Giảm chức năng tình 
dục có thể do tuyến giáp 
trạng 
Bệnh lý ở tuyến giáp thường vẫn là nguyên nhân gây những vấn đề về 
tình dục ở cả nam và nữ cũng như là nguyên nhân phổ biến của chứng 
vô sinh ở nam giới. 
Những vấn đề về tình dục phối hợp với bệnh lý tuyến giáp trạng, dù là 
cường năng hay thiểu năng đều rất đáng chú ý. 
 
Thiểu năng tuyến giáp: 
Dù là nguyên phát (do thiếu sót ở chính tuyến giáp) hay thứ phát (do bệnh ở 
tuyến yên hay vùng dưới đồi) thì thiểu năng tuyến giáp vẫn ảnh hưởng đến 
cơ thể. Những triệu chứng đặc trưng là suy nhược, dễ mỏi mệt, da khô hay 
thô, sợ lạnh, nói chậm, trí nhớ kém, tăng cân, táo bón và đau mình mẩy (đau 
cơ). Những triệu chứng thực thể rất khác nhau tuỳ từng người nhưng có thể 
có nề mặt, giọng khàn, nhịp tim chậm, tim to, phản xạ gân xương chậm 
Bệnh nhân thường suy kém về chức năng tình dục: 80% nam bị thiểu năng 
tuyến giáp có giảm dục năng, 40-50% trong số này bị kém cương dương ở 
mức độ nhất định. Phụ nữ cũng vậy, nhiều người bị thiểu năng giáp trạng 
phàn nàn khó có hứng khởi tình dục và không đạt được khoái cực. 
Bệnh thiểu năng tuyến giáp từ khi còn ở tuổi vị thành niên nếu không được 
điều trị thường chậm tăng trưởng về cơ thể và cả sự phát triển trí tuệ. Nếu 
thiếu hụt hormon nặng và kéo dài thì cả con trai và con gái đều không bộc lộ 
những dấu hiệu dậy thì. Hiếm nhưng có khi thiểu năng tuyến giáp nguyên 
phát lại kết hợp với sự phát triển sớm về giới tính như vú phát triển, niêm 
mạc âm đạo trưởng thành, ra máu âm đạo, chảy sữa ở con gái và tinh hoàn, 
dương vật to ra ở con trai. Những biến đổi này có thể chữa trị nếu dùng 
hormon tuyến giáp (thyroxine). Sự trưởng thành các đặc tính giới chậm do 
thiểu năng giáp trạng cũng có thể phục hồi khi được dùng đủ liều hormon 
giáp trạng. 
Giảm dục năng thường gặp ở cả nam và nữ, thể hiện tiến trình bệnh đã kéo 
dài và đã ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể, bệnh nhân thường giảm sự hăng hái 
và lanh lợi. Sự tổng hợp testosterone ở tinh hoàn và vỏ thượng thận đều 
giảm. Phụ nữ có thể bị chảy máu tử cung nhiều, đôi khi nghiêm trọng hoặc 
bị mất kinh, kèm chảy sữa, khó sinh sản; còn nam thường giảm khả năng 
sinh ra tinh trùng. Nếu bệnh không được điều trị thì phụ nữ có thai dễ sảy 
thai.    
Cường năng tuyến giáp 
Khi nồng độ hormon tuyến giáp lưu hành trong máu quá nhiều, gọi là bệnh 
Graves (còn gọi là bệnh Basedow) và do nhiều nguyên nhân; gặp nhiều ở 
phụ nữ hơn nam giới (tỉ lệ theo giới là nữ 7, nam 1), với các dấu hiệu đặc 
trưng là bướu tuyến giáp, nhiễm độc hormon tuyến giáp và lồi mắt. Biểu 
hiện lâm sàng của cường năng tuyến giáp rất ấn tượng khi bệnh nghiêm 
trọng: da thường ấm và ẩm do các mạch máu dưới da giãn và tiết quá nhiều 
mồ hôi; nhịp tim nhanh cả khi nghỉ và hay có trống ngực. Có khi có rối loạn 
nhịp tim. Bệnh nhân có vẻ như lo lắng, luôn bồn chồn. Suy nhược, mỏi mệt, 
run tay, quá nhạy cảm với nóng, sút cân kèm tăng sự thèm ăn. Có nhiều dấu 
hiệu ở mắt như nhìn chằm chằm, không đổi hướng, ít chớp mắt, lác mắt, 
tăng phản xạ và cuối cùng là có bướu ở cổ. 
Chức năng và hành vi tình dục có thể bị ảnh hưởng theo những cách rất khác 
nhau. Tăng dục năng có thể gặp ở 10-20% số bệnh nhân, nhất là với thể nhẹ 
nhưng đôi khi lại kèm chứng yếu sinh lý ở nam, có đến 30-40% giảm dục 
năng. 
Một số trường hợp cường giáp nặng ở tuổi vị thành niên lại có thể có hành vi 
tình dục quá mức và bị hiểu lầm là bệnh tinh thần. Khoảng 40% nam cường 
năng tuyến giáp bị yếu sinh lý (kém cương dương), nguyên nhân chưa rõ. 
Đôi khi tổn thương gan hay bệnh lý cơ phối hợp với cường năng tuyến giáp, 
những bệnh này cũng góp phần gây ra rối loạn chức năng tình dục. Nam 
cũng có thể bị chứng vú to. 
Ở phụ nữ thường có rối loạn kinh nguyệt, lượng máu kinh giảm hay có thể 
bị vô kinh. Chu kỳ kinh có thể dài ra hay ngắn lại hay có thể rất thất thường. 
Chức năng rụng trứng hình như không bị ảnh hưởng. Ngưỡng để có đáp ứng 
khoái cực và hứng khởi tình dục có thể khó khăn hơn ở một số phụ nữ 
nhưng phần lớn phụ nữ bị bệnh cường giáp không có thay đổi gì hoặc chỉ 
nhận thấy giảm đáp ứng. 
Những thay đổi về chức năng tình dục có thể phục hồi khi kiểm soát được 
những rối loạn về chuyển hoá.