Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

BTL ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM BÀI TẬP LỚN GIẢI PHÁP SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ HỖ TRỢ TRUY CẬP TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.39 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

BÀI TẬP LỚN
GIẢI PHÁP SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ HỖ TRỢ TRUY CẬP
TÀI LIỆU HỌC TẬP CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
GVHD: Đào Thị Bích Hồng
Lớp: DT01
Nhóm: 3
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Lê Nguyễn Mỹ Duyên
Đỗ Viết Dũng
Nguyễn Thanh Duy
Phạm Đình Duy
Phan Nhật Duy
Lý Minh Doanh

1810086
1410659
1811738
1811728
1710805


1811685

TPHCM, ngày 29 tháng 11 năm 2020

1


MỤC LỤC
1. Quan điểm, chủ trưởng của Đảng về công nghiệp hố, hiện đại hố ………………4
1.1. Cơng nghiệp hố gắn với hiện đại hố và cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn
với phát triển kinh tế tri thức ………………………………………………………………………4
1.2. Cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ………………………………………8
1.3. Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững ……………………………………………………………………………………………15
1.4. Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá …………………………………………………………………………………………………..19
1.5. Phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn
hố, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ………………………………………………….26
2. Giải pháp sử dụng công nghệ hỗ trợ truy cập tài liệu học tập cho sinh viên
Trường Đại học Bách Khoa ………………………………………………………………………31
2.1. Thực trạng việc truy cập tài liệu của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa
2.1.1. Trường Đại học Bách Khoa đã có những biện pháp cho sinh viên truy
cập tài liệu ………………………………………………………………...……………………………31
2.1.2. Kết quả: ưu điểm và hạn chế ……………………………………………………..31
2.2. Giải pháp ……………………………………………………………………………………….32
2.3. Đánh giá giải pháp …………………………………………………………………………..33
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………………………..35



LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam đang phát triển trên con đường cơng nghiệp hố, hiện
đại hố. Sau hơn 30 năm đổi mới (1986-2019), nước ta đã trải qua nhiều chặng
đường với rất nhiều thử thách và gian nan. Nhờ vào sự lãnh đạo của Đảng mà
nước ta từng bước phát triển, hoàn thành từng chặn đường và chiến thắng trên
các từng chiến lược, chính sách, chủ trương.
Để phát triển đất nước một cách bền vững theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, Đảng khẳng định phải phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ.
Chú trọng khoa học công nghệ trong mọi lĩnh vực. Kinh tế phát triển khi khoa
học công nghệ phát triển.
Thấy rõ tầm quan trọng của khoa học và cơng nghệ, nhà nước ta đã có
những đường lối, chính sách, chủ trương về khoa học cơng nghệ nhằm phát
triển khoa học cơng nghệ tồn diện và mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nhà nước cịn
đổi mới thường xun các quan điểm, chủ trương để phù hợp với thực trạng
Việt Nam theo từng giai đoạn.
Với những chính sách, chủ trương đúng đắn và phù hợp của Đảng về khoa
học, công nghệ đã giúp cho nền khoa học, công nghệ nước ta đạt được nhiều
thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Bên cạnh đó, cũng sẽ có những mặt hạn chế nhất định tồn tại song
song với các ưu điểm.
Thông qua bài tiểu luận về Giải pháp ứng dụng công nghệ hỗ trợ truy cập
tài liệu học tập cho sinh viên trường Đại học Bách Khoa, nhóm đã được tìm
hiểu về cơng nghiệp hố - hiện đại hố, ứng dụng công nghệ sách điện tử như
một công cụ hỗ trợ cho quá trình học tập. Sinh viên, những người chủ tương lai
của đất nước, cần phải tìm hiểu, nghiên cứu về khoa học, công nghệ, thành tựu
KH-CN trên thế giới để biết ứng dụng vào thực tiễn đời sống xã hội ở nước ta.
Để sinh viên của trường Đại học Bách khoa, trường hàng đầu về đạo tạo kỹ
thuật trên cả nước, có thê tiếp cận một cách dể dàng, thuận tiện, nhanh chóng,
nhóm đã đưa ra giải pháp “Tìm kiếm nhanh, mở khoa học, dẫn cơng nghệ”



1. Quan điểm, chủ trưởng của Đảng về công nghiệp hố, hiện đại hố
1.1.Cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường
*Q trình đổi mới tư duy về cơng nghiệp hóa:
- Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương cơng
nghiệp hóa thời kỳ 1960-1986:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ
ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương cơng nghiệp hóa thời kỳ 19601985, mà trực tiếp là mười năm từ 1975 đến 1985:
Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế…Do tư
tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng
ta đã chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa( CNH) trong khi chưa có đủ các tiền
đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư,
thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng cơng
nghiệp nặng và những cơng trình quy mô lớn , không tập trung sức giải quyết về
căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả
là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như:
Nông nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không
phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Q trình đổi mới tư duy về cơng nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội X:
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội
dung chính của cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là
thực hiện cho bằng được 3 chương trình lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau. Phát triển lương thực thực



phẩm và hàng tiêu dung là nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân
sau mấy chục năm chiến tranh ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế cịn đang
trong tình trạng thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp phần ổn định kinh tế - xã
hội; phát triển hàng xuất khẩu là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và
đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ
sản xuất. Xác định thứ tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và
tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội.
=> Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mơ hình chiến lược CNH,
chuyển từ mơ hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mơ hình hỗn
hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ
biến và khá thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.
Như vậy, chính sách CNH của Đại hội VI đã:
- Đưa ra một thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp – công nghiệp hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu – công nghiệp nặng.
- Tạo một sự chuyển biến quan trọng cả về quan điểm nhận thức cũng
như tổ chức chỉ đạo thực hiện cơng nghiệp hóa đất nước. Đó là sự chuyển biến
hướng chiến lược CNH từ:
+ Cơ chế KHHTT sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của Nhà nước.
+ Cơ chế khép kín sang cơ chế mở cửa kinh tế.
+ Từ xây dựng ngay từ đầu một cơ cấu kinh tế đầy đủ, tự cấp tự túc sang cơ cấu bổ
sung kinh tế và hội nhập.
+ Mục tiêu “ ưu tiên phát triển công nghiêp nặng” đã chuyển sang “ lấy nông
nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”. Từ đó
dẫn đến sự đổi mới trong cơ cấu đầu tư: “Đầu tư có trọng điểm và tập trung vào
những mục tiêu và các ngành quan trọng, trước hết đầu tư cho sản xuất nông
nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, cho chế biến nông sản và một số ngành
công nghiệp nặng trực tiếp phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn”
+ Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.



Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức
mới, ngày càng tồn diện và sâu sắc hơn về cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Đại hội đã xác định rõ vai trị “mặt trận hàng đầu” của nông nghiệp, và trên thực tế
đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đã tăng lên. Đại hội đề cập đến lĩnh vực Dịch
vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc
tế; đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung cả
nước. Thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã có
những bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với
nhiều năm trước:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1991: 5,8% 1995: 9,5%
+ Tương ứng công nghiệp tăng: 1991: 5,3 % 1995: 15,5%
+ Nông nghiệp tăng 1991: 2,2% 1995: 4,8%
+ Xuất khẩu tăng 1991: -13,2% 1995: 34,4%
+ Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 1991: 67% 1995: 12,7%
+ Cơ cấu kinh tế: 1991: 40,5 – 23,8 – 35,7(%)
1995: 27,2 – 28,8 – 44 (%)
+ Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã
hội (20,8 tỷ USD)
Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp
làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận
hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế
nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh
nghiệp. Gắn cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động
lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của CNH, HDH. Đặt ra nội
dung cụ thể của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm trước mắt (19962000) là “đặc biệt coi trọng CNH, HDH nông nghiệp nông thôn…”. Kết quả là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996: 9,3% 2000: 6,75%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1996: 14,5% 2000: 10,1 %
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1996: 4,4% 2000: 4%



+ Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 1996: 33,2% 2000: 24%
+ Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5 (%)
2000: 24,3 – 36,6 – 39,1 (%)
Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung
và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về cơng nghiệp hóa:
- Con đường cơng nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so
với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công
nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập
quốc tế để rút ngăn thời gian.
- Tuy nhiên, tiến hành cơng nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi
trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất
nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức;
phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và
động lực cho CNH, HDH.
- Hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh
và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành cơng
nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy nhanh CNH, HDH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
- Đẩy mạnh CNH, HDH phải tính tốn đến u cầu phát triển bền vững
trong tương lai.



1.2.Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trong thời kì đổi mới, cơng nghiệp hoá- hiện đại hoá( CNH-HĐH) được
tiến hành trong nền KTTT định hướng XHCN, nhiều thành phần. Do đó, CNHHĐH khơng phải chỉ là việc của nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế. Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng nước ta trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng
cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có cơng nghiệp và nơng
nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành cơng nhiệm
vụ quan trọng đó, nhất thiết phải tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố, tức là
chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế cơng nghiệp văn minh.
Có thể khẳng định rằng, chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng ta đưa ra tại Đại hội X không
chỉ là sự tiếp nối đường lối và chiến lược cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 1991), mà còn là bước phát triển mới trong nhận thức của
Đảng ta về đường lối tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại tiến trình hình thành và phát triển đường lối tiến hành cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng,
chúng ta thấy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: "phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp
hố đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn
diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân"1
Theo quan điểm của Đảng, trong thời đại ngày nay, những tiến bộ về kinh
tế, xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước và
các tổ chức quốc tế là cơ sở để chúng ta đẩy tới một bước cơng cuộc cơng nghiệp

hố, hiện đại hố đất nước nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân
1

Đảng Cộng sản. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1991, tr.9.


dân. Xác định cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước là nhiệm vụ trung tâm, có
tầm quan trọng hàng đầu, là con đường duy nhất giúp chúng ta không chỉ thoát
khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước trong khu vực Đông –
Nam Á và trên thế giới, mà còn giữ được ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được
độc lập, chủ quyền quốc gia và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường( KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa( XHCN) thực
chất là kiểu tổ chức nền kinh tế-xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa
xã hội.
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được hình thành và phát triển
trên cơ sở phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo. Nhà
nước ngày càng tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần vai trị chủ thể về
kinh tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách và lực lượng vật chất, bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân
thủ các quy luật của KTTT, tương thích với thơng lệ của các nước; kiến tạo được
môi trường vĩ mô; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và bảo đảm an sinh xã hội; ban
hành cơ chế chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo
hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ
môi trường. Đồng thời, Nhà nước phải bảo đảm được vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước, hồn thiện các cơng cụ quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường kỷ luật kỷ

cương trong việc chấp hành các chính sách chế độ, sử dụng các chương trình đầu
tư tín dụng để tạo điều kiện và hướng dẫn sự phát triển của các ngành, các địa
phương và các thành phần kinh tế.
Quản lý nhà nước đúng đắn không phải là bất chấp cơ chế thị trường, mà
sử dụng cơ chế thị trường để điều tiết sự vận động của hàng, tiền, của các yếu tố
thị trường, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. Các chủ trương, chính sách
kinh tế và tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước phải phù hợp với cơ chế thị
trường, mang lại lợi ích và công bằng xã hội, ổn định và tăng trưởng kinh tế một
cách hợp lý, ngăn ngừa tình trạng độc quyền, lạm dụng và nhân danh KTTT hay
bàn tay nhà nước để can thiệp làm méo mó thị trường, lệch lạc các nguồn lực và


tổn hại lợi ích cộng đồng, hạn chế các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, mà
những bất cập trong quản lý đầu tư công và cả những dự án BOT giao thơng đang
minh chứng cho những điều đó…
Tuy nhiên, do phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một sự nghiệp, một quá trình chưa có tiền lệ nên có những vấn đề đặt ra trong điều
kiện hiện nay cần phải được tiếp tục xem xét, hoàn thiện:
+ Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng là một nền kinh tế mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước và những giá trị XHCN mà chúng ta đang
phấn đấu. Thế nhưng, vấn đề cần xem xét là liệu chúng ta có thể nghiên cứu để áp
dụng nhiều hơn, đầy đủ hơn những quy luật, những giá trị chung của thể chế kinh
tế thị trường-một thành tựu của nhân loại vào nền kinh tế của chúng ta, nhằm tạo
thuận lợi sự phát triển vừa nhanh hơn, vừa bền vững hơn hay khơng? Nếu thế thì
cần phải có những điều kiện nào kèm theo?
+ Thứ hai, định hướng của Đảng và Nhà nước và thực tiễn vừa qua đã
chứng minh rằng, để phát triển nền kinh tế Việt Nam không thể chỉ dựa vào một
thành phần kinh tế nào, mà cần phải khơi dậy được mọi tiềm năng, mọi nguồn lực
của đất nước, với một khát vọng chung là xây dựng đất nước Việt Nam hùng

cường. Để hiện thực hóa điều đó, cả nước đang phát động một tinh thần khởi
nghiệp với mục tiêu là tới năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu doanh nghiệp.
Như vậy, nòng cốt để phát triển kinh tế Việt Nam, là chỗ dựa bền vững cho kinh tế
đất nước, phải chăng là mọi thành phần kinh tế trong nước, bao gồm cả: Kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân? Như vậy, về định hướng vĩ mô, liệu
chúng ta cần có sự thay đổi nào khơng để khơi dậy được mọi tiềm lực kinh tế của
đất nước, tạo ra một sân chơi thực sự cơng bằng, bình đẳng, trong thụ hưởng chính
sách, được tiếp cận các nguồn lực và việc tuân thủ luật pháp?
+ Thứ ba, với những biểu hiện lợi ích nhóm, biểu hiện của chủ nghĩa tư
bản thân hữu đang diễn ra trong nền kinh tế, cần phải có giải pháp gì để ngăn chặn,
để bảo đảm rằng những lợi ích từ phát triển kinh tế đất nước sẽ không bị một bộ
phận thiểu số trong xã hội chiếm dụng, mà sẽ được chia sẻ công bằng; bảo đảm
rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm chứ khơng quá
thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các vùng miền, giữa các


thành phần, đối tượng trong xã hội.
+ Thứ tư, cần có chiến lược, cùng những giải pháp hữu hiệu như thế
nào để việc phát triển kinh tế của đất nước bảo đảm hài hịa hai yếu tố đó là: Phát
triển “nhanh” và “bền vững”. Đây là hai yêu cầu song hành. Bởi với một nền kinh
tế đang phát triển như Việt Nam nếu khơng có giải pháp để đạt một tốc độ phát
triển ở mức cao thì rất dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Thế nhưng,
việc phát triển nhanh về kinh tế phải bảo đảm yếu tố bền vững, đó khơng phải là sự
phát triển bằng mọi giá, đặc biệt không phải là việc hy sinh môi trường sống để
phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế đất nước khơng ngồi mục đích nào khác là để
bảo đảm cho mọi người dân có một cuộc sống sung túc, hạnh phúc.
Không chỉ khẳng định sự cần thiết, tất yếu phải gắn việc đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức, lấy kinh tế tri thức
làm yếu tố cấu thành quan trọng của nền kinh tế, Đảng ta còn chỉ rõ nội dung chủ
yếu của quá trình này là:

+ Thứ nhất, phát triển với tốc độ nhanh và ngày càng mạnh các ngành,
các lĩnh vực và những sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri
thức; kết hợp có hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam
với những tri thức mới nhất của nhân loại.
+ Thứ hai, không chỉ coi trọng số lượng, mà còn phải coi trọng cả chất
lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng,
từng địa phương và trong mỗi dự án phát triển kinh tế – xã hội.
+ Thứ ba, xây dựng một cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành,
lĩnh vực và lãnh thổ.
+ Thứ tư, giảm mạnh chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động
của tất cả các ngành, các lĩnh vực, nhất là các ngành, các lĩnh vực có sức cạnh
tranh cao trên thị trường thế giới, khu vực và trong nước.
Như vậy, ngay cả khi đã nhận thức rõ khoa học và cơng nghệ đóng vai
trị là nền tảng, là động lực, là "quốc sách hàng đầu" của sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước, Đảng ta vẫn chưa nói đến vấn đề gắn kết cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá với kinh tế tri thức. Như chúng ta đã biết, vào những thập kỷ
cuối cùng của thế kỷ XX, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ, đặc biệt là những thành tựu trong bốn lĩnh vực: công nghệ sinh học,


công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng và công nghệ thông tin, đã tạo nên
những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế – xã hội của thế giới nói chung và của
Việt Nam nói riêng. Sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ hiện đại đã
dẫn đến sự ra đời của ngành kinh tế tri thức. Điều đó có nghĩa là, sự nghiệp đẩy
mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đang diễn ra trong điều kiện kinh tế
tri thức đã trở thành một xu hướng phát triển mới của các nước trên thế giới. Có
thể nói, sự xuất hiện của kinh tế tri thức là vận hội chưa từng có để Việt Nam đi tắt
đón đầu, từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Từ chỗ cho rằng,
"kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất", Đảng ta đã chủ động đưa ra quan điểm về sự gắn kết cơng nghiệp hố,

hiện đại hố với phát triển kinh tế tri thức. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX (tháng 4 năm 2001), với nhận định rằng, sự phát triển của kinh tế tri thức trong
bối cảnh toàn cầu hoá đã đem lại lợi thế cho các nước đi sau, trong đó, trong đó có
nước ta, giúp chúng ta có thể và cần thiết khơng phải trải qua các bước tuần tự từ
kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức,
Đảng ta đã xác định "con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hố của nước ta cần và
có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát
huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới
về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố"1.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh tồn
cầu hố kinh tế, chúng ta phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế
độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, không lệ thuộc vào những điều kiện kinh tế- chính trị do
người khác áp đặt, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ ngày
càng cao từ nội bộ nền kinh tế…có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ;
bảo đảm an ninh lương thực, an tồn năng lượng, tài chính, mơi trường…Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và


khu vực, từ đó phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong suốt cả q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
rất chú trọng ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, nhiều ngành kinh tế được đầu
tư, từng bước hiện đại. Mặt khác, chúng ta cũng khơng coi nhẹ việc xây dựng và
hồn thiện quan hệ sản xuất mới phù hợp. Thực tế những năm vừa qua, trong nơng

nghiệp, nơng thơn, sự thích ứng giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất mới đã tạo ra những bước phát triển quan trọng trong khu vực
kinh tế này.
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn ngoại lực và chủ
độnghội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.Trong
bối cảnh khu vực hố và tồn cầu hố kinh tế, Đảng ta chỉ rõ phải phát huy cao độ
nội lực, coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ nguồnngoại lực, tranh
thủ nguồn vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý…được xem là nguồn
bổ sung quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,bảo
vệ và cải thiện môi trường. Khái niệm phát triển ngày nay được nhìn nhận một
cách đầy đủ, tồn diện hơn. Ngồi chỉ số về tăng trưởng kinh tế (thu nhập bình
quân đầu người), phát triển còn bao hàm nhiều chỉ số quan trọng khác về những
giá trị văn hoá và nhân văn.
Ngày nay, tồn cầu hố kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, lôi
cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xét về mặt tác động tích cực, nó tạo điều
kiện và thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng
trưởng cao cho nền kinh tế của các quốc gia dân tộc, cho cả nền kinh tế thế giới.
Khơng chỉ thế, tồn cầu hố kinh tế cịn tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu và
chuyển giao những thành tựu mới trong khoa học và công nghệ, trong tổ chức và
quản lý sản xuất, kinh doanh; đưa tri thức và kinh nghiệm mới đến với các quốc
gia dân tộc; tạo tiền đề và điều kiện cho các quốc gia dân tộc đi sau có thể "rút
ngắn" lộ trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước bằng chiến lược phát triển
có khả năng "bắt kịp" và "thích nghi" với xu hướng phát triển hiện đại. Có thể nói,
đây là một cơ hội thuận lợi đối với mọi quốc gia dân tộc, nhất là với các nước đang


phát triển. Chính vì thế, Đảng ta đã khẳng định rằng, để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững, chúng ta cần "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,

đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác"2.
Trong bối cảnh khu vực hố và tồn cầu hố kinh tế, Đảng ta chỉ rõ phải
phát huy cao độ nội lực, coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ
nguồn ngoại lực, tranh thủ nguồn vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản
lý…được xem là nguồn bổ sung quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách
chênh lệch với các nước trong khu vực và trên thế giới, thuận lợi trong việc mở
rộng thị trường tiêu thụ hàng hố trong nước (những mặt hàng có lợi thế). Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, điều
này cần phải được quán triệt trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế,
cả trước mắt cũng như lâu dài:
+ Thứ nhất, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, cơng nghiệp hố, hiện
đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập
dân tộc và chủ quyền đất nước.
+ Thứ ba, chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là
chính, đi đơi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngồi.
+ Thứ tư, chúng ta nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng
đồng bộ thị trường trong nước.
+ Thứ năm, song song với việc xây dựng, phát triển đồng bộ thị trường,
chúng ta phải nhanh chóng xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh.
Bước vào thế kỷ XXI, các nước trong khu vực và trên thế giới đang nỗ lực
theo đuổi những chiến lược phát triển của mình để vươn tới nền kinh tế tri thức.
“Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy chính sách chiêu đãi hiền tài; Ấn Độ tăng tốc với kế
hoạch nghiên cứu và phát triển, Singapore đang đứng đầu châu Á về công nghệ
sinh học. Tồn cảnh một khơng khí hừng hực đầu tư cho nền kinh tế tri thức đang
bùng nổ khắp châu Á”. Việt Nam cũng đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới
tồn diện đất nước, chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; đồng
thời, mở rộng quan hệ với các nước trên tinh thần hợp tác và phát triển (biểu hiện
rõ rệt nhất là đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới). Đó là

2

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.122.


những cơ sở để chúng ta, một mặt, khẳng định tính đúng đắn và khoa học trong
quan điểm của Đảng về đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát
triển kinh tế tri thức; mặt khác, hiện thực hố đường lối phát triển đó trong thực
tiễn.
=> Qua đó, chúng ta cũng đã đạt được một số thành tựu. Đầu tiên, chuyển
đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế đến, đường lối đổi mới
của Đảng đã tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường hướng xã hội chủ
nghĩa hình thành và phát triển. Và các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng
bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.
Cuối cùng, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống.
1.3. Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững
Bước sang thế kỷ XXI, giới khoa học cũng như giới chính trị , giới quản
lý kinh tế - xã hội chú trọng hơn nhiều về vấn đề văn hóa , con người, các vấn đề
kinh tế xã hội, và các vấn đề này mang tính tồn cầu khác. Theo đó, con người
được xác định là trung tâm của sự phát triển. Con người có vai trị quyết định sự
phát triển của xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của chính
họ. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi trình độ phát triển xã hội đòi hỏi một nguồn
nhân lực phù hợp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, để phát huy
những thành tựu to lớn đã đạt được trong thời gian qua, trước xu thế hội nhập và
nền kinh tế tri thức, nước ta cần có các nguồn lực. Đó là nguồn tài ngun thiên
nhiên, nguồn tài chính, nguồn lực khoa học - công nghệ và nguồn lực con người…
Trong đó, nguồn lực con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, có tính chất

quyết định sự tăng trưởng và phát triển xã hội. Một quốc gia cho dù có tài nguyên
thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng khơng có những con
người có trình độ, có đủ khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
đó thì khó đạt được sự phát triển như mong muốn.
Có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo tổ chức lao động
quốc tế thì: nguồn nhân lực của một quốc gia là tồn bộ những người trong độ tuổi
có khả năng tham gia lao động. Ngân hàng thế giới cho rằng "nguồn nhân lực là
toàn bộ vốn con người, bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp của mỗi cá


nhân". Như vậy, theo cách thứ nhất nhìn nhận về số lượng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sự phát triển xã hội, là tổng số những người
trong độ tuổi lao động theo quy định của nhà nước và thời gian lao động họ có thể
tham gia. Cách thứ hai, nhìn nhận về chất lượng, nguồn nhân lực là tổng thể các
yếu tố về thể lực, trí lực, trình độ chun mơn, trình độ lành nghề của người lao
động.
Với quan điểm như trên sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân
lực chất lượng cao. Theo cách hiểu định lượng: nguồn nhân lực chất lượng cao là
những người lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp và trình độ chun mơn kỹ
thuật. Như vậy, những người không qua trường lớp đào tạo nào, nhưng có khả
năng đặc biệt, đáp ứng được những yêu cầu phức tạp của cơng việc lại khơng được
tính là lao động chất lượng cao( chẳng hạn như nghệ nhân). Trong khi đó, một số
người đã qua đào tạo, nhưng khơng đáp ứng được yêu cầu của công việc tương
ứng với trình độ đào tạo vẫn được xem là nhân lực có chất lượng cao. Theo cách
hiểu định tính: nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao
động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc, tạo ra năng suất
và hiệu quả cao, có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển xã hội. Tiếp cận
theo góc độ này sẽ gặp khó khăn trong việc thống kê, quản lý và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Thời kỳ phát triền mới – đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con
người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh và bền vững,
phải gắn tang trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa,
giáo dục, thực hiện, tiến bộ và cơng bằng xã hội. Nếu cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa là vì sự nghiệp phát triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối
cao.
Theo Lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh” Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì
lợi ích tăm năm trồng người” và “ muốn xây dựng chủ nghĩa” và chính 2 câu nói
ấy của bác đã khẳng định được tầm quan trọng của quan điểm Lấy phát huy nguồn
lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững là quan trọng
như thế nào.


Theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nguồn nhân lực chất
lượng cao là bộ phận ưu tú nhất của nguồn nhân lực đất nước, bao gồm những
người tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống; có trình độ học vấn,
chun mơn cao; có sức khỏe tốt( theo độ tuổi); ln đi đầu trong lao động, sáng
tạo khoa học, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đó là những “ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị
doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn”3.
Quan điểm này từng được Đảng ta nhấn mạnh qua đại hội XI tổ chức tại Hà Nội vào
năm 2011: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”4.
Phát triển bền vững : là một sự phát triển cân đối giữa 3 thái cực tang
trưởng kinh tế, xã hội, môi trường, không được xem nhẹ phần nào . Ở nước ta,
quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện
trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng
Nguồn lực con người : Nguồn lực được hiểu là toàn bộ các yếu tố vật chất
và tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong điều kiện
thích hợp sẽ thúc đẩy q trình cảu biến xã hội của một quốc gia dân tộc.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành
cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam là quá trình chuyển đổi căn bản, tồn diện nền kinh tế từ
dựa vào nơng nghiệp và thủ cơng sang máy móc cơng nghiệp là chính. Đây là quá
trình sử dụng nguồn lao động được đào tạo, kết hợp với công nghệ, phương pháp
tiên tiến nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII (1996), Đảng ta đã đưa ra quan điểm "Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa"5. Điều đó cho thấy, Đảng
ta đã xác định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự
thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền
vững. Quan điểm này tiếp tục được thể hiện ở Đại hội Đảng lần thứ X và XI.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011,
tr.130
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011,
tr.41
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006,
tr.34


Yếu tố con người vốn dĩ luôn là yếu tố quan trọng nhất, cơ bản nhất trong
các yếu tố (vốn, khoa học - công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị)
tham gia vào q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì trong các yếu
tố trên thì chỉ có con người là có khả năng sáng tạo sử dụng và tạo ra các yếu tố
khác:
- Vốn: mặc dù yếu tố này rất quan trọng tuy nhiên nó lại chỉ tồn tại ở dạng

tiềm năng.
- Khoa Học - Công Nghệ: là yếu tố được sáng tạo, phát triển và áp dụng bởi
con người. Sự phát triển của KH – CN tỷ lệ thuận với vai trị quan trọng của con
người trong sự tiến bộ đó.
- Thể chế chính trị và đường lối chính sách: đều xuất phát từ chính con
người, do họ đề ra và cũng do họ thực hiện.
Như vậy, muốn phát triển nguồn lực con người thì ta cần phải đặc biệt chú ý
đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đưa việc định hướng, phát triển
nền giáo dục hiện nay trở thành ưu tiên hàng đầu và là những viên gạch đầu tiên
đặt nền móng trên con đường phát triển, hội nhập ra khu vực và xa hơn là thế giới.
Để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương phải đặc biệt coi trọng và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(2006), Đảng ta đã đề ra chủ trương "Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao... chấn hưng nền giáo dục Việt Nam".
Nhấn mạnh vai trị cực kì quan trọng của đội ngũ cán bộ khoa học công
nghệ và quản lý cùng với những cơng nhân có tay nghề cao trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tất cả phải đủ về lượng và chất để có thể sử
dụng và sáng tạo những thành tựu khoa học tiên tiến.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, cần làm tốt vấn đề tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề lớn, hệ trọng, cơ
bản, lâu dài, do đó, địi hỏi phải phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trên tất cả các mặt, từ kinh tế, chính trị, xã hội,
quản lý, sử dụng nguồn nhân lực... đến các chính sách về thu hút, đãi ngộ người


lao động, từ đó có nhận thức đúng đắn và đưa ra hệ thống các giải pháp phù hợp
cho sự phát triển.
=> Qua đó ta nhận thấy Đảng đã xác định yếu tố con người là cực kì cơ bản

và trọng yếu hơn so với hai yếu tố còn lại trong ba yếu tố về khái niệm “Phát triển
bền vững” là con người, môi trường và kinh tế. Con người được xem là động lực
nhanh và quan trọng nhất để xây dựng và phát triển những yếu tố khác.
1.4.Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa.

Khoa học và cơng nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển
kinh tế nói chung. Theo tác giả Yves Michaud (Pháp) trong cuốn “Khoa học,
Công nghệ và Phát triển kinh tế - Tập hợp của mọi tri thức” - Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, "cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một quan niệm mới về
quá trình vận động xã hội, coi tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ là nền tảng
của các tiến bộ xã hội. Theo đó, khoa học và công nghệ, phải là một yếu tố của sự
phát triển xã hội, phục vụ trở lại sự phát triển kinh tế - xã hội.”
Ở các nước phát triển hiện nay, nền kinh tế phát triển có ứng dụng tri thức
KH - CN. Đối với Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế theo định
hướng XHCN, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong 15 năm đổi mới
qua, song nền kinh tế vẫn còn kém phát triển so với các nước khu vực và thế giới,
đồng thời đang gặp phải những thách thức không nhỏ: đó là nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực do xuất phát của Việt Nam quá
thấp, lại phải phát triển trong mơi trường cạnh tranh quyết liệt. Sự khác biệt về
trình độ công nghệ của Việt Nam so với các nước phát triển là rất lớn, nhìn chung
cơng nghệ nước ta tụt hậu so với trình độ chung của thế giới khoảng 3, 4 thập kỷ.
Những xu hướng phát triển KH-CN toàn cầu:
Một là, xu hướng liên kết, hợp tác và phân công lao động quốc tế trong
nghiên cứu khoa học và công nghệ ngày càng tăng.
Trong bối cảnh thế giới mới hiện nay, để tận dụng các cơ hội, hạn chế các
tác động tiêu cực của q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nước, đặc biệt
là các nước đang phát triển phải tăng cường liên kết, hợp tác về khoa học và công
nghệ với các nước khác. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ



cho phép các chủ thể, các quốc gia khai thác được các thành quả nghiên cứu mới
về khoa học và công nghệ của thế giới, tận dụng được vốn, công nghệ, nhân lực
của đối tác và để phát huy lợi thế so sánh của mình trong nghiên cứu khoa học và
công nghệ. Mức độ hợp tác quốc tế tùy thuộc vào tiềm lực và khả năng khoa học
và công nghệ của từng quốc gia. Thông thường những nước đang phát triển tham
gia tích cực hơn trong hợp tác quốc tế về khoa học và cơng nghệ, bởi vì các nước
này muốn tiếp cận các công nghệ tiên tiến từ bên ngồi, từ đó nâng cao năng lực
cơng nghệ nội sinh của mình.
Do vậy, hình thức đồng tác giả, đồng sáng chế quốc tế tăng nhanh và trở
thành hình thức hợp tác khoa học phổ biến trên thế giới. Các hoạt động khoa học
và cơng nghệ đang có xu hướng chuyển từ cá nhân sang nhóm, từ quốc gia sang
quốc tế. Tỷ lệ sáng chế toàn thế giới liên quan đến hợp tác quốc tế đã tăng từ 6,6%
trong giai đoạn 1996-1998 lên 7,3% trong giai đoạn 2004 – 20066.
Hai là, xu hướng hướng vào những lĩnh vực khoa học và công nghệ mới
gắn với cách mạng công nghiệp lần thứ tư như các ngành cơng nghệ thơng tin, trí
tuệ nhân tạo, công nghệ môi trường, công nghệ sinh học, công nghệ nano...
Những hoạt động khoa học và công nghệ trong lĩnh vực gắn với khai thác
tài nguyên thiên nhiên, sử dụng năng lượng hóa thạch, thâm dụng nhiều lao động
và nguyên liệu thô, thải nhiều chất bẩn, độc hại ra môi trường sẽ giảm. Cơ cấu
công nghệ và cơ cấu sản phẩm sẽ dịch chuyển theo hướng hiện đại, phát triển bền
vững. Các thành tựu công nghệ của cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư như trí tuệ
nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, Internet kết nối vạn vật, công nghệ in
3D.... được ứng dụng vào trong các ngành kinh tế làm thay đổi bản chất, phương
thức sản xuất, kinh doanh, quản trị đặt ra những yêu cầu mới đối với các quốc gia.
Nghiên cứu trong công nghệ mơi trường có thể giúp đạt được các mục tiêu bảo vệ
mơi trường như giảm nhẹ biến đổi khí hậu, kiểm sốt ơ nhiễm khơng khí và nước,
nâng cao đa dạng sinh học và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Trong giai đoạn 2002-2007, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trong trích dẫn các bài báo

về biến đổi khí hậu (20%) và đa dạng sinh học (18,5%) vượt xa tỷ lệ tăng trưởng
tổng số trích dẫn các bài báo khoa học nói chung(15,8%) .
6

Cục Thơng tin khoa học và công nghệ quốc gia, Khoa học và công nghệ thế giới - Xu thế đổi mới sáng tạo,
Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2010, tr.19.


Công nghệ sinh học giúp đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội
bền vững như giúp cải thiện sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ môi trường, sản xuất
năng lượng sạch...
Cơng nghệ nano có tác động lớn tới kinh tế và xã hội ở các quốc gia. Nó
giúp thu nhỏ các thiết bị cơng nghệ thơng tin, phát triển nghiên cứu bộ gen và góp
phần sản sinh ra năng lượng tái tạo.
Ba là, xu hướng gia tăng và chuyển dịch đầu tư cho khoa học và công
nghệ trên thế giới.
Đầu tư cho khoa học và công nghệ sẽ tạo ra những sản phẩm và công nghệ
mới, từ đó góp phần đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và doanh nghiệp.
Các nguồn đầu tư cho khoa học và công nghệ trên thế giới chủ yếu là từ chính
phủ, doanh nghiêp và các tổ chức khác.
Đầu tư cho khoa học và công nghệ của các quốc gia, doanh nghiệp trên
thế giới đã tăng lên đáng kể từ những năm 1980. Xu thế này được đẩy mạnh lên
trong những năm 1990 và đến nay trở thành lĩnh vực đầu tư trọng điểm của các
quốc gia, đặc biệt là các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc. Nhằm hiện thực hóa kế
hoạch “Made in China 2025”, chính phủ Trung Quốc đầu tư 300 tỷ USD để thực
hiện 1.078 đề án cấp quốc gia, cấp kinh phí cho 557 tổ chức, 112 trường đại học,
225 tổ chức và cơ sở nghiên cứu, 220 công ty. Theo kế hoạch này, đến năm 2025,
Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc chế tạo.
Bốn là, xu hướng tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thống
nhất theo các quy định, tiêu chuẩn quốctế trong các hoạt động khoa học và công

nghệ.
Khi tham gia vào q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các
quốc gia, các doanh nghiệp đều phải thực hiện việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với hàng hố khoa học và cơng nghệ theo các quy định quốc tế. Việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ nhằm hạn chế tối đa hàng giả, đánh cắp, sao chép khơng trả
tiền các bí quyết cơng nghệ, các sản phẩm hàng hố khoa học và cơng nghệ ở các
nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ yếu. Để đảm bảo việc thực thi quyền sở hữu trí
tuệ trên phạm vi quốc tế, các nước phát triển đã gắn việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ với thương mại quốc tế trong các đàm phán về hội nhập kinh tế quốc tế. Thời
gian vừa qua, nhằm hạn chế việc sao chép công nghệ của Trung Quốc, Tổng thống


Mỹ D.Trump đã phê chuẩn Luật Ủy quyền quốc phòng năm 2019; điều tra các
doanh nghiệp của Trung Quốc như Huawei và ZTE trong việc thu thập thông tin
và công nghệ.
Xu hướng này đòi hỏi các quốc gia phải xem xét, điều chỉnh chính sách,
hệ thống pháp luật liên quan và cách thức nghiên cứu khoa học cho phù hợp và hài
hòa với những quy định quốc tế.
Năm là, xu hướng tự do hoá các hoạt động khoa học và công nghệ quốc
tế.
Để thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ trên phạm vi quốc tế,
các quốc gia không được phân biệt đối xử giữa các chủ thể trong nước và nước
ngoài trong các hoạt động về đầu tư, thương mại, dịch vụ, di chuyển nhân lực quốc
tế….nên đã hình thành nên xu hướng tự do hố các hoạt động nêu trên. Theo xu
hướng này, các nguồn lực và công nghệ của các quốc gia, chủ thể, doanh nghiệp
sẽ vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia, lưu thơng, dịch chuyển trên quy mơ
quốc tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động khoa học và cơng nghệ
tồn cầu.
Những xu hướng này có những tác động lớn đến quá trình phát triển khoa
học và cơng nghệ ở Việt Nam trên cả hai bình diện: cơ hội và thách thức.

Như vậy ta cần:
+ Đưa các thành tựu công nghệ vào sản suất công nghiệp và nơng nghiệp.
Như máy móc, thiết bị hiện đại nâng cao năng suất công- nông nghiệp
+ Tiếp thu, học hỏi các thành tựu công nghệ.
+ Không ngừng cập nhật các công nghệ mới, hiện đại, không để bị lạc
hậu...
* Thực trạng hiện nay:
- Nước ta có nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu bằng nông nghiệp, bị chiến
tranh tàn phá thời gian dài
- So với các nước khu vực Đông Nam Á, và các nước phát triển, công
nghệ nước ta đang ở mức thấp, lạc hậu, tỷ lệ các công nghệ và thiết bị hiện đại
thấp. Thiết bị và công nghệ lạc hậu hơn mức trung bình của thế giới 1 hoặc 2 thế
hệ (ngành lắp ráp điện tử, ô tô, xây dựng..)


- Việc tiếp cận thành tựu khoa học của nông dân rất khó khăn, do khơng có
đủ vốn, thiết bị cơng nghệ hiện đại thì rất đắt.
* Từ đó đưa ra các giải pháp:
Để tận dụng được các cơ hội và vượt qua các thách thức trong xu hướng
phát triển khoa học và cơng nghệ tồn cầu, Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định mục tiêu, phương hướng phát triển khoa học và công nghệ Việt
Nam thời gian tới: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học
và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ mơi trường, bảo đảm quốc
phịng, an ninh. Đến năm 2020, khoa học và cơng nghệ Việt Nam đạt trình độ phát
triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt
trình độ tiên tiến trên thế giới”. Để đạt được mục tiêu nêu trên, cần phải thực hiện
một số giải pháp cơ bản sau để tận dụng các cơ hội, vượt qua các thách thức do các
xu hướng phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới mang lại:

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết lý luận để nhận thức sâu sắc và đầy
đủ hơn nữa về các xu hướng phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới để
nâng cao nhận thức của các cơ quan, doanh nghiệp trong nước, từ đó xây dựng,
hồn thiện các cơ chế, chính sách, các mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển các
ngành, các lĩnh vực phù hợp với xu thế phát triển khoa học và cơng nghệ chung
của thế giới.
Thứ hai,khuyến khích chuyển giao các công nghệ tiên tiến và hạn chế những
cơng nghệ cũ, lạc hậu từ nước ngồi vào Việt Nam. Nhà nước cần có quy định về
thẩm định các công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam nhằm tăng cường công tác
kiểm tra chất lượng công nghệ thông qua các nội dung như: xác định rõ những tiêu
chuẩn, những giới hạn nhất định đối với các công nghệ được chuyển giao; thực hiện
sự giám định và kiểm tra đối với các công nghệ được chuyển giao; tổ chức nắm bắt
thơng tin về năng lực cơng nghệ, trình độ cơng nghệ của các quốc gia, tập đoàn quốc
tế...
Thứ ba, đổi mới công tác xúc tiến đầu tư và chuyển giao công nghệ theo
hướng từ hoạt động xúc tiến chung theo thị trường sang xúc tiến theo địa chỉ nhằm lôi
kéo trực tiếp các nhà đầu tư nước ngồi có trình độ công nghệ cao vào Việt Nam đầu


tư. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần chủ động tìm hiểu, đặt quan hệ và tiếp cận với
các chủ thể có năng lực khoa học và cơng nghệ lớn, trình độ cao trên thế giới và
khuyến khích họ đầu tư hoặc liên kết với các chủ thể trong nước. Sử dụng các nguyên
tắc đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong các hiệp định quốc tế để đấu tranh
yêu cầu xoá bỏ những rào cản xuất khẩu cơng nghệ cao, cơng nghệ nguồn từ phía
nước xuất khẩu công nghệ.
Thứ tư, nhà nước cần phải tạo điều kiện cho các tổ chức, nhà khoa học nước
ngoài tham gia giải quyết các nhiệm vụ khoa học và công nghệ do nhà nước đặt hàng.
Nhà nước chỉ giao cho các tổ chức khoa học và công nghệ, các nhà khoa học trong
nước thực hiện các đề tài, dự án phục vụ trực tiếp trong lĩnh vực an ninh, quốc phịng,
phục vụ cho việc hoạch định chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Đối

với những nhiệm vụ khoa học và công nghệ khác do nhà nước đặt hàng, nên tạo điều
kiện thuận lợi và bình đẳng cho các tổ chức, nhà khoa học nước ngoài tham gia đấu
thầu cạnh tranh để thực hiện nhiệm vụ đó. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng và
hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của nhà nước, giúp nhà
nước thực hiện tốt chức năng quản lý của mình.
Thứ năm, hồn thiện chính sách thu hút đội ngũ nhân lực khoa học và cơng
nghệ trình độ cao từ nước ngoài tham gia các hoạt động nghiên cứu và đào tạo tại Việt
Nam thông qua các biện pháp như:
- Trả lương và thu nhập cao. Trả lương và thu nhập cao nhằm thu hút các nhà
khoa học nước ngồi đến trao đổi, hợp tác chun mơn tại tổ chức khoa học và cơng
nghệ, qua đó sẽ có điều kiện để học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn. Tuy nhiên, do
nhà nước và các tổ chức khoa học và cơng nghệ có khó khăn nhất định về tài chính,
biện pháp này nên được thực hiện thơng qua các chương trình tài trợ theo dự án
nghiên cứu quốc tế hoặc thơng qua các chương trình hợp tác, liên kết quốc tế khác...
- Áp dụng chế độ ưu đãi đặc biệt để thu hút chuyên gia giỏi nước ngồi và
trí thức Việt kiều như tạo điều kiện thuận lợi về xuất, nhập cảnh, về di chuyển quốc tế
cho đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ kể cả các thành viên trong gia đình của họ
đi cùng; Hỗ trợ về nhà ở và điều kiện làm việc cho các nhà khoa học; Cấp các loại thị
thực đặc biệt dành cho các nhà khoa học và cán bộ nghiên cứu; Đơn giản hoá và tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu đến làm việc và định cư
tại Việt Nam...


- Thực hiện chính sách khuyến khích hồi hương Việt kiều là những nhà khoa
học giỏi đang ở nước ngoài thông qua các biện pháp như kêu gọi tinh thần dân tộc và
trách nhiệm xã hội, thực hiện các ưu đãi về kinh tế đối với các Việt kiều hồi hương,
chủ động hình thành mạng lưới tập hợp các nhà khoa học trong nước và các Việt kiều
ở nước ngoài tham gia tư vấn, đào tạo, nghiên cứu vì lợi ích của Tổ quốc.
Thứ sáu, đẩy mạnh việc bồi dưỡng, đào tạo ở nước ngoài để đội ngũ cán bộ
khoa học và công nghệ Việt Nam dần tiệm cận tới trình độ quốc tế. Xây dựng và triển

khai các chương trình, kế hoạch đào tạo lại cán bộ khoa học và cơng nghệ ở nước
ngồi, trong đó chú trọng việc đi đào tạo ở các nước có tiềm lực khoa học và cơng
nghệ mạnh. Hình thức đào tạo là cử đi nghiên cứu, học tập hoặc hợp tác nghiên cứu
với các viện, các trung tâm nghiên cứu quốc tế. Việc này sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ
khoa học và công nghệ của Việt Nam tiếp thu được những tri thức, cơng nghệ của
nước ngồi, làm quen với mơi trường quốc tế và cải thiện trình độ ngoại ngữ. Đối
tượng đào tạo tập trung vào đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành, nhất là
đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ thuộc các lĩnh vực cơng nghệ cao và đội ngũ
cán bộ trẻ có tiềm năng. Nguồn kinh phí đào tạo có thể sử dụng kinh phí của tổ chức
khoa học và cơng nghệ, hoặc là kinh phí hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức nước ngồi
thơng qua các dự án, đề án, chương trình đào tạo của nhà nước...
Thứ bảy, tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế giữa tổ chức khoa học và công
nghệ của Việt Nam với các tổ chức khoa học và cơng nghệ nước ngồi. Thơng qua
việc tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về khoa học và cơng nghệ với các tổ chức
nước ngồi, các tổ chức khoa học và công nghệ Việt Nam sẽ học hỏi, tiếp thu nhiều tri
thức, kinh nghiệm quý báu, từ đó nâng cao năng lực và trình độ của mình. Để thực
hiện được việc này, các tổ chức khoa học và công nghệ phải chủ động thực hiện các
nội dung sau:
- Tổ chức khoa học và công nghệ Việt Nam nên tích cực tham gia mạng lưới
nghiên cứu quốc tế, tham gia vào một số chương trình, đề án nghiên cứu chung với
các tổ chức nước ngoài. Chủ động mời các tổ chức nước ngoài và các nhà khoa học
quốc tế tham gia vào các đề tài, chương trình nghiên cứu khoa học và cơng nghệ của
mình. Để từ đó học hỏi và đào tạo cán bộ nghiên cứu trình độ cao.
- Về tiếp cận thành tựu công nghệ của nông dân( máy móc: như máy tưới
phun sương tưới tiêu cây trồng ):


×