Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Ngày 10-5-1972: Một ngày dài Không chiến - Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 80 trang )


NHÀ XUẤT BẢN MONG BẠN ĐỌC
GĨP Ý KIẾN, PHÊ BÌNH

V19
----------- 3100-2016
QĐND-2016


NGUYỄN CỒNG HUY

TO “S “Tc9 7 2

NGÀy DÀI KHƠNG CMlẾN

í

THU VIỆN
lCtíƠllG

L -

I
1

NHÀ XUẤT BẢN QN ĐỘI NHÂN DÂN
Hà Nội - 2016


Ln tưởng nhớ và kính cân nghiêng
mình trước anh linh của các p h i công đã


vĩnh viễn "xếp lại đơi cánh của m ìn h”
trong những trận khơng chiến, dũng cảm
hy sinh vì sự bình yên cho bầu trời và
m ặt đất thăn yêu của T ổ quốc Việt Nam!

5


j£ởi nẻ ỉ (tẩn
Trong suốt cuộc chiến tranh chống Không quăn
Mỹ đánh p h á ra miền B ắc Việt N am đã diễn ra rất
nhiều cuộc không chiến giữa m áy bay của Không
quản Việt N am và máy bay của Không quăn, Hải
quân Mỹ. Trong những cuộc không chiến ác liệt ấy,
có thắng, có thua và có cả những trận bất phân
thắng bại... Nhưng ngày 10-5-1972 là ngày chiếm
giữ nhiều kỷ lục nhất vì đó là ngày có nhiều trận
không chiến nhất, kéo dài nhất, ngày m à cả hai bên
có nhiều lực lượng tham chiến nhất, ngày có nhiều
chủng loại máy bay tham g ia nhất, ngày ác liệt
nhất, và theo thống kê của cả h ai p h ía thì là ngày
có sơ'máy bay bị bắn hạ trong các trận không chiến
cũng nhiều nhất...
Không quân Mỹ đã huy động 22 chủng loại với
hàng trăm máy bay. Không quân ta củng sử dụng
lực lượng của cả bốn Trung đồn Khơng qn tiêm
kích với tất cả các chủng loại máy bay tiêm kích đê
nghênh chiến. Các tài liệu của p h ía Mỹ gọi ngày
7



10-5-1972 là "Một ngày trong cuộc chiến kéo dài" cuộc chiến tranh trên khôn g ở m iền B ắc Việt N am
(One day in a long w ar - May 10, 1972, Air War,
North Vietnam). N goài ra, họ cịn chiếu trên kênh
truyền hình History C hannel (kênh chun về đ ề tài
lịch sử) một loạt phim về các trận khơng chiến ngày
10-5-1972 vói tiêu đ ề "Ngày đ ẫm máu" (The
Bloodiest Day).
Tác giả cuốn sách này là một trong s ố các p h i
công đã trực tiếp tham g ia chiến đấu trong ngày
hơm đó. Sau hơn 40 năm k ề từ kh i cuộc chiến tranh
kết thúc, nay có điều kiện nhìn nhận lại, tác g iả
muốn trình bày đê các bạn đọc hiếu rõ thêm về cái
ngày lịch sử ấy.
Xúi kính cẩn nghiêng m ình trước anh linh của
các p h i công đã "xếp lại đơi cánh của mình" trong
những trận khơng chiến ngày 10-5-1972 vì sự bình
yên của bầu trời và m ặt đ ấ t thân yêu của T ổ quốc
Việt Nam.
Xin cám ơn các đồng đội đã giúp đỡ, động viên
tác giả triển khai và hồn thành cuốn sách này.
Có thê trong q trình biên soạn cịn có những
thiếu sót. R ât mong được bạn đọc nhận xét, góp ý.
Trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ

8


CHUYỆN CỦA NGÀY HÔM TỈ2ƯỐC

Tuy cường độ các trận đánh của
Không quân và H ải quân Mỹ ra miền
B ắc có giảm , song căn cứ vào những dấu
hiệu căng thang từ cuối năm 1971 thì có
th ể đốn được năm 1972 sẽ là một năm
rất ác liệt, đặc hiệt là sau sự kiện "Mùa
hè đỏ lửa" ở Quảng Trị.
Có thể điểm qua tình hình năm 1972 như sau:
Trên chính trường Mỹ, năm 1972 Tổng thơng
Mỹ Ních-xơn tái tranh cử, chịu nhiều sức ép lớn
phải thực hiện lòi hứa trước cử tri Mỹ về việc rút
quân Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam trong
danh dự. Hơn ai hết Ních-Xơn (Nixon) hiểu rõ sức
ép này và ngay từ khi ngồi vào Nhà Trắng, đã phải
chuyển chiến lược can dự trực tiếp sang chiến lược
"Việt Nam hóa chiến tranh", thực chất là rút dần
quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam trong danh
dự, nhưng phải hỗ trợ quân sự cho chính quyền Sài
Gịn đủ sức chơng lại Qn giải phóng.
9


Với mục tiêu đó, qn sơ" từ hơn nửa triệu quân
lúc cao nhất, cho đến mùa xuân năm 1972, Mỹ chỉ
cịn để lại 95.000 qn đóng ở miền Nam Việt Nam.
Các đơn vị Khơng qn Mỹ đóng ở miền Nam Việt
Nam cũng rút xuống chỉ cịn ba phi đồn F-4 và một
phi đoàn A-37, với tổng số’ 76 chiếc máy bay.
Lực lượng Khơng qn Mỹ ở Thái Lan cũng chỉ
cịn 161 chiếc F-4, 52 chiếc "Pháo đài bay" B-52,

16 chiếc F-105.
Tại căn cứ trên đảo Guam, có 31 chiếc B-52.
Ngồi khơi trên Biển Đơng, Hải qn Mỹ vẫn
có hai tàu sân bay là ƯSS Coral Sea và uss
Hancock, mỗi chiếc chở 70 máy bay.
Tuy nhiên, chiến lược này của Mỹ bộc lộ một
điều rằng, tất cả hồn tồn khơng đạt được mục
đích đã đặt ra vì các vị trí chiến lược của chính
quyền miền Nam Việt Nam vẫn liên tục bị tấn
cơng. Phía Qn giải phóng rõ ràng đã chuyển
sang tổng tiến công cùng với sự chi viện rất lớn từ
miền Bắc, thơng qua "đường mịn Hồ Chí Minh".
Trước nguy cơ mất miền Nam Việt Nam, các thế
lực của "phái diều hâu" Mỹ đã gây áp lực cho Tổng
thống Ních-xơn buộc phải có hành động mạnh mẽ để
ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc Việt Nam và bảo
vệ chính quyền miền Nam Việt Nam.
Nhưng Tổng thống Mỹ đã trót hứa với cử tri về
kê hoạch rút quân rồi!
10


Tơng thơng Ních-xơn đau đầu trước sự đối mặt
nghiệt ngã, cố tìm lấy một giải pháp.
Trong cuốn hồi ký "No more Vietnam", Ních-Xơn
đã viết:
"Chỉ có hai địn chiến lược may ra mới có thể
cứu vãn được thất bại tại Việt Nam. Hoặc là ném
bom tổng lực hệ thông đê điều ở Bắc Việt Nam,
hành động có thể gây ra lũ lụt, giết chết hàng chục

ngàn dân thường, hoặc là chúng ta phải sử dụng vũ
khí hạt nhân chiến thuật giống như Tổng thông Aixen-hao (Eisenhower) năm 1954 (khi ông ta phải
cân nhắc sử dụng bom hạt nhân để cứu vãn sự thất
bại của Pháp ở Điện Biên Phủ). Tôi không nghiêng
về phương án sử dụng vũ khí hạt nhân và tơi cũng
kiên quyết khơng oanh kích hệ thống đê điều, cả
hai giải pháp ấy đều có thể gây ra phản ứng cả ở
trong và ngồi nước, phá hỏng chính sách đốì ngoại
của chúng ta trên tất cả các mặt trận... ".
Giải pháp thứ ba được đưa ra là ném bom ồ ạt
vào thành phô’ Hà Nội cũng bị Tổng thông Ních-Xơn
bác bỏ. Vậy lối thốt là ở đâu? Có thể tìm thấy ánh
sáng ở phía cuối đường hầm hay khơng? Câu hỏi
đặt ra thật khó có câu trả lời thỏa đáng.
Trong tình thế lúng túng, bế tắc như "gà mắc
tóc" ấy, ngày 4 tháng 5 năm 1972, Chủ tịch Hội
đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, Đô đốc
Tô-mátx Mo (Thomas Moore) đã đưa ra kế hoạch
11


"oanh kích các mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam và phong
tỏa bằng mìn tại các cảng biển của Bắc Việt Nam"...
Cùng ngày 4 tháng 5 năm 1972, Cô" vấn An ninh
Quốc gia Hen-ri Kít-xinh-giơ (Henry Kissinger)
sau khi tạm kết thúc các cuộc hịa đàm cùng ơng
Lê Đức Thọ tại Pa-ri mà chưa đạt được kết quả
như mong muôn, đã trở về Oa-sinh-tơn. Đồng thời,
cuộc gặp gỡ giữa Tổng thông Ních-Xơn với Tổng
Bí thư L. Bre-giơ-nhép (Brezhnev) tại Mát-xcơ-va

cũng bị thất bại. Ních-Xơn đã bị các tướng lĩnh của
"phái diều hâu" thuyết phục và đã chấp nhận
phương án phong tỏa bằng mìn tất cả các cảng biển
của Bắc Việt Nam nhằm ngăn chặn sự lưu thông
qua lại và các hoạt động của Hải quân Bắc Việt
Nam, cắt đứt mọi nguồn viện trợ từ Bấc vào Nam.
Các đường giao thông trên bộ cũng sẽ bị đánh phá,
cắt đứt với những khả năng lớn nhất. Không quân
và Hải quân Mỹ sẽ tiếp tục oanh kích các mục tiêu
quân sự trên đất Bắc Việt Nam.
Thực chất, đây chính là sự thất bại của chiến
lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và cùng với sự
lúng túng, Mỹ bắt buộc phải triển khai chiến lược
"tái Mỹ hóa một phần chiến tranh Việt Nam" một
cách bị động.
Để thực hiện ý đồ dùng lực lượng Không quân
và Hải quân bao vây, cô lập miền Bắc và chặn
đứng sự viện trợ từ ngoài vào cùng sự chi viện cho
12


miên Nam, Mỹ đã điểu động thêm hai tàu sân bay
cùng 58 tàu chiến thuộc Hạm đội 7 vào Vịnh Bắc
Bộ, nâng tổng sô" tàu sân bay của Mỹ ỏ khu vực này
lên sáu chiếc. Máy bay chiến thuật, ngoài hơn 100
chiếc F-4 thế hệ mới đã đóng quân sẵn tại Thái
Lan, Khơng qn Mỹ cịn điều động hơn 350 chiếc
F-4E từ căn cứ Bắc Ca-rơ-li-na và tồn bộ Khơng
đồn chiến thuật số’ 49 với 72 chiếc F-4D từ căn cứ
Niu Mê-hi-cô (New Mexico) đến căn cứ Ta-khơ-li

(Takhli). Vậy là tổng số máy bay chiến thuật đã
được huy động tới 1.077 chiếc và 200 máy bay
chiến lược B-52 (gồm 150 chiếc đóng tại căn cứ
Guam và 50 chiếc điều đến Thái Lan)...
Để tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần
này, Mỹ có những thay đổi về trang bị và thủ đoạn
tác chiến so vối cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất, trong đó nổi bật là sử dụng đồng nhất chủng
loại máy bay chiến thuật tham gia tiến công F-4
các loại c, B, J , R của Không quân và F-8, A-7 của
Khơng qn Hải qn, vũ khí khơng đối đất,
không đối không cũng được cải tiến, nhất là đưa
loại vũ khí chính xác đánh vào một loạt cầu cơng,
nhà máy, kho tàng chiến lược của ta. Tàu tên lửa
cũng được đưa lên rất cao, ngang với cửa biến Diêm
Điền, Thái Bình để từ đó khơng chế các máy bay
MiG ra hướng biển. Có những quả tên lửa từ hạm
tàu bắn vào tới gần Hải Dương khi máy bay MiG
13


cất cánh lên độ cao 4.000 mét. Đồng thời, Mỹ cũng
dùng biện pháp chế áp điện tử mạnh trên các tần
sô" hoạt động của ra-đa cảnh giối, dẫn đường, ra-đa
trên máy bay của MiG, ra-đa điều khiển tên lửa và
cả các tần sô”liên lạc đôi không của máy bay ta.
Về phía ta, tất cả đã sẵn sàng cùng với quyết
tâm giành thắng lợi trong những chiến dịch mang
tính chất quyết định. Sự chỉ đạo chiến lược cùng
các yêu cầu của Bộ Tổng Tư lệnh tối cao đôi với các

lực lượng trong đó Qn chủng Phịng khơng Khơng qn làm nịng cốt, phải chuẩn bị tốt tâm
thế, lực lượng và thế trận để sẵn sàng đánh bại mọi
đợt đánh phá của Không quân Mỹ vào miền Bắc
Việt Nam, đặc biệt là các đợt đánh phá bằng máy
bay B-52.
Các cơ quan, trường học, trẻ em lại tiếp tục sơ
tán khỏi Hà Nội và Hải Phòng (khoảng 50 vạn
người dân rời khỏi Hà Nội và 21 vạn người rời khỏi
Hải Phòng).
Ngay từ cuối năm 1971, các máy bay MỈG-21MF
đã được lắp ráp và các phi cơng của Trung đồn
Khơng qn tiêm kích 921 cơ bản đã hồn thành
chương trình bay chuyển loại sử dụng loại máy bay
này, sau đó, Trung đồn cơ động vào sân bay Thọ
Xuân - Thanh Hóa với nhiệm vụ chính là đánh
máy bay Mỹ ở vùng trời khu Bơn, đồng thời còn bổ
sung thêm nhiệm vụ đánh đêm.
14


Đầu năm 1972, thêm một Trung đồn Khơng
qn tiêm kích nữa ra địi. Đó là Trung đồn
Khơng qn tiêm kích 927, căn cứ chính đóng tại
sân bay Đa Phúc.
Vậy là đến năm 1972, Khơng qn nhân dân
Việt Nam đã có bốn Trung đồn Khơng qn tiêm
kích với ba loại máy bay tiêm kích chiến đấu là
MiG-17, MiG-19 và MiG-21.
Đó là chưa kể đến lực lượng Không quân ném
bom, vận tải qn sự và trực thăng...

Bố" trí vị trí đóng qn của các Trung đồn
Khơng qn tiêm kích như sau:
Trung đồn Khơng qn tiêm kích 921 sử dụng
máy bay MiG-21, đóng tại sân bay Thọ Xuân Thanh Hóa với nhiệm vụ đánh địch ở khu Bốn và
làm nhiệm vụ đánh đêm.
Trung đồn Khơng qn tiêm kích 923 lấy sân
bay Kép làm căn cứ, sử dụng máy bay MiG-17 làm
nhiệm vụ đánh địch, bảo vệ vùng trịi phía Đơng và
Đơng Bắc.
Trung đồn Khơng qn tiêm kích 925 đóng
qn tại n Bái, sử dụng máy bay MiG-19, có
nhiệm vụ đánh địch, bảo vệ vùng trịi phía Tây và
Tây Bắc.
Trung đồn Khơng qn tiêm kích 927 sử dụng
máy bay MiG-21, lấy căn cứ chính là sân bay Đa
Phúc, phôi hợp đánh địch cùng các Trung đồn
Khơng qn tiêm kích bạn, bảo vệ vùng trời Thủ đô.
15


Một sơ" tác giả Mỹ cho rằng, đến thịi điểm đầu
năm 1972, Khơng qn Việt Nam có 85 chiếc MiG-15
và MiG-17, 32 chiếc MiG-19, 75 chiếc MiG-21 (trong
đó có một sơ" là MiG-21 đời mới - loại MiG-2lF96 mà
phía NATO gọi là Fishbed J). Một tài liệu khác lại cho
rằng, Khơng qn Việt Nam có 265 chiếc MiG,
với 140 chiếc MiG-17, 31 chiếc MỈG-19 và 94 chiếc
MiG-21.
Lực lượng Phịng khơng cũng được bổ sung
thêm tên lửa SAM-2. Các sô" liệu do tình báo Mỹ

cung cấp cho rằng, tại thời điểm đầu năm 1972, lực
lượng tên lửa của miền Bắc Việt Nam có hơn 200
bộ khí tài tên lửa SAM, với 35 trận địa lớn cùng
hàng ngàn trận địa pháo Phòng khơng các loại bơ"
trí xung quanh thành phơ" Hà Nội và Hải Phịng.
Sau khi Tổng thơng Mỹ Giơn-xơn (Johnson)
buộc phải tuyên bô" kết thúc "Chiến dịch Sấm Rền"
và ném bom Hạn chê" từ vĩ tuyến 20 trỏ vào (giai
đoạn này được gọi là "Giai đoạn ném bom hạn chế")
thì Khơng quân ta tranh thủ những ngày yên tĩnh
ít ỏi trong chiến tranh, tăng cường huấn luyện để
nâng cao trình độ bay ngày, bay đêm, trình độ
đánh chặn trong thời tiết phức tạp... cho các phi
công, luyện tập các phương án dẫn dắt, công tác
hiệp đồng chiến đấu cho các thành phần trực ở sỏ
chỉ huy.
Như vậy, bưốc sang năm 1972, Khơng qn Việt
Nam đã sẵn sàng ở trình độ tơ chức và kỹ năng
16


chiến đấu cao hơn hẳn những năm trước. Lớp phi
công chúng tôi, tuy tuổi đời chỉ từ 24 đến 26 tuổi
với số giờ bay của mỗi người trên MiG-21 chưa quá
250 giờ nhưng cũng đã chuẩn bị trong tư thế như
những mũi tên đặt trên dây cung, chỉ chờ thòi điểm
lao về phía trước, lao vào những nơi hiểm nguy với
những trận không chiến ác liệt sẽ xảy ra trong năm
1972, năm có ý nghĩa quyết định đến cục diện
chiến tranh Việt Nam.

Tuy cường độ các trận đánh của Không quân
và Hải quân Mỹ ra miền Bắc có giảm, song căn cứ
vào những dấu hiệu căng thẳng từ cuốĩ năm 1971
thì có thể đốn được năm 1972 sẽ là một năm rất
ác liệt, đặc biệt là sau sự kiện "Mùa hè đỏ lửa" ở
Quảng Trị.
Để giải tỏa áp lực tấn cơng của Qn giải phóng
miền Nam trong chiến dịch hè năm 1972, Hoa Kỳ
quyết định mở "Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ", ném
bom miền Bắc Việt Nam, thả thủy lôi phong tỏa
cảng Hải Phòng nhằm làm kiệt quệ miền Bắc,
ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam, làm lung lay
ý chí chiến đấu của các cấp lãnh đạo và nhân dân
Việt Nam, cứu nguy cho chiến lược "Việt Nam hóa
chiến tranh" của Mỹ.
Tổng thơng Mỹ Ních-Xơn đã lên truyền hình
tun bơ" về tình hình chiến sự tại Đơng Nam A,
đưa ra các giải pháp cho.ịCUỘ<^£^ịện~vầrnọi: 'Tôi buộc
17


phải đi đến một tính tốn mà tơi sẽ nói ngay sau
đây. Tất cả các cảng biển của Bắc Việt Nam sẽ bị
phong tỏa bằng mìn để ngăn chặn lưu thông qua
lại và các hoạt động của Hải quân Bắc Việt
Nam. Các lực lượng Hoa Kỳ sẽ hoạt động trong
vùng thềm lục địa và vùng biển của Bắc Việt
Nam để cắt đứt mọi nguồn viện trợ... Mọi đường
tàu hỏa và giao thông sẽ bị cắt đứt bằng những
khả năng lớn nhất có thể, Khơng qn và Hải

qn tiếp tục oanh kích các mục tiêu quân sự
trên đất Bắc Việt Nam... ".
Chỉ 47 phút sau bài phát biểu của Tổng thơng
Ních-xơn, Lầu Năm Góc đã ban bố bắt đầu "Chiến
dịch Lai-nơ-bếch-cơ" (lúc đầu, nó được gọi là "Chiến
dịch Rolling Thunder Alpha, nhưng sau đó đổi
thành Lai-nơ-bếch-cơ 1).
Lai-nơ-bếch-cơ theo tiếng Anh là tên gọi các
cầu thủ chơi ở vị trí tiền vệ. Đấy là những cầu thủ
đóng vai trị rất quan trọng, đứng ngay sau các cầu
thủ ở vạch giữa sân, khi nhận được bóng là lập tức tổ
chức tấn cơng về phía sân đối phương. Vì Ních-Xơn là
fan hâm mộ sơ' một của bóng đá Mỹ nên ơng ta đã
đặt tên Lai-nơ-bếch-cơ cho chiến dịch có ý nghĩa
chiên lược quan trọng vối mong mn các Khơng
đồn máy bay Mỹ sẽ có những đòn đánh lớn vào
sâu lãnh thổ miền Bắc Việt Nam và kết thúc chiến
tranh có lợi cho cầ haỊ
»ú ĩpĩỉíà.
18


"Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1" (còn gọi là "Cuộc
hành quân Lai-nơ-bếch-cơ 1") mở đầu chiến tranh
phá hoại miền Bắc lần thứ hai (6-4-1972 - 15-1-1973)
được chia thành hai bưốc:
Bước một: (6-4 - 8-5) leo thang nhanh, đánh
phá ồ ạt bằng Không quân và Hải quân,
Bước hai: (9-5 - 22-10) phong tỏa tồn bộ các
cảng sơng, vùng ven biển miền Bắc Việt Nam bằng

thủy lôi, bom từ trường, kết hợp với đánh phá bằng
Không quân và Hải quân.
Trong chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1, Mỹ đã huy
động số lượng lớn vũ khí, kỹ thuật hiện đại (máy
bay ném bom chiến lược B-52, pháo hạm, bom la-de,
thủy lôi MK-52... ), tiến hành 44.000 phi vụ, ném
137.000 tấn bom xuống các mục tiêu quân sự và
dân sự, phá hủy nhiều khu dân cư, đường giao
thông, kho tàng, sân bay, bến cảng... theo các đợt:
đợt một mang tên "Chiến thuật nhảy cóc", đợt hai
là "Vùng 6", đợt ba là "Khơng kích mở rộng" và đợt
bốn là "Kéo giãn đối phương".
Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1 chính thức kéo dài
từ ngày 9 tháng 5 năm 1972 đến ngày 23 tháng 10
năm 1972 vói lực lượng tham gia chính là các phi
đồn máy bay thuộc Bộ Tư lệnh Khơng qn sơ" 7 và
Bộ Tư lệnh Đặc nhiệm 77 của Hải quân Mỹ. Tham
gia chiến dịch cịn có máy bay ném bom chiến lược
B-52 của Bộ Tư lệnh Không quân chiến'lược.
19


Có thể điểm lại sơ bộ từng đợt trong chiến dịch
này như sau: "Chiến thuật nhảy cóc" mở đầu chiến
dịch vào ngày 6 tháng 4. Không lực Hoa Kỳ huy
động hơn 150 lần chiếc máy bay, trong đó có 18 lần
chiếc máy bay B-52 phôi hợp với các pháo hạm ném
bom, bắn phá các kho tàng, chân hàng và trận địa
tên lửa của ta tại Quảng Bình, Vĩnh Linh...
Sang ngày 7 tháng 4, Không lực Hoa Kỳ tổ

chức nhiều trận khơng kích lớn vào các đơn vị
Phịng khơng của ta tại Vĩnh Linh và Quảng Bình.
Đợt tấn cơng đầu tiên của Không lực Hoa Kỳ kêt
thúc vào ngày 10 tháng 4.
Đêm mồng 9 rạng ngày 10 tháng 4, 50 lần
chiếc máy bay trong đó có 12 chiếc B-52 ném bom
khu vực Vinh - Bến Thủy.
Ngày 13 tháng 4, 64 lần chiếc máy bay cường
kích và sáu chiếc B-52 đánh cầu Hàm Rồng và sân
bay Thọ Xuân.
3 giờ sáng ngày 16 tháng 4, Không lực Hoa Kỳ
tổ chức một trận đánh quy mơ vào Hải Phịng, sử
dụng 261 phi vụ chiến thuật và chín phi vụ B-52
giội bom xuống thành phơ".
Trong các trận đánh vào tháng 4 năm 1972 ở
miền Bắc, Không quân Mỹ sử dụng phổ biến các
loại máy gây nhiễu điện tử có cơng suất lớn: ALQ
gây nhiễu ra-đa điều khiển tên lửa đất đối không,
ALR-18 gây nhiễu ra-đa của MiG-21, ALQ-76 và
20


QTR-13 gây nhiễu ra-đa pháo Phịng khơng... Các
máy bay thế hệ mới được sử dụng có F-4D và E
thay cho F-4C, F-105G thay cho F-105F, Ạ-6 và A-7
thay cho A-4. Các kỹ thuật điều khiển vũ khí hiện
đại có hệ thông điều khiển ném bom bằng la-de
ZOT và KNIGHT. Các loại tên lửa chống ra-đa mới
cũng được đưa vào sử dụng như AGM-78, AGM-88.
Về chiến thuật, Không quân Mỹ không leo

thang theo từng địa điểm từ Nam ra Bắc mà đánh
theo lối "nhảy cóc" từ Quảng Bình ra Vinh, Thanh
Hóa ( bỏ qua Hà Tĩnh) đến Hải Phòng, Hà Nội (bỏ
qua đồng bằng Bắc Bộ).
Từ ngày 6 tháng 4 đến 8 tháng 5, Không quân
và Hải quân Mỹ đã không kích 857 điểm trên miền
Bắc, trong đó có 345 mục tiêu giao thông, 215 mục
tiêu dân sự, 85 mục tiêu quân sự.
Sáng ngày 9 tháng 5, Phân hạm đội tuần dương
và khu trục sô" 11 thuộc Hạm đội 7 bắt đầu chiến
dịch rải thủy lôi ngăn chặn, cô lập bờ biển miền Bắc
Việt Nam với 7.963 quả ở 43 khu vực bến cảng, cửa
sông và mười tỉnh ven biển từ Quảng Bình đến
.Quảng Ninh, tập trung nhiều nhất ở các khu vực
Hải Phịng, Cửa Hội, Hịn La và cửa sơng Gianh.
Về "vùng 6" - đó là mật danh của Khơng quân
Mỹ chỉ không phận Hà Nội và các vùng lân cận có
bán kính 50 dặm. Ngày 10 và 11 tháng 5, Không
quân Mỹ tổ chức các trận đánh quy mô lớn vào Hà
Nội và các vùng lân cận quanh Hà Nội.
21


Song song vối cuộc khơng kích vào Hà Nội,
Khơng qn Mỹ cịn tổ chức các đợt tấn cơng vào
các đầu mối giao thơng quan trọng ở phía Nam
đồng bằng Bắc Bộ.
Đầu tháng 7 năm 1972, Không quân và Hải
quân Mỹ tổ chức sáu trận đánh lớn vào Hà Nội.
Về đợt "khơng kích mở rộng": Từ tháng 8 đến

tháng 9 năm 1972, Không quân Mỹ giảm bớt cường
độ và các đợt đánh phá vào "vùng 6" và mở rộng
đánh phá các tuyến giao thơng quan trọng ở phía
Bắc, phía Nam của Hà Nội (Quốc lộ 1) và phía
Đơng (Quốc lộ 5, Quốc lộ 10).
Trọng điểm khơng kích trong thời gian này là
các cầu, phà đầu mơi (sơng Hóa, Bắc Giang, Đáp
Cầu, Tân Đệ, Phú Lương, Ninh Bình, Hàm Rồng... ),
các chân hàng, kho hàng (Hải Phịng, Đồng Mỏ,
Đơng Anh), các trận địa tên lửa Phịng khơng, các
sân bay, các nhà ga đầu mối trên các tuyến đường
sắt Hà Nội - Thanh Hóa - Vinh, Hà Nội - Đồng
Đăn£, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Yên Bái và các
kho xăng dầu.
Trong đợt khơng kích "mở rộng" này, vào cuối
tháng 9, Không quân Mỹ điều hai Đại đội gồm
48 máy bay cường kích F-111A thuộc Liên đội
Khơng qn chiến thuật số’ 47 đến căn cứ Ta-khơ-li
(Thái Lan) có nhiệm vụ phơi hợp với các máy bay
tầm thấp A-6, A-7 của Hải qn để tiêu diệt các
trận địa tên lửa Phịng khơng SAM...
22


Đến "đợt kéo giãn đối phương".
Ngày 8 tháng 10, tại Hội nghị Pa-ri, phía Việt
Nam đưa ra "Dự thảo Hiệp định hịa bình". Phái
đồn Mỹ đã cùng thảo luận, chỉnh sửa dự thảo này
trong ba ngày và đi đến thỏa thuận sẽ ký tắt Hiệp
định vào ngày 23 tháng 10 tại Hà Nội, ký chính

thức vào ngày 26 tháng 10 tại Pa-ri. Trước đó Mỹ
đã chấm dứt ném bom miền Bắc từ ngày 18 tháng
10. Ngày 20 tháng 10, Mỹ đề nghị lùi thòi gian
biểu lại năm ngày. Ta chấp nhận. Đến ngày 23
tháng 10, Tổng thơng Ních-Xơn tun bơ" đơn
phương ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam nhưng
không phải là tất cả mà chỉ từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Cùng ngày, Tổng thơng Ních-Xơn cũng gửi cơng
hàm cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề nghị có
thêm một cuộc gặp nữa ở Pa-ri vì có nhiều vấn đề
kỹ thuật xuất hiện. Vấn đề đó chính là bơn điều
kiện mà Tổng thơng Nguyễn Văn Thiệu địi phải
đáp ứng để ký kết hiệp định:
1. Khơng có Chính phủ liên hiệp.
2. Qn miền Bắc phải rút khỏi miền Nam.
3. Tơn trọng tính trung lập của khu phi quân sự.
4. Giải quyết những bất đồng chính trị cịn lại giữa
hai miền mà khơng có sự can thiệp của nước ngoài.
Từ ngày 23 tháng 10, Không quân Mỹ tập
trung đánh phá các tuyến giao thông ở các tỉnh từ
23


Thanh Hóa trở vào. Các khu vực trọng điểm: Tân
Kỳ, Triều Dương, Đô Lương (trên tuyến đường 15)
thường xuyên bị B-52 oanh kích.
Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Phịng
khơng - Khơng qn Qn đội nhân dân Việt Nam
đã phải đứng trước hai sự lựa chọn, hoặc co các đơn
vị tên lửa về quanh Hà Nội và Hải Phòng, hoặc

phòng thủ Hà Nội từ xa. Cuối cùng, việc điều động,
sắp xếp lại lực lượng đã diễn ra với các biện pháp
điều động binh lực Phịng khơng.
Về hình thức, có vẻ như phía Mỹ đã đạt được
mục đích kéo giãn đốĩ phương - giãn các lực lượng
tên lửa Phịng khơng của Quân đội nhân dân Việt
Nam ra xa khu vực Hà Nội và Hải Phịng.
Cũng trong thời gian này, Khơng quân Mỹ một
mặt tiếp tục oanh kích các mục tiêu đường giao
thông, nhà ga, cầu phà, bến cảng, kho hàng...
ở phía Nam vĩ tuyến 20, mặt khác, tích cực chuẩn
bị cho chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 2.

24


NGÀY DẢI KHÔNG CHIẾN
Chỉ 47 phút sau hài phát biểu của Tổng
thống Ních-xơn, vào lúc 9 giờ sáng ngày 9
tháng 5 năm 1972, Lầu Năm Góc đã phát
lệnh bắt đầu "Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1".
Đó chính là sự khởi đầu cho những trận
không chiến ác liệt của tháng 5 lịch sử.
Chuẩn bị bước vào Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1,
Không quân và Hải quân Mỹ đã tiến hành níột loạt
các biện pháp nhằm nâng cao khả năng chiến đấu
của các đơn vị sẽ tham chiến ở miền Bắc Việt Nam.
Điển hình ngay từ đầu là các khóa huấn luyện theo
chương trình nâng cao cho các phi công Mỹ, đặc
biệt là các phi công của Hải qn (gọi là chương

trình TOP GUN). Sau khóa huấn luyện này, các
phi công Mỹ rất muôn thử sức vối các phi công MiG
của miền Bắc Việt Nam để đánh giá kết quả qua
q trình huấn luyện nâng cao.
Ngồi chương trình nâng cao trình độ chiên
đấu cho các phi công, các máy bay chiên đấu của
25


Không quân Mỹ cũng được trang bị loại tên lửa mối
AIM-7E-2 Sparrow và AIM-9G Sidewinder (tiếp sau
đó là phiên bản cải tiến AIM-9J). Trên các máy bay
F4-E cũng được nghiên cứu, lắp thêm bộ phận "cánh
tà trước" (Leading edge Slats on the Wing)
để tăng tính năng khí động học khi cơ động ngang.
Khi đã được lắp "cánh tà trước", những chiếc F-4
trở nên nguy hiểm hơn vì chúng vịng mặt bằng rất
gấp và khơng bị mất tốc độ. Chúng có thể quần
nhau trong các trận không chiến ở mặt phang
ngang khơng kém cạnh gì MiG-17 và MiG-19. Ngồi
ra, trên một số máy bay F-4 còn được lắp cả hệ
thống tác chiến điện tử AXP-80 "Electronic Device
code-named Combat Tree" có khả năng thu được
tần số thu phát của hệ thông phân biệt địch ta
SRO-2 và SRZO-2 cùng với hệ thống COD-57 của
các máy bay MiG.
Hệ thơng AXP-80 Combat Tree có khả năng
nhanh chóng xác định thịi điểm cất cánh và vị trí
của các máy bay MiG. Nó đã trợ giúp cho các phi
công Mỹ rất nhiều' trong các cuộc đụng độ với phi

công Việt Nam.
Chiến thuật và thủ đoạn đánh phá của Mỹ
cũng thay đổi. Không quân và Hải quân Mỹ áp
dụng mọi thủ đoạn trong gây nhiễu điện tử, sử
dụng các vũ khí cải tiến, bom thơng minh: bom dẫn
đường la-de, bom dẫn bằng quang học - điện tử...
rồi sử dụng hệ thơng nhiễu tích cực, nhiễu tiêu cực
dày đặc.
26


Để đối phó vối các máy bay tiêm kích của Việt
Nam, chúng tăng tỉ lệ yểm trợ trong đội hình, cứ
một chiếc máy bay ném bom thì phải bơ' trí hai, ba
chiếc tiêm kích đi bảo vệ cả khi bay vào đánh phá
và khi thốt li khỏi trận oanh kích bay ra. Đội hình
bay cũng thay đổi: sử dụng đội hình nhỏ hơn và
bay vào từ nhiều hướng khác nhau với các độ cao
khác nhau...
Với những sự chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, Mỹ
tin tưởng sẽ tiến hành chiến dịch một cách suôn sẻ.
Ngày 10-5-1972 là ngày đầu tiên bước 2 của
- "Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1".
Vào nửa đêm ngày 9 tháng 5 năm 1972, rạng
sáng ngày 10 tháng 5 năm 1972, sáu chiếc tàu chiến
của lực lượng đặc nhiệm Hải quân Mỹ do Chuẩn
Đô đốc Uy-li-am Mách (Wiliam Mack) chỉ huy với
đầy đủ súng đạn đã lặng lẽ tiến về phía bị biển
miền Bắc Việt Nam, đó là các tàu tuần dương hạm
Oklahoma City (chiếc tàu từng bị phi công Nguyễn

Văn Bảy B ném bom trọng thương), tàu Providence,
tàu Newport News cùng ba tàu khu trục Fox,
Hanson và Buchanan. Sau đó vài tiếng đồng hồ, hai
tàu sân bay uss Constellation và uss Kitty Hawk
(tải trọng của mỗi tàu là 70.000 tấn) cùng với tàu
sân bay ƯSS Coral Sea (tải trọng 49.000 tấn) chỏ
các máy bay F-4, A-6, A-7 đưa ra vị trí chuẩn bị
cất cánh.
27


×