Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.88 KB, 5 trang )
Thục quỳ chống viêm
Thục quỳ còn gọi là Mãn đình hồng, tên khoa học là Althaea rosea.
Là loại cây có nguồn gốc ở Trung Âu và Trung Quốc, được nhập trồng làm cảnh ở
nhiều nơi. Bộ phận dùng làm thuốc là hoa, hạt, rễ, lá. Trong hạt quả thục quỳ chứa
11,9% dầu khô. Hoa chứa flavonoid là cyanidin. Đông y cho rằng hoa thục quỳ có
vị ngọt, mặn, tính hàn; có tác dụng lợi niệu nhuận táo, hoạt huyết điều kinh, tán
ung thũng, giải độc. Hạt có vị ngọt, tính hàn; có tác dụng lợi niệu thông lãm, thông
đạt tiện; còn có tác dụng hạ nhiệt. Rễ có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt
giải độc, thu liễm chỉ lỵ, bài nùng, lợi niệu. Hoa được dùng trị đại tiểu tiện không
thông suốt, kinh nguyệt không đều, bạch đới. Liều dùng hoa 12g, dạng
Một số bài thuốc trị bệnh từ thục quỳ:
Trị họng viêm sưng đau: Dùng trà thục quỳ. Cho 2 muỗng rễ thục quỳ khô vào 1
ly nước đun sôi trong vòng 10 phút rồi lọc lấy nước bỏ bã và uống từ 3 đến 5 ly
mỗi ngày.
Chữa bệnh đường hô hấp: Lá cây thục quỳ 20g, hoa cây cúc mẫu 20g, hạt lanh
40g. Cho nước vào các vị thuốc trên theo tỷ lệ 1 thìa canh với một cốc nước. Sắc
thuốc và uống 3 lần/ngày, cho mật ong vào nước thuốc và uống càng nóng càng
tốt. Hoặc lấy lá cây thục quỳ 20g, lá cây cẩm quỳ 20g, cây nhân hương 20g. Hoa