đ àn Sái T h u ậ n
(1441 -?) vừa có “Sốm theo c ử a Bắc chuông cùng dậy; Chiều đợi H ồ
Tây chim rủ về; Mây lượn trưốc hiên đầy cảnh phô", lại th êm “Có
trăng Hồ Tây, gợi tìn h cho thơ, có “Hoa cười, chim hót cảnh trà n
ngập xuân”...
N hà của Đ ặng M inh Bích - Tiến sĩ Thượng th ư bộ Lễ triề u Lê
Thánh Tơng ở phía đơng kinh th à n h cũng chỉ cỏn con “một c u n g ”
đất, vẫn “m ai lồng mai trắng, trúc m ừng gió đưa”.