1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh một trong những
nhiệm vụ cần thực hiện để đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa là: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế,
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”. Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đã
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), hệ thống pháp luật Việt Nam
đang có những chuyển động mạnh mẽ để hoà nhập với pháp luật quốc tế, việc
xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật về hộ tịch là
nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Trong khoảng thời gian hơn một thập kỷ qua, có thể nói, hoạt động xây
dựng pháp luật về hộ tịch của nước ta đã có sự vận động tích cực và đạt được
những bước tiến quan trọng. Với việc ban hành nhiều văn bản chứa đựng các
QPPL về hộ tịch, hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch đã mang một sắc
thái khác hẳn so với sự trì trệ (thậm chí có thể nói là “đóng băng”) của các hoạt
động xây dựng pháp luật về hộ tịch trong thời gian từ năm 1998 trở về trước.
Xét từ khía cạnh hiệu quả tác động đối với xã hội, có thể thấy các văn bản như:
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về quản lý và đăng ký hộ tịch,
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hơn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng
ký và quản lý hộ tịch, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, Nghị định số
24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngồi (thay thế Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-
2
CP)...đạt hiệu quả điều chỉnh xã hội rất cao, đánh dấu bước phát triển về chất
của hệ thống văn bản QPPL về hộ tịch, là một lý do quan trọng thúc đẩy hoạt
động quản lý hộ tịch đi vào nề nếp với những chuyển biến mạnh mẽ. Trong đó,
điểm đáng ghi nhận là những văn bản QPPL được ban hành trong thời gian gần
đây đã được xây dựng một cách năng động, linh hoạt, phù hợp với đặc thù của
đối tượng điều chỉnh cũng như thực trạng hoạt động quản lý hộ tịch, đồng thời,
ngày càng thể hiện sâu sắc xu hướng CCHC trong thủ tục đăng ký hộ tịch. Tuy
nhiên, hệ thống pháp luật về hộ tịch hiện nay ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều
bất cập, hạn chế như: giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật có thứ bậc
khơng cao trong thang giá trị quy phạm (các văn bản có giá trị cao nhất mới
dừng ở mức độ Nghị định của Chính phủ, một số lượng lớn quy phạm thực
định do Bộ Tư pháp ban hành trong các Thơng tư mang tính chất hướng dẫn
nghiệp vụ); hoạt động điều chỉnh pháp luật về hộ tịch vẫn mang tính chất tình
thế, bị động, chủ yếu để giải quyết các vướng mắc phát sinh trên thực tế, do đó,
tính ổn định khơng cao dễ bị thay đổi; các QPPL về hộ tịch nằm rải rác trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động áp dụng pháp
luật. Đây là một hạn chế cơ bản vì đại bộ phận chủ thể áp dụng pháp luật về hộ
tịch là cán bộ cấp xã, trình độ pháp lý còn rất hạn chế, việc vận dụng đúng hệ
thống quy phạm phức tạp như vậy để giải quyết các vụ việc thực tiễn là vấn đề
hoàn toàn không đơn giản.
Để tạo tiền đề vững chắc cho việc đổi mới cơ bản công tác quản lý
hộ tịch, việc pháp điển hố pháp luật về hộ tịch có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Theo đó, trong chiến lược hồn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, đã
đến lúc cần quan tâm và dành sự ưu tiên cho việc xây dựng Luật Hộ tịch.
Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, với yêu cầu cao độ về tăng
cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đi đôi với việc mở rộng dân chủ
trên mọi lĩnh vực, đời sống xã hội, việc ban hành Luật Hộ tịch sẽ đánh dấu
bước hoàn thiện quan trọng của hệ thống pháp luật “của dân, do dân, vì
3
dân” của nhà nước ta, đồng thời, đây chắc chắn cũng sẽ là một bước tiến
dài trong tiến trình làm đậm nét bản chất dân chủ thực chất của Nhà nước
và pháp luật Việt Nam.
Với nhận thức như vậy, tôi đã chọn đề tại “Hoàn thiện pháp luật về hộ
tịch ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu Luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hộ tịch là lĩnh vực liên quan mật thiết đến việc thực hiện quyền công
dân nên đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Ở mức độ đề
tài khoa học, đã có một số cơng trình nghiên cứu như:
- Phạm Trọng Cường, luận văn thạc sỹ “Quản lý nhà nước về hộ tịch Lý luận, thực trạng và phương hướng đổi mới”, năm 2005.
- Trần Việt Hưng, luận văn thạc sỹ “Nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở tỉnh Hịa Bình, thực trạng và giải
pháp”, năm 2010.
- Phạm Hồng Hoàn, luận văn thạc sỹ “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở
cấp xã, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội”, năm 2011.
- Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, đề tài “CCTTHC trong đăng ký
và quản lý hộ tịch trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, năm 2010.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội, Viện nghiên cứu lập pháp, chuyên đề
“Một số vấn đề lý luận và so sánh pháp luật về hộ tịch” , năm 2013.
Bên cạnh đó, cịn có khá nhiều cơng trình nghiên cứu dưới dạng bài
viết đăng tạp chí hoặc các tham luận tại các hội thảo khoa học.
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề hộ tịch, nhưng
nhìn chung, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện về hệ
thống pháp luật về hộ tịch cũng như yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về
hộ tịch ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những cơng trình khoa học, bài viết
đã được công bố nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu
và hồn thiện đề tài của luận văn.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật
về hộ tịch, trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về hộ tịch ở Việt Nam với
những kết quả đạt được và những nhược điểm, hạn chế, luận văn đề xuất phương
hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về hộ tịch như khái
niệm, nội dung, vai trò của của pháp luật về hộ tịch.
- Phân tích khái niệm, các tiêu chí hồn thiện pháp luật về hộ tịch.
- Nghiên cứu pháp luật về hộ tịch của một số quốc gia và những kinh
nghiệm có thể vận dụng cho Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về hộ tịch và thực tiễn áp dụng pháp
luật về hộ tịch ở Việt Nam thời gian qua, những kết quả đạt được cũng như
những hạn chế, bất cập của pháp luật về hộ tịch ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ
tịch ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định, chế định pháp
luật điều chỉnh trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch theo các quy định
của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng
ký và quản lý hộ tịch, Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hơn
nhân và gia đình và chứng thực, Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày
28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật hơn nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngồi và các văn bản khác có liên quan.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu pháp luật về hộ tịch ở Việt Nam từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về nhà nước và pháp luật nói chung, pháp luật về hộ tịch nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của triết học Mác - Lênin về duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử với những phương pháp nghiên cứu như:
lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp; kết hợp với các phương pháp nghiên
cứu khác như: thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Với mục đích, phạm vi và nhiệm vụ đã đề ra, nội dung của luận văn có
những điểm mới như sau:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản của
pháp luật về hộ tịch và hoàn thiện pháp luật về hộ tịch;
- Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật về hộ tịch ở Việt
Nam hiện nay;
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cụ thể để tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về hộ tịch ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách trong việc xây
dựng và thực thi pháp luật, góp phần hồn thiện pháp luật về hộ tịch, đặc biệt
trong việc đề xuất xây dựng Luật Hộ tịch hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HỘ TỊCH Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH
1.1.1. Khái niệm pháp luật về hộ tịch
1.1.1.1. Khái niệm “hộ tịch”
Để hiểu được khái niệm pháp luật về hộ tịch, trước hết, cần làm rõ khái
niệm “hộ tịch”. “Hộ tịch” là một thuật ngữ khá phức tạp, cần được tìm hiểu
dưới góc độ ngơn ngữ học và dưới góc độ khoa học pháp lý và quản lý. Do
vậy, cần phải so sánh, tìm hiểu các quan niệm khác nhau về hộ tịch ở trong
nước cũng như những khái niệm tương ứng của khoa học pháp lý nước ngồi.
Về khía cạnh ngơn ngữ, “hộ tịch” là một từ ghép chính phụ gốc Hán,
được ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính.
Xét về mặt từ loại thì đây là một danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm
trừu tượng [6, tr.211]. Nếu tìm hiểu riêng từng thành tố thì có thể thấy, từ “hộ”
- khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một
nghĩa trực tiếp là “dân sự” hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý
dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau”. Tương tự, từ “tịch” có nghĩa
là “sổ sách” hoặc là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ
hợp hai từ đơn này thành danh từ “hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt
về mặt ngơn ngữ, và được sử dụng với thuộc tính kết hợp hạn chế (hạn chế về
việc sử dụng và khả năng tổ hợp của từ ngữ) [27, tr.9]. Chính do tính chất đặc
biệt ấy nên khảo cứu qua các từ điển tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải
nghĩa từ “hộ tịch” rất khác nhau:
“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và
tịch quán của từng người” [1, tr.384].
“Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của
từng người” [20, tr.404].
7
“Hộ tịch: Sổ biên nhận số một địa phương hoặc cả tồn quốc, trong có
ghi rõ tên họ, q qn và chức nghiệp của từng người” [46, tr.296].
“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã
phường” [18, tr.814].
"Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi
người trong một địa phương” [21, tr.321].
"Hộ tịch: sổ của cơ quan dân chính đăng ký cư dân trong địa phương
mình theo từng hộ" [27, tr.442].
Bên cạnh những cách giải nghĩa của các từ điển Hán - Việt nói trên,
một số từ điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” ở những khía cạnh khác hẳn. Dưới
đây là một số ví dụ:
"Hộ tịch: Các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý
của pháp luật" [55, tr.835].
"Hộ tịch: quyền cư trú, được chính quyền cơng nhận của một người tại
nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng một hộ, do
chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần" [16, tr.385].
Như vậy, nghĩa của từ "hộ tịch" xét về góc độ ngơn ngữ cịn tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí, có cuốn từ điển giải nghĩa còn thể hiện
sự nhầm lẫn cơ bản giữa hai khái niệm “hộ tịch” và “hộ khẩu”.
Về khía cạnh pháp lý, khái niệm “hộ tịch” hồn tồn khơng dễ định
nghĩa, để hiểu rõ hơn về khái niệm này, cần tìm hiểu về các cách định nghĩa
khác nhau của khoa học pháp lý nước ta qua các thời kỳ, cũng như cách định
nghĩa của khoa học pháp lý nước ngoài.
- Quan niệm của một số học giả miền Nam Việt Nam thời kỳ trước năm 1975
Thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo trình
giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng hồ,
trong đó nổi lên một số định nghĩa sau:
8
+ “Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một
công dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng
quan trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử” [41, tr.7].
+ "Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ tịch
gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử" [24, tr.111].
Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh
một cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sanh, tử, giá
thú, họ tên, con trai con gái, con chính thức hay con tư sanh, tư cách
vợ chồng... tóm lại tình trạng xã hội của con người từ lúc sinh ra đến
khi chết.
Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc thay
đổi về thân trạng người ta (nhìn nhận con ngoại hơn, chính thức hố
con tư sinh, khước từ phụ hệ, ly thân... [22, tr.42].
Như vậy, có thể thấy, các khái niệm nêu trên đã chỉ ra những dấu hiệu
đặc trưng của hộ tịch:
- Là sổ ghi chép các quan hệ gia đình của một người;
- Các quan hệ gia đình thuộc phạm vi của hộ tịch phải là những quan hệ
phát sinh trên cơ sở 3 sự kiện quan trọng trong cuộc đời mỗi người là: sinh,
kết hôn và tử.
- Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngồi
Từ góc độ so sánh luật, qua tham khảo một số tài liệu pháp lý nước
ngồi có thể thấy, trong khoa học pháp lý một số nước cũng có những khái
niệm tương đương với khái niệm “hộ tịch” trong tiếng Việt, đó là các thuật
ngữ: "civil registration" (tiếng Anh), "registre d'etat civil" (tiếng Pháp), "das
Personenstandsregister" (tiếng Đức).
Trong tiếng Anh, khái niệm “Civil Registration” được hiểu là “Việc
đăng ký đúng hạn các sự kiện sinh, tử, kết hơn với chính quyền trong thời hạn
quy định” [57, tr.59].
9
Trong tiếng Đức, khái niệm “das Personenstandsregister” được hiểu là
"Việc đăng ký cơng về tình trạng dân sự của mỗi cá nhân được thực hiện bởi
các cơ quan hộ tịch" [45, tr.1340].
Trong BLDS của CH Pháp, chế định hộ tịch là một trong những chế
định hết sức quan trọng. Tuy nhiên, luật dân sự Pháp không đưa ra khái niệm
về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm chứng thư hộ tịch.
Khái niệm “civil registration” được Liên hợp quốc định nghĩa trong tài
liệu "Principles and recommendation for a Vital Statistics System" xuất bản
năm 2002 như sau: "Đăng ký dân sự là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự
tồn tại và tình trạng dân sự của mỗi cá nhân liên quan đến dân số được quy
định bởi sắc lệnh, luật hoặc điều lệ phù hợp với yêu cầu của pháp luật mỗi
quốc gia" [56, tr.52].
Như vậy, có thể thấy, từ “hộ tịch” được sử dụng trong văn bản pháp luật
nước ta với các khái niệm trong khoa học pháp lý nước ngồi nêu trên đều có
sự tương đồng về ngữ nghĩa.
- Khái niệm “hộ tịch” trong hệ thống pháp luật hiện hành
Khái niệm “hộ tịch” cũng là một trường hợp đặc biệt trong hệ thống
khái niệm pháp lý tiếng Việt. Bản thân khái niệm này hồn tồn khơng dễ
định nghĩa một cách minh bạch. Trên thực tế, đã từng có những cuộc thảo
luận trong giới chun mơn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái
niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, do khái niệm này, trải qua
một quá trình lịch sử, đã dần trở thành ngôn ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận
thức nhân dân nên giải pháp đi tìm khái niệm Việt hố thay thế khơng được
lựa chọn, thay vào đó, các nhà xây dựng pháp luật đã lựa chọn giải pháp là sử
dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa
trong văn bản [49, tr.6]. Theo đó, định nghĩa về “hộ tịch” được duy trì từ Nghị
định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch
(sau đây gọi là Nghị định số 83/1998/NĐ-CP) cho đến Nghị định
10
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ
tịch (sau đây gọi là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP) như sau: “Hộ tịch là
những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi
sinh ra đến khi chết”. Cách định nghĩa này chưa xác định được rõ ràng nội hàm
của khái niệm nên cùng với khái niệm “hộ tịch”, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” bằng phương pháp mô tả như sau:
“Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền:
- Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ;
nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định
lại giới tính; xác định lại dân tộc;
- Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào
sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy
việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.”
1.1.1.2. Pháp luật về hộ tịch
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật (BLDS, Luật Hơn nhân và gia
đình…) và các tài liệu, sách báo pháp lý, thuật ngữ “pháp luật về hộ tịch”
được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ này trong các
nghiên cứu chỉ mang tính ước định và tùy từng trường hợp, nội hàm của nó
được xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp.
Hiểu theo nghĩa rộng, thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ
thống QPPL điều chỉnh các vấn đề về hộ tịch. Theo đó, nguồn chủ đạo của
pháp luật về hộ tịch bao gồm BLDS, Luật Hôn nhân và gia đình, các văn bản
pháp luật về hộ tịch (Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, Nghị định số
24/2013/NĐ-CP…). Cũng trong cách hiểu này, các quan hệ pháp luật về hộ
tịch được chia thành hai nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân
sự và nhóm quan hệ về quản lý. Cách hiểu này đã làm nổi bật điểm đặc trưng
cơ bản của sự điều chỉnh pháp luật về hộ tịch, đó là các quan hệ pháp luật về
11
hộ tịch cùng lúc được điều chỉnh bởi hai nhóm QPPL cơ bản, đó là QPPL dân
sự và QPPL hành chính. Hai nhóm quy phạm này có mối liên hệ hết sức mật
thiết, trong đó, nhóm quy phạm về hộ tịch do luật dân sự điều chỉnh ln
đóng vai trị là tiền đề để xây dựng các quy phạm hành chính về hộ tịch.
Hiểu theo nghĩa hẹp, thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm
hành chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là, đối tượng điều chỉnh
của pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm những quan hệ mang tính chất chấp
hành - điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch (các
quan hệ quản lý).
Mặc dù hai quan niệm trên đây có sự khác nhau cơ bản nhưng cần thấy
rằng, chúng không mâu thuẫn và loại trừ nhau. Về mặt khoa học, điều đó cho
phép có thể sử dụng thuật ngữ này với sự ước định về nội hàm của nó.
Có thể đưa ra một khái niệm chung nhất: pháp luật về hộ tịch là hệ
thống các văn bản QPPL do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
hình thức, trình tự, thủ tục luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch như: khai sinh, kết hôn, khai tử,
giám hộ, nhận cha mẹ con...
1.1.2. Nội dung của pháp luật về hộ tịch
Nội dung của pháp luật về hộ tịch bao gồm các quy định về đăng ký và
quản lý hộ tịch như: quy định về thủ tục đăng ký hộ tịch (đăng ký khai sinh,
đăng ký kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con, đăng ký giám hộ, đăng ký thay
đổi, cải chính hộ tịch, đăng ký khai tử...); quy định về sổ hộ tịch và các giấy
tờ hộ tịch; quy định về các cơ quan đăng ký và cơ quan quản lý hộ tịch; quy
định về công chức Tư pháp - Hộ tịch.
1.1.2.1. Quy định về thủ tục đăng ký hộ tịch
Thủ tục đăng ký hộ tịch là cách thức, trình tự luật định mà các cơ quan
có thẩm quyền đăng ký hộ tịch và cá nhân, tổ chức có yêu cầu đăng ký hộ tịch
phải tuân thủ khi thực hiện việc đăng ký một sự kiện hộ tịch.
12
Các thủ tục đăng ký hộ tịch được pháp luật quy định bao gồm: đăng ký
khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký khai tử, đăng ký giám hộ, đăng ký nhận
cha, mẹ, con, đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,
xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch.
Pháp luật về hộ tịch hiện hành có sự phân biệt giữa thủ tục đăng ký hộ
tịch trong nước và thủ tục đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngồi do tính chất
phức tạp, và quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước. Sự phân biệt này
thể hiện qua các quy định khác nhau về cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ
tịch, thành phần hồ sơ, thủ tục và thời hạn đăng ký hộ tịch.
Về cơ bản, pháp luật về hộ tịch hiện hành quy định khá minh bạch, chi
tiết các thủ tục đăng ký hộ tịch. Đối với từng thủ tục đăng ký hộ tịch, pháp
luật đều quy định rõ thẩm quyền, thời hạn, thủ tục đăng ký. Do vậy, cơng dân
có thể dễ dàng thực hiện nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của mình. Ngồi ra, tùy
theo từng thủ tục, tùy theo từng đối tượng thực hiện thủ tục mà pháp luật lại
có những quy định riêng cho đối tượng đó như khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi,
đăng ký khai sinh và khai tử cho trẻ chết sơ sinh, đăng ký khai tử cho người bị
Tòa án tuyên bố là đã chết... Những trường hợp việc sinh, tử không được
đăng ký đúng thời hạn quy định, pháp luật quy định cơng dân có thể đăng ký
theo thủ tục quá hạn; trường hợp việc sinh, tử, kết hôn đã được đăng ký
nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đã bị mất hoặc hư hỏng khơng
sử dụng được, thì được đăng ký lại [9]. Có thể thấy, pháp luật hộ tịch đã có
các quy định để bảo đảm quyền được đăng ký hộ tịch cho công dân trong mọi
trường hợp.
1.1.2.2. Quy định về sổ hộ tịch
Sổ hộ tịch là công cụ quản lý đặc thù trong phương thức quản lý hộ tịch ở
nước ta từ khi hình thành chế độ quản lý hộ tịch cho đến nay. Trong thời kỳ
trước năm 1975, sổ hộ tịch cịn có những tên gọi khác như “Sổ bộ đời” (cách gọi
ở miền Nam) hoặc “Nhân thế bộ” (cách gọi trong Hoàng Việt Trung hộ luật).
13
Sổ hộ tịch là sổ gốc chứa đựng những thông tin cơ bản về nhân thân
của một người, giá trị của sổ hộ tịch thể hiện ở những điểm sau:
- Sổ hộ tịch là căn cứ để thực hiện thống kê hộ tịch và các hoạt động
thống kê nhà nước liên quan đến dân cư theo các tiêu chí khác nhau, ví dụ:
thống kê những người đến tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, thống kê số cặp
vợ chồng vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, thống kê nguyên
nhân tử vong, thống kê số người kết hôn từ lần thứ hai trở lên…
- Sổ hộ tịch là căn cứ để xác định nguồn gốc và các đặc điểm nhân thân
của một cá nhân. Ví dụ, UBND cấp xã có thể căn cứ vào Sổ đăng ký kết hơn
để xác nhận về tình trạng hơn nhân của một công dân trong xã.
- Trong mối quan hệ với giấy tờ hộ tịch, sổ hộ tịch là căn cứ để cơ quan
quản lý hộ tịch cấp bản sao giấy tờ hộ tịch theo phương thức “sao từ sổ gốc”.
Các bản Điều lệ đăng ký hộ tịch trước đây quy định về vấn đề quản lý,
sử dụng sổ hộ tịch rất mờ nhạt. Nghị định số 83/1998/NĐ-CP đã khắc phục
tình trạng này, quy định một cách khá đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan
quản lý hộ tịch trong việc quản lý, sử dụng sổ sách hộ tịch.
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP tiếp tục kế thừa các quy định trong
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP về sổ hộ tịch. Chương 6 Nghị định số
158/2005/NĐ-CP đã quy định cụ thể về việc ghi chép sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ
tịch; lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; chế độ báo cáo, thống kê hộ tịch. Đồng
thời, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành các Thông tư (Thông tư số 08.a/2010/TTBTP, Thông tư số 05/2012/TT-BTP, Thông tư số 09.b/2013/TT-BTP) hướng
dẫn cụ thể việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch. Theo các quy
định này, hiện nay, hệ thống sổ bộ hộ tịch gồm 05 loại: Sổ đăng ký khai sinh,
Sổ đăng ký kết hôn; Sổ đăng ký khai tử; Sổ cấp Giấy xác nhận tình trạng hơn
nhân; Sổ đăng ký việc giám hộ/nhận cha, mẹ, con. Hình thức và nội dung sổ
đã được tính tốn trên các tiêu chuẩn kỹ thuật bảo đảm lưu trữ lâu dài, đầy đủ
các nội dung tương ứng với giấy tờ hộ tịch, bảo đảm tính thẩm mỹ.
14
Cán bộ quản lý, sử dụng sổ hộ tịch phải tuân thủ các nguyên tắc ghi
chép sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch; trường hợp có sai sót do ghi chép thì việc
sửa chữa cũng phải tuân theo quy định.
Chế độ quản lý bằng sổ “kép” từ Nghị định số 83/1998/NĐ-CP tiếp tục
được duy trì, theo đó, “mỗi loại việc hộ tịch phải được đăng ký vào hai quyển
sổ (đăng ký kép), một quyển lưu tại UBND cấp xã, nơi đăng ký hộ tịch; một
quyển chuyển lưu tại UBND cấp huyện”. Trong điều kiện việc quản lý hộ tịch
còn mang tính chất thủ cơng như nước ta thì việc quy định chế độ “sổ kép” là
rất cần thiết. Việc lập cùng lúc hai bộ sổ sẽ ngăn ngừa và tạo khả năng khắc
phục hậu quả của tình trạng sổ bộ hộ tịch bị thất lạc hoặc bị tiêu hủy thì vẫn
có khả năng tạo lập lại sổ bộ khác trên cơ sở sổ bộ còn giữ được.
Thực tiễn thi hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và các Thông tư
hướng dẫn về vấn đề này cho thấy, hệ thống sổ hộ tịch của nước ta hiện nay
về cơ bản đã ổn định, đạt được mục đích và hiệu quả trước mắt của quản lý
nhà nước về hộ tịch.
1.1.2.3. Quy định về giấy tờ hộ tịch
Giấy tờ hộ tịch là loại giấy tờ pháp lý do cơ quan đăng ký hộ tịch cấp
cho mỗi cá nhân sau khi đã đăng ký một sự kiện hộ tịch. Khái niệm “giấy tờ
hộ tịch” tương ứng với khái niệm “chứng thư hộ tịch” được sử dụng trong các
văn bản pháp luật về hộ tịch của chế độ cũ. Từ khi nhà nước ta ban hành văn
bản pháp luật đầu tiên về hộ tịch, khái niệm “chứng thư hộ tịch” đã không
được sử dụng nữa, thay vào đó là khái niệm “giấy chứng nhận hộ tịch” (Điều
lệ đăng ký hộ tịch năm 1956 và năm 1961) và từ Nghị định số 83/1998/NĐCP đến nay là “giấy tờ hộ tịch”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hệ thống giấy tờ hộ tịch của cá
nhân gồm: Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn, Giấy chứng tử, Quyết
định công nhận việc nhận cha, mẹ, con, Quyết định công nhận việc giám hộ,
Quyết định công nhận việc chấm dứt giám hộ, Quyết định thay đổi, cải chính
15
hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, Giấy xác nhận tình trạng
hơn nhân, Giấy xác nhận về việc đã ghi chú vào sổ hộ tịch các việc hộ tịch đã
đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Khi thực hiện đăng ký một sự kiện hộ tịch, cùng với việc ghi vào sổ
gốc, cơng chức Tư pháp - Hộ tịch có trách nhiệm cấp cho đương sự một bản
chính giấy tờ hộ tịch (riêng đối với việc đăng ký kết hơn thì cấp cho mỗi bên
vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn), đồng thời cấp bản sao
với số lượng theo yêu cầu của đương sự. Việc cấp bản sao không chỉ thực
hiện vào thời điểm đăng ký hộ tịch mà sau khi sự kiện hộ tịch đã được đăng
ký, bất kỳ thời điểm nào đương sự cũng có quyền yêu cầu cơ quan đã đăng ký
hộ tịch cấp cho mình bản sao giấy tờ hộ tịch. Thậm chí, thực hiện chủ trương
CCHC và để tạo thuận lợi cho người dân, pháp luật hộ tịch còn quy định
người yêu cầu cấp bản sao giấy tờ hộ tịch có thể gửi đề nghị qua đường bưu
điện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đối với mỗi cá nhân, giấy tờ hộ tịch có vai trị rất quan trọng, bởi các
thơng tin thể hiện trên từng loại giấy tờ hộ tịch có giá trị pháp lý giúp mỗi cá
nhân chứng minh các thông tin nhân thân của mình khi tham gia vào các quan
hệ xã hội nhất định. Giá trị pháp lý của giấy tờ hộ tịch được ghi nhận tại
khoản 1 Điều 5 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP “Giấy tờ hộ tịch do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân theo quy định của pháp luật về hộ
tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ tịch của cá nhân đó”.
Trong số các giấy tờ hộ tịch thì Giấy khai sinh có vị trí quan trọng đặc
biệt, bởi lẽ “Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ,
giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm
sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù
hợp với Giấy khai sinh của người đó” [9]. Bản chất của việc ghi nhận các
thông tin cá nhân trên Giấy khai sinh chính là sự xác nhận các thơng tin về
nhân thân của một cá nhân, để từ đó có thể phân biệt cá nhân này với cá nhân
16
khác. Chính vì vậy, Giấy khai sinh là “giấy tờ gốc”, là cơ sở để xác lập các
loại giấy tờ pháp lý về sau như học bạ, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, các
loại văn bằng chứng chỉ…Trường hợp các thông tin về cá nhân thể hiện trên
Giấy khai sinh và trong các giấy tờ khác có sự khác biệt, khơng thống nhất thì
Giấy khai sinh được coi là cơ sở để điều chỉnh các giấy tờ khác cho phù hợp
với nội dung của Giấy khai sinh.
Đối với trường hợp công dân để hư hỏng, rách nát hoặc thất lạc bản
chính Giấy khai sinh, để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, đảm bảo trong
mọi trường hợp công dân đều có Giấy khai sinh để làm căn cứ thiết lập các
giấy tờ khác, pháp luật quy định: “Trong trường hợp bản chính Giấy khai sinh
bị mất, hư hỏng hoặc phải ghi chú quá nhiều nội dung do được thay đổi, cải
chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch hoặc
điều chỉnh hộ tịch mà Sổ đăng ký khai sinh còn lưu trữ được, thì cấp lại bản
chính Giấy khai sinh” [9].
1.1.2.4. Quy định về cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch
Quy định về cơ quan quản lý hộ tịch
Theo quy định của pháp luật, Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước ta là chủ thể quản lý cao nhất trong lĩnh vực hộ tịch,
“Chính phủ thống nhất quản lý cơng tác hành chính tư pháp, các hoạt động về
luật sư, giám định tư pháp, công chứng và bổ trợ tư pháp; tổ chức và quản lý
công tác thi hành án, quốc tịch, hộ khẩu, hộ tịch” [30]. Hoạt động của Chính
phủ thực hiện theo chế độ lãnh đạo tập thể, việc quản lý trên mỗi lĩnh vực cụ
thể đều phải thông qua các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thuộc cơ
cấu của Chính phủ như bộ và các cơ quan ngang bộ. Từ năm 1987 về trước,
Bộ Nội vụ là cơ quan giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện việc quản lý hộ tịch
thống nhất trên toàn quốc; từ năm 1987 đến nay, nhiệm vụ này được chuyển
giao cho Bộ Tư pháp và UBND các cấp trên cơ sở Nghị định số 219/HĐBT
ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
17
Hiện nay, hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch ở nước ta được tổ chức theo
nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Theo đó, tương ứng với
mỗi cơ quan quản lý thẩm quyền chung của một cấp hành chính (UBND) có một
cơ quan chun ngành cùng cấp (Sở Tư pháp, Phịng Tư pháp) có nhiệm vụ giúp
cơ quan quản lý thẩm quyền chung đó thực hiện việc quản lý hộ tịch.
So với mơ hình quản lý hộ tịch theo Nghị định 83/1998/NĐ-CP, điểm
khác biệt cơ bản của hệ thống quản lý hộ tịch theo Nghị định 158/2005/NĐCP thể hiện rõ ở sự bổ sung thêm chức năng đăng ký hộ tịch cho 2 cơ quan,
đó là Sở Tư pháp và UBND cấp huyện. Như vậy, hệ thống quản lý hộ tịch từ
chỗ chỉ có 3 cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch (theo Nghị định
83/1998/NĐ-CP) giờ đã gồm 5 cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ tịch:
- Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp là cơ quan được Chính phủ phân cấp quản lý hộ tịch thống
nhất trên cả nước. Để thực hiện sự phân cấp đó, Điều 75 Nghị định số
158/2005/NĐ-CP đã quy định 8 nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong
cơng tác quản lý hộ tịch, trong đó, bên cạnh những nhiệm vụ, quyền hạn vĩ
mơ, thể hiện tính chất đặc thù trong hoạt động quản lý nhà nước (soạn thảo,
trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn
bản QPPL về đăng ký và quản lý hộ tịch; hướng dẫn, chỉ đạo chung việc thực
hiện các văn bản QPPL về đăng ký và quản lý hộ tịch; ban hành, hướng dẫn
việc sử dụng thống nhất các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch; nghiên cứu việc
áp dụng công nghệ tin học trong đăng ký và quản lý hộ tịch; hợp tác quốc tế
về hộ tịch) cịn có những nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất tác nghiệp cụ
thể (kiểm tra, thanh tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch; tổng hợp tình hình và
số liệu thống kê hộ tịch báo cáo Chính phủ theo định kỳ hàng năm; giải quyết
khiếu nại, tố cáo về hộ tịch theo thẩm quyền).
- Bộ Ngoại giao và Cơ quan Ngoại giao, lãnh sự Việt Nam
Việc quản lý hộ tịch đối với bộ phận công dân Việt Nam ở nước ngoài
là một nội dung quan trọng trong công tác lãnh sự của các Cơ quan đại diện
18
Việt Nam ở nước ngoài. Để thực hiện quản lý hộ tịch đối với cơng dân Việt
Nam ở nước ngồi, Bộ Ngoại giao được giao các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra
việc thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch của các Cơ quan Ngoại giao, Lãnh
sự Việt Nam; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho viên chức Lãnh sự của
các Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam; lưu trữ sổ hộ tịch do các Cơ
quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam chuyển về; cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ
sổ hộ tịch; tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch của Cơ quan Ngoại
giao, Lãnh sự Việt Nam gửi cho Bộ Tư pháp theo định kỳ 6 tháng và hàng
năm; giải quyết khiếu nại, tố cáo về hộ tịch theo thẩm quyền [9].
Cơ quan Ngoại giao, lãnh sự Việt Nam có các nhiệm vụ, quyền hạn
trong quản lý nhà nước về hộ tịch như sau: Thực hiện đăng ký các việc hộ tịch
cho công dân Việt Nam ở nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp và Bộ
Ngoại giao; quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy
định của Bộ Tư pháp; lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; cấp bản sao giấy tờ
hộ tịch từ sổ hộ tịch; tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch báo cáo
Bộ Ngoại giao theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền [9].
- UBND cấp tỉnh và Sở Tư pháp
Hoạt động quản lý hộ tịch ở các địa phương được xác định là nhiệm vụ
của hệ thống UBND các cấp. Là cơ quan quản lý có thẩm quyền chung, trong
cơng tác quản lý hộ tịch, UBND cấp tỉnh có các nhiệm vụ sau: hướng dẫn,
chỉ đạo việc tổ chức thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đối với
UBND cấp huyện và UBND cấp xã; xây dựng hệ thống tổ chức đăng ký và
quản lý hộ tịch, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác hộ tịch; tổ
chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về hộ tịch; kiểm tra,
thanh tra việc đăng ký và quản lý hộ tịch trong phạm vi địa phương; giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền; quản
19
lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư
pháp; lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ
tịch; tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch, báo cáo Bộ Tư pháp theo
định kỳ 6 tháng và hàng năm; hàng năm bố trí kinh phí cho việc mua và in các
sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch, đáp ứng yêu cầu đăng ký hộ tịch ở địa phương;
trang bị cơ sở vật chất để phục vụ cho hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch;
quyết định việc thu hồi và huỷ bỏ những giấy tờ hộ tịch do Giám đốc Sở Tư pháp
và UBND cấp huyện cấp trái với quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
[9].
Như vậy, trong công tác quản lý hộ tịch, UBND cấp tỉnh được trao
quyền rất rộng rãi để bảo đảm hiệu quả quản lý hộ tịch tại địa phương mình.
Để giúp UBND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch,
Sở Tư pháp có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn trong lĩnh vực hộ tịch. Bởi vậy, có thể thấy, nhiệm vụ, quyền
hạn của Sở Tư pháp trong công tác quản lý hộ tịch gắn liền với nhiệm vụ,
quyền hạn của UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, pháp luật cũng có sự phân biệt
nhất định đối với nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch của
hai cơ quan này, đó là: đối với những việc thuần túy mang tính chất quản lý
(hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ…), Sở Tư pháp có quyền độc lập
tương đối và có thể chủ động tổ chức thực hiện; đối với việc đăng ký hộ tịch
thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh (đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi)
thì Sở Tư pháp chỉ có vai trị tham mưu, cịn việc thực hiện thẩm quyền đăng
ký hồn tồn thuộc UBND cấp tỉnh [9].
- UBND cấp huyện và Phòng Tư pháp
Trong lĩnh vực hộ tịch, UBND cấp huyện vừa có chức năng quản lý,
vừa có chức năng đăng ký hộ tịch. Các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp
huyện trong quản lý nhà nước về hộ tịch về cơ bản cũng tương tự như của
UBND cấp tỉnh nhưng giới hạn trong phạm vi địa bàn cấp huyện và hướng
20
xuống đối tượng quản lý là UBND cấp xã. Phòng Tư pháp là cơ quan chun
mơn có trách nhiệm giúp UBND cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn này.
- UBND cấp xã
Là cấp hành chính cơ sở, trực tiếp thực hiện việc đăng ký hộ tịch nên
các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã chủ yếu liên quan đến hoạt động
đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, ngoài hoạt động đăng ký hộ tịch, UBND cấp xã
còn thực hiện một số nhiệm vụ khác như: tuyên truyền, phổ biến, vận động
nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch; quản lý, sử dụng
các loại sổ, biểu mẫu hộ tịch; lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; cấp bản sao
giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch; tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch;
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền [9].
Quy định về cơ quan đăng ký hộ tịch
Trong toàn bộ hệ thống quản lý hộ tịch, có 4 cơ quan có thẩm quyền
đăng ký hộ tịch là UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã và Cơ
quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
Dựa trên các yếu tố thẩm quyền lãnh thổ và đối tượng đăng ký hộ tịch,
thẩm quyền đăng ký hộ tịch của các cơ quan nói trên được phân định như sau:
- UBND cấp xã có thẩm quyền đăng ký các loại việc hộ tịch phát sinh
trên địa bàn xã, bao gồm:
+ Đăng ký khai sinh; kết hôn; khai tử; giám hộ; nhận cha, mẹ, con cho
công dân Việt Nam cư trú ở trong nước; đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn,
nhận nuôi con nuôi;
+ Đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người dưới 14 tuổi và
thực hiện việc bổ sung hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi;
+ Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào
sổ đăng ký hộ tịch các việc về xác định cha, mẹ, con (trường hợp do Toà án
xác định); thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết hôn trái pháp luật;
21
+ UBND các xã thuộc khu vực biên giới còn được phân cấp thẩm
quyền đăng ký kết hôn, nhận cha, mẹ con giữa công dân Việt Nam thường trú
ở khu vực biên giới với công dân nước láng giềng thường trú ở khu vực biên
giới với Việt Nam [12].
- UBND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết đăng ký hộ tịch đối với
các loại việc sau:
+ Thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên;
+ Xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều
chỉnh hộ tịch đối với mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi;
+ Cấp lại bản chính Giấy khai sinh.
- Sở Tư pháp thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm
quyền đăng ký đăng ký khai sinh, khai tử, giám hộ có yếu tố nước ngoài và
ghi chú vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã đăng ký
trước cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi; cấp lại bản chính Giấy khai
sinh cho người nước ngồi và người Việt Nam định cư ở nước ngoài trước
đây đã đăng ký khai sinh tại Việt Nam.
- UBND cấp tỉnh có thẩm quyền đăng ký kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam
với nhau.
- Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam ở nước ngồi: có
thẩm quyền đăng ký các sự kiện hộ tịch cho công dân Việt Nam ở nước ngoài.
Sự phân định thẩm quyền đăng ký hộ tịch như trên bảo đảm mọi sự
kiện hộ tịch của công dân Việt Nam xảy ra ở trong nước hay nước ngoài đều
được đăng ký kịp thời. Theo sự phân cấp này, thì UBND cấp xã có vai trò
then chốt trong bộ máy quản lý hộ tịch, là nơi đảm nhiệm hầu hết khối lượng
công việc của đăng ký và quản lý hộ tịch, do đó, hiệu quả công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch của UBND cấp xã trực tiếp quyết định hiệu quả của toàn bộ hệ
thống quản lý hộ tịch.
1.1.2.5. Quy định về công chức Tư pháp - Hộ tịch
22
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật của nước ta, chức danh chuyên
môn này được gọi tên bằng những thuật ngữ khác nhau như “cán bộ tư pháp”
(Nghị định số 09/1998/NĐ-CP); “cán bộ tư pháp - hộ tịch” (Thông tư liên tịch
số 99/1998/TTLT-TCCP-BTC-BLĐTBXH), “cán bộ hộ tịch - tư pháp” (Nghị
định số 83/1998/NĐ-CP), “công chức Tư pháp - Hộ tịch” (Thông tư liên tịch
số 01/2009 /TTLT - BTP - BNV).
Theo quy định của Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của
Chính phủ quy định về cán bộ, cơng chức xã, phường, thị trấn và Nghị định
số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ
chính sách đối với cán bộ, cơng chức xã, phường, thị trấn thì cán bộ tư pháp hộ tịch là một trong bảy chức danh chuyên môn của UBND cấp xã.
Theo quy định tại điều 82, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, trong công
tác hộ tịch ở UBND cấp xã, công chức Tư pháp - Hộ tịch có các nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
+ Thụ lý hồ sơ, kiểm tra, xác minh và đề xuất với Chủ tịch UBND cấp
xã xem xét, quyết định việc đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này;
+ Thường xuyên kiểm tra và vận động nhân dân đi đăng ký kịp thời các
sự kiện hộ tịch. Đối với những khu vực người dân còn bị chi phối bởi phong
tục, tập quán hoặc điều kiện đi lại khó khăn, cán bộ cơng chức Tư pháp - Hộ
tịch phải có lịch định kỳ đến tận nhà dân để đăng ký những sự kiện hộ tịch đã
phát sinh;
+ Cán bộ Tư pháp hộ tịch phải chịu trách nhiệm trước UBND cấp xã về
những sự kiện hộ tịch phát sinh trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không
được đăng ký;
+ Sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ
Tư pháp;
+ Tổng hợp tình hình và thống kê chính xác số liệu hộ tịch để UBND
cấp xã báo cáo UBND cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và hàng năm.
23
+ Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định
của pháp luật về hộ tịch;
+ Giữ gìn, bảo quản, lưu trữ sổ hộ tịch và giấy tờ hộ tịch; khi thôi giữ
chức vụ phải bàn giao đầy đủ cho người kế nhiệm.
1.1.3. Vai trò của pháp luật về hộ tịch
Thứ nhất, pháp luật về hộ tịch tạo cơ sở pháp lý cho công tác đăng ký
và quản lý hộ tịch.
Vai trò đầu tiên phải kể tới là pháp luật hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý cho
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Như chúng ta đã biết, việc đăng ký và
quản lý hộ tịch có ý nghĩa rất quan trọng khơng chỉ với cơng tác quản lý nhà
nước mà cịn cả đối với việc bảo hộ các quyền dân sự của công dân. Về mặt
quản lý nhà nước, quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm theo dõi thực trạng và sự thay đổi về hộ tịch,
là phương tiện hữu hiệu để nhà nước quản lý dân cư. Thông qua việc đăng ký
các thông tin cơ bản của từng cá nhân, nhà nước xác định được các mối quan
hệ về quyền và nghĩa vụ của từng công dân, đồng thời, theo dõi được những
thay đổi trong dân cư như tình trạng sinh, tử, kết hơn, thơng qua đó phục vụ
cho việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, an ninh quốc phịng và chính
sách dân số, kế hoạch hố gia đình. Một hệ thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy
đủ, chính xác, được cập nhật kịp thời, thường xuyên sẽ là nguồn thông tin hết
sức quý giá, hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách xã hội có tính
khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội.
Đối với quốc gia có kết cấu dân cư đa dạng về thành phần dân tộc
như Việt Nam, quản lý hộ tịch cịn góp phần quan trọng vào việc thực hiện
chính sách dân tộc và chính sách phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh miền
núi, vùng sâu, vùng xa. Những thơng tin về tình hình dân cư có được qua
quản lý hộ tịch (giới tính, độ tuổi…) rất cần thiết đối với việc xây dựng
chiến lược con người, bảo vệ và phát triển cộng đồng dân tộc ít người, tổ
24
chức thực hiện tốt chính sách định canh, định cư, hỗ trợ đầu tư phát triển kinh
tế, xã hội có hiệu quả.
Thứ hai, pháp luật về hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền nhân
thân của công dân.
Pháp luật về hộ tịch là cơ sở pháp lý để nhà nước bảo hộ các quyền
nhân thân của cá nhân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và trong
chương III của BLDS như: quyền đối với họ tên, quyền xác định lại dân tộc,
quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn; quyền được nuôi con nuôi. Ở phương
diện này, thơng qua việc đăng ký hộ tịch chính là phương tiện để người dân
thực hiện, hưởng thụ các quyền nhân thân đó. Đồng thời, đăng ký hộ tịch còn
là căn cứ để nhà nước thừa nhận và bảo hộ các quyền dân sự của công dân và
chỉ khi được nhà nước thừa nhận, những sự kiện “cơ bản xác định tình trạng
nhân thân của một người” [9] mới có giá trị pháp lý và được nhà nước bảo
hộ. Các dữ liệu về căn cước của cá nhân thể hiện trên giấy tờ hộ tịch (giấy
khai sinh, giấy chứng nhận kết hơn...) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về
đặc điểm nhân thân của mỗi người, mà qua đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác có thể đánh giá người đó có khả năng, điều kiện để tham gia vào các
quan hệ pháp luật nhất định hay không.
Hành vi đăng ký khai sinh của cơ quan hộ tịch đánh dấu điểm khởi đầu
của hoạt động quản lý nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng là điểm
khởi đầu cho mọi mối quan hệ giữa cơng dân với nhà nước. Từ góc độ lý luận về
nhà nước và pháp luật, ở phương diện này có thể khẳng định, quản lý hộ tịch là
một lĩnh vực hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của nhà nước.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, việc các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật về hộ tịch thực hiện quản lý,
đăng ký hộ tịch chính là thực hiện bảo hộ đối với các quyền con người. Điều
này chỉ có trong các xã hội mà nền dân chủ được mở rộng và phát huy, khi mà
các giá trị quyền con người được nhà nước tơn trọng và có trách nhiệm bảo
25
hộ. Nhìn vào lịch sử có thể thấy, các triều đại phong kiến Việt Nam không tổ
chức quản lý hộ tịch vì mối quan hệ giữa vương quyền (Vua) với các “thần
dân” của mình về cơ bản là mối quan hệ một chiều, người dân chỉ có nghĩa
vụ đối với triều đình. Do đó, đối với nhà nước phong kiến, việc tổ chức quản
lý hộ tịch không được quan tâm.
Thứ ba, pháp luật về hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để cá nhân công dân
thực hiện quyền đăng ký hộ tịch của mình
Đăng ký hộ tịch là quyền của cơng dân. Để cơng dân có thể thực hiện
quyền này, pháp luật hộ tịch đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục đăng ký hộ
tịch một cách rõ ràng, minh bạch. Trên cơ sở đó, cá nhân có điều kiện để thực
hiện quyền của mình một cách thuận lợi nhất. Đối với bất kỳ thủ tục đăng ký
hộ tịch nào, pháp luật đều quy định rõ thẩm quyền giải quyết, thành phần hồ
sơ và trình tự, thủ tục nên cơng dân có thể dễ dàng thực hiện quyền đăng ký
hộ tịch, không mất thời gian đi lại nhiều lần và cũng khơng bị các cơ quan có
thẩm quyền đăng ký hộ tịch gây phiền hà, sách nhiễu.
Tóm lại, với với vai trò và tầm quan trọng của pháp luật về hộ tịch như
đã phân tích ở trên, có thể khẳng định, việc hoàn thiện pháp luật về hộ tịch là
rất cần thiết đối với việc đổi mới toàn diện và nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý hộ tịch của nhà nước ta hiện nay.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC TIÊU CHÍ HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỘ TỊCH
1.2.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về hộ tịch
Trên thực tế, các quan hệ xã hội ln ln vận động, địi hỏi các QPPL
cũng phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với sự vận động của các quan hệ xã
hội đó. Do đó, hồn thiện pháp luật là một trong những công việc thường
xuyên của bất cứ quốc gia nào. Thực tiễn hoạt động đăng ký và quản lý hộ
tịch ngày càng đa dạng, phức tạp nên pháp luật về hộ tịch cũng cần phải có sự
thay đổi để kịp điều chỉnh các quan hệ phát sinh, đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu