Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.37 KB, 4 trang )
Thuốc từ râu ngô
0
Theo Y học cổ truyền, râu ngô có vị ngọt, tính bình. Quy vào kinh thận,
bàng quang, có công năng lợi tiểu, tiêu thũng, thông mật, lợi mật, thanh
huyết nhiệt, bình can, thoái hoàng, chỉ huyết. Râu ngô được dùng làm
thuốc trong các trường hợp sau:
Bệnh đường tiết niệu: Lợi tiểu trong các trường hợp đái buốt đái rắt, đái đục,
nước tiểu vàng đỏ, đôi khi thẫm mầu như nước vối; trị các chứng xuất huyết
cho các trường hợp đái ra máu, băng huyết, tử cung xuất huyết, chảy máu
cam , chảy máu chân răng, chảy máu niêm mạc miệng, lưỡi… Có thể uống
riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc cầm máu khác như cỏ nhọ nồi, huyết
dụ, trắc bách diệp, lá sen… Để chữa các chứng chảy máu, các vị thuốc trên
cần được sao cháy để làm tăng tác dụng. Ngoài ra còn dùng tốt trong các
trường hợp viêm bàng quang, viêm niệu quản nói chung hoặc có sỏi đường
tiết niệu, làm mòn và làm tan các sỏi có bản chất urat, phosphat, carbonat
bằng cách hãm hoặc sắc nước râu ngô, uống hàng ngày; hoặc dùng nước
ngay sau khi luộc bắp ngô để uống cũng được. Cũng có thể phối hợp với
các vị thuốc lợi tiểu khác như rễ cỏ tranh, rau dừa nước, rễ sậy, thông thảo,
đăng tâm thảo hoặc các thuốc làm tan sỏi: kim tiền thảo, râu mèo…
Trị viêm thận, viêm bàng quang: dùng râu ngô 100g, rau má, mã đề, ý dĩ,
mỗi vị 50g, sài đất 40g. Sắc uống, ngày 1 thang, uống liền 2-3 tuần lễ.
Chứng phù: râu ngô, rễ cỏ tranh, mỗi vị 50g, sắc uống hàng ngày, cho tới
khi hết triệu chứng ; hoặc râu ngô, mơ lông (lá), kim tiền thảo, mỗi vị 30g.
Sắc uống.
Trị viêm gan, viêm túi mật và sỏi mật, bệnh vàng da, xơ gan cổ trướng:
râu ngô, nhân trần, mỗi vị 30g, cỏ ngọt 10g. Sắc uống ngày 1 thang,