1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, đặc biệt từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở
cửa, ngành vận tải biển Việt Nam đã và đang phát triển nhanh chóng, thị
trường hàng hải Việt Nam đang dần mở rộng theo nhịp độ chung của xu thế
thương mại hóa khu vực và tồn cầu. Có thể nói, nền kinh tế đất nước hội
nhập là cơ hội phát triển lớn cho ngành hàng hải. Bên cạnh đó, hệ thống pháp
luật ngày càng hoàn thiện của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của ngành hàng hải. Các văn bản pháp luật như:
Hiến pháp, Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao
thông đường thủy nội địa… đã tạo ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp
hàng hải hoạt động ngày càng có hiệu quả. Tháng 6/1990, Bộ luật HHVN ra
đời, tạo nền tảng pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Cũng
trong thời gian này, Cục Hàng hải Việt Nam - cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành và Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) - doanh nghiệp
đại diện nhà nước kinh doanh vận tải biển, quản lý kinh doanh cảng biển và
dịch vụ hàng hải, được thành lập nhằm định hướng hoạt động ngành phù hợp
với chiến lược phát triển tổng thể.
Việt Nam cũng góp phần thể hiện quyết tâm chung của ngành hàng
hải quốc tế trong hoạt động đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải và bảo vệ môi
trường biển thông qua việc tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên của
Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO). Bên cạnh đó, Việt Nam và một số nước
trong khu vực đã cùng nhau thỏa thuận và ký kết các hiệp ước, các nguyên tắc
tăng cường hợp tác về duy trì hịa bình, ổn định, an tồn và an ninh hàng hải;
tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông; Tuyên
bố 6 điểm của ASEAN về biển Đông; và khẳng định phối hợp thúc đẩy việc
2
sớm hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đơng.
Lĩnh vực an tồn hàng hải là một trong ba nội dung quan trọng của hoạt
động quản lý nhà nước về hàng hải (an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và
phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường). Mọi hoạt động hàng hải dù đó là hoạt động
quản lý hay hoạt động kinh doanh cũng như các hoạt động hàng hải khác đều
sẽ không mang lại hiệu quả cao và thường phát sinh thiệt hại nếu cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan không thực sự quan tâm đến nội dung này. Từ đó cho
thấy, việc tạo lập hành lang pháp lý đảm bảo an toàn cho mọi hoạt động hàng
hải là vấn đề hết sức quan trọng.
Trong những năm qua, cùng với việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế song
phương cũng như đa phương về hàng hải nói chung, về an tồn hàng hải nói
riêng. Đối với hệ thống pháp luật quốc gia, Việt Nam cũng đã ban hành nhiều
văn bản QPPL điều chỉnh các vấn đề liên quan đến an toàn hàng hải. Đặc biệt,
Bộ luật HHVN là văn bản pháp lý được nhà nước ban hành khá sớm (năm
1990) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động quản lý nhà nước về an
toàn hàng hải cũng như hoạt động của các chủ thể khác liên quan đến an toàn
hàng hải. Sau khi Bộ luật HHVN có hiệu lực, các cơ quan có thẩm quyền đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật để quy định cụ thể, hướng dẫn thi hành Bộ
luật như: 21 Nghị định của Chính phủ, 14 Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ; 58 Thơng tư, Quyết định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải; 13 Thông
tư, Quyết định của Bộ trưởng các Bộ liên quan và 17 tiêu chuẩn, quy chuẩn,
quy phạm ngành. Trong số các văn bản nêu trên có một số nghị định, quyết
định đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu phát
triển, hội nhập của ngành hàng hải như: Nghị định số 13/CP về quản lý hoạt
động hàng hải tại cảng biển và các khu vực hàng hải ở Việt Nam; Nghị định
số 14/CP về đăng ký tàu biển và thuyền viên được ban hành cùng ngày
25/02/1994. Sau 15 năm thi hành Bộ luật HHVN năm 1990, để đáp ứng yêu
3
cầu của giai đoạn hội nhập quốc tế mới, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hàng
hải Việt Nam năm 2005, đồng thời các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã
ban hành hàng chục văn bản QPPL để quy định cụ thể các nội dung của Bộ
luật, trong đó có nhiều văn bản quy định về vấn đề an tồn hàng hải. Nhờ đó,
hệ thống các quy định pháp luật về an tồn hàng hải ngày càng tương thích
hơn với các văn bản pháp lý quốc tế cũng như thơng lệ quốc tế về an tồn
hàng hải và về cơ bản đã tạo được cơ sở pháp lý ngày càng thuận lợi cho hoạt
động của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hàng hải.
Tuy nhiên, so với yêu cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế nói chung,
của hoạt động hàng hải nói riêng, pháp luật về an tồn hàng hải của nước ta
cịn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Vẫn cịn tình trạng một số quy định của
pháp luật quốc gia chưa tương thích với các quy định pháp lý và thơng lệ
quốc tế. Pháp luật về an toàn hàng hải vẫn chưa đáp ứng yêu cầu toàn diện,
thống nhất, đồng bộ, phù hợp và khả thi. Mặc dù văn bản QPPL về hàng hải
và an toàn hàng hải rất nhiều nhưng vẫn còn thiếu một số quy định điều chỉnh
về quyền và trách nhiệm của các chủ thể liên quan. Một số vấn đề mới phát
sinh trong đời sống xã hội liên quan chưa được pháp luật về an toàn hàng hải
Việt Nam điều chỉnh...
Do những bất cập của pháp luật về an toàn hàng hải nên trong thực tiễn
hoạt động hàng hải vẫn cịn gặp nhiều khó khăn. Ở Việt Nam hiện nay, tình
hình an tồn hàng hải có nhiều diễn biến phức tạp, đã xảy ra một số vụ tai nạn
hàng hải giữa tàu cá và tàu biển, giữa tàu biển với tàu biển... gây tổn thất về
người, phương tiện và tài sản. Điển hình là các vụ tai nạn ở Quảng Ngãi,
Vũng Tàu và Nghệ An trong các tháng 9, 10 và 11/2013. Đặc biệt, với sự
biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra phức tạp, ngày càng gây hậu quả
nghiêm trọng. Cụ thể như sự nóng lên của trái đất, băng tan, nước biển
dâng, hiện tượng thời tiết bất thường, bão lũ, sóng thần, động đất, hạn hán
và giá rét kéo dài,... hoạt động của ngành hàng hải thế giới cũng như Việt
4
Nam khơng nằm ngồi sự tác động của biến đổi khí hậu bất thường này.
Đặc biệt, khi đội tàu thế giới phát triển nhanh chóng và bắt đầu hoạt động
thường xuyên tại các khu vực nhiều nguy hiểm, xác suất xảy ra tai nạn
cũng như mức độ nghiêm trọng của các tác động trên sẽ tiếp tục tăng. Nhận
thức rõ tầm quan trọng của vấn đề an toàn hàng hải với sự phát triển ngành
vận tải biển Việt Nam và để tăng cường cơng tác bảo đảm an tồn hàng hải
trong những năm tiếp theo, Bộ Giao thông vận tải đã yêu cầu các cơ quan,
đơn vị nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về bảo đảm trật
tự an toàn hàng hải. Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 03/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn tai nạn giao thông hàng hải và đường thủy nội địa; Thông tư số
19/2013/TT-BGTVT ngày 06/08/2013 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
về việc áp dụng Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên
biển... Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động hàng hải phát triển bền vững thì
hồn thiện pháp luật về an tồn hàng hải là một trong những yêu cầu cơ bản
và hết sức quan trọng.
Từ những phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật
về an toàn hàng hải là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay để tạo cơ sở hành
lang pháp lý vững chắc cho việc quản lý an toàn hàng hải và thực hiện pháp
luật về an tồn hàng hải được hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Chính vì những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài
“Hoàn thiện pháp luật về an toàn hàng hải ở Việt Nam” làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc xây dựng hoàn
thiện pháp luật HHVN đang trở thành yêu cầu cấp thiết đối với tiến trình phát
triển, hội nhập của kinh tế hàng hải, kinh tế biển nói riêng và nền kinh tế quốc
dân nói chung, đồng thời đáp ứng mục tiêu xây dựng hoàn thiện hệ thống
5
pháp luật nhà nước. Trong thời gian qua, một số nghiên cứu hoàn thiện pháp
luật về an toàn hàng hải đã được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân:
- “Những vấn đề cơ bản của pháp luật hàng hải Việt Nam”, Luật gia
Trần Thanh Minh, Nxb Giao thông vận tải, năm 2012. Ấn phẩm tập trung vào
phân tích q trình hình thành, phát triển, vai trị của pháp luật hàng hải Việt
Nam, những quy định của pháp luật HHVN về tàu biển, thuyền bộ, cảng biển,
luồng hàng hải, vận tải biển, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, dịch vụ và
bảo hiểm hàng hải… cùng với việc thực hiện pháp luật hàng hải và vấn đề
xây dựng hoàn thiện pháp luật HHVN.
- “Nghiên cứu các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh của ngành hàng
hải Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, PGS.TS Đinh Ngọc Viện,
Nxb Giao thông vận tải, năm 2002. Đề tài tập trung vào phân tích hiện trạng,
định hướng phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế, tổng quan về kinh doanh hàng hải, hoạt động của ngành hàng hải thế giới
và thực trạng hoạt động của ngành hàng hải Việt Nam.
- Báo cáo tổng hợp - rà soát Bộ luật HHVN do VCCI tiến hành năm
2013. Đây là bản báo cáo nằm trong hệ thống các báo cáo rà soát pháp luật
kinh doanh, trong đó đưa ra các đánh giá về tính phù hợp, thống nhất, đồng bộ
trong các quy định của Bộ luật HHVN với các văn bản pháp lý liên quan,
trong đó có những quy định liên quan đến vấn đề an toàn hàng hải.
- Luận án tiến sĩ “Các giải pháp phát triển đội ngũ quản lý trong doanh
nghiệp vận tải Việt Nam” của NCS Mai Khắc Thành, bảo vệ tại Trường Đại
học Hàng hải năm 2012. Luận án tập trung vấn đề phát triển đội ngũ quản lý
đối với các doanh nghiệp vận tải, trong đó có một số nội dung liên quan đến
đảm bảo an toàn hàng hải (như năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý trong vấn
đề đảm bảo quản lý rủi ro hàng hải).
- Bài viết “Nâng cao năng lực bảo đảm an ninh hàng hải” đăng trên
Website của Cục Hàng hải Việt Nam (27/8/2013). Bài viết tập trung phân tích
6
những thách thức hiện nay đối với an ninh và an toàn hàng hải và những
nhiệm vụ đặt ra đối với ngành hàng hải trong thời gian tới.
Ngồi ra cịn có hàng chục bài viết trên trang thơng tin điện tử của Cục
Hàng hải Việt Nam liên quan đến vấn đề an toàn hàng hải và những vấn đề
pháp lý đặt ra đối với vấn đề an tồn hàng hải.
Nhìn chung, các đề tài trên tập trung nghiên cứu, đánh giá, phân tích q
trình hình thành, phát triển, vai trị của pháp luật HHVN, những quy định của
pháp luật HHVN về tàu biển, thuyền bộ, cảng biển, luồng hàng hải, vận tải
biển, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, dịch vụ và bảo hiểm hàng hải, hoạt
động của ngành hàng hải thế giới và thực trạng hoạt động của ngành hàng hải
Việt Nam. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu, đánh giá trực tiếp không phải là
pháp luật về an tồn hàng hải và cách tiếp cận khơng đứng trên cơ sở lý luận
nhà nước và pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Từ việc nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và đánh giá thực
trạng việc thực hiện pháp luật về an toàn hàng hải, luận văn đề xuất và luận
giải một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về an toàn hàng
hải ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về an toàn hàng
hải như khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trị pháp luật an tồn hàng hải;
khái niệm, tiêu chí đánh giá mức độ hồn thiện pháp luật về an toàn hàng hải.
- Nghiên cứu những vấn đề chung của pháp luật về an toàn hàng hải
quốc tế và của một số quốc gia, rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật an toàn hàng
hải từ năm 1945 đến nay.
7
- Đánh giá thực trạng pháp luật về an toàn hàng hải, chỉ ra những mặt ưu
điểm cũng như những mặt còn hạn chế, những bất cập của pháp luật về an
tồn hàng hải.
- Phân tích các quan điểm và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về
an toàn hàng hải ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định, chế định pháp
luật điều chỉnh hoạt động của ngành hàng hải theo các quy định của Bộ luật
HHVN, các Công ước của Tổ chức Hàng hải quốc tế mà Việt Nam tham gia
ký kết và các văn bản dưới luật có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong việc nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật về an toàn hàng hải (quy định pháp luật trực tiếp về an toàn
hàng hải và các biện pháp thực hiện cơng tác an tồn hàng hải, quản lý nhà
nước về an toàn hàng hải).
Việc nghiên cứu luận văn căn cứ vào thực tiễn thực hiện pháp luật về an
toàn hàng hải chủ yếu từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
và hồn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về an tồn hàng hải nói riêng
trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phương pháp lịch sử, phương pháp luật học so sánh, phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, tổng kết thực tiễn…
8
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là một cơng trình khoa học nghiên cứu tương đối có hệ thống
về hồn thiện pháp luật về an tồn hàng hải, qua đó gợi mở một số vấn đề để
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các doanh nghiệp lưu tâm trong việc thực
hiện các Thông báo Kỹ thuật của Cục Đăng kiểm Việt Nam, các hướng dẫn
sửa đổi bổ sung Cơng ước mới về an tồn hàng hải của Cục Hàng hải Việt
Nam, thực hiện các Thông tư, các Nghị quyết của Tổ chức Hàng hải Quốc tế
(IMO), các Quy định của Chính quyền hành chính của Quốc gia tàu treo cờ,
đúng với nội dung và mục tiêu đã đề ra. Với định hướng đó, Luận văn có một
số điểm mới sau:
- Chỉ rõ những đặc điểm, nội dung, vai trị của pháp luật về an tồn hàng hải.
- Chỉ ra được những ưu điểm, cũng như những hạn chế, bất cập trong các
quy định của pháp luật cũng như việc thực hiện pháp luật về an toàn hàng hải.
- Nêu ra sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về an toàn hàng hải và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn hàng hải phù hợp với yêu cầu hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng pháp
luật, góp phần hồn thiện pháp luật về an toàn hàng hải ở Việt Nam.
Luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ trong việc nghiên cứu, giảng dạy
và học tập của cán bộ, giáo viên, sinh viên chuyên ngành An toàn Hàng hải,
đồng thời giúp cho bản thân tác giả làm tốt hơn nhiệm vụ và trách nhiệm của
mình với cơng việc được giao.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN HÀNG HẢI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRỊ CỦA PHÁP LUẬT
VỀ AN TỒN HÀNG HẢI
1.1.1. Khái niệm pháp luật về an toàn hàng hải
1.1.1.1. Khái niệm an toàn hàng hải
“Hàng hải” hay “ngành hàng hải” có nghĩa tiếng Anh là "Maritime". Nếu là
tính từ nó có nghĩa "Of, relating to, or adjacent to the sea", tức là "Thuộc về, liên
quan tới hoặc gắn kề với biển". Là danh từ, thuật ngữ “Maritime” được định nghĩa
như sau:
Hàng hải, theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động liên quan
đến lĩnh vực kinh doanh trên biển như: thiết kế, sản xuất đóng tàu,
gia cơng, cung ứng, sửa chữa/bảo dưỡng tàu biển hoặc những hoạt
động khác như quản lý/vận hành đường biển, bốc dỡ hàng hóa và
dịch vụ mơi giới hải quan, xưởng đóng tàu trên cạn, đường sắt liên
quan đến biển, dịch vụ hoa tiêu, bảo đảm hàng hải và những hoạt
động kinh doanh tương tự khác [47].
Từ định nghĩa trên sẽ thấy rằng ngành hàng hải là một lĩnh vực rất rộng,
bao gồm ngành đóng tàu, ngành vận tải biển, khai thác cảng cùng với các hoạt
động phụ trợ như đại lý môi giới, hoa tiêu, bảo đảm hàng hải và logistics...
Ngành hàng hải vơ cùng quan trọng đối với các quốc gia có biển và vô cùng
quan trọng với một số ngành công nghiệp khác như ngành cơng nghiệp quốc
phịng và cơng nghiệp dầu mỏ... Những ngành này nếu khơng có các hoạt
động hàng hải thì khơng thể tồn tại.
Để hoạt động hàng hải diễn ra thuận lợi và đạt kết quả như mong muốn thì
vấn đề an tồn hết sức quan trọng. An toàn là thuật ngữ được sử dụng khá phổ
10
biến, theo đó an tồn được hiểu là n ổn, trọn vẹn, không lo tai họa xảy ra.
Trong lĩnh vực hàng hải, an tồn hàng hải có thể hiểu là sự yên ổn, không đe dọa
gây ra tai nạn hay nguy hiểm đối với các hoạt động hàng hải. Có thể nói, hoạt
động hàng hải diễn ra trên/ven biển nên u cầu an tồn ln đặt ra hàng đầu đối
với mọi chủ thể và phương tiện tham gia lĩnh vực hoạt động quan trọng này.
1.1.1.2. Pháp luật về an toàn hàng hải
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế nhà nước, là yếu tố bảo đảm sự ổn định và trật tự xã hội.
Pháp luật về an toàn hàng hải là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói
chung, thể hiện ý chí của Nhà nước ta trong việc bảo đảm an tồn trong một
lĩnh vực đặc biệt của xã hội, đó là lĩnh vực hàng hải. Do điều chỉnh quan hệ
xã hội trong lĩnh vực hàng hải nói chung, an tồn hàng hải nói riêng bao gồm
cả các văn kiện pháp lý quốc tế đa phương cũng như song phương mà Việt
Nam tham gia ký kết hoặc phê chuẩn và các văn bản QPPL trong phạm vi
quốc gia, nên pháp luật về an toàn hàng hải gồm nhiều quy định khác nhau,
được thực hiện theo nguyên tắc về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia. Như vậy, có thể hiểu, pháp luật về an tồn hàng
hải là những quy định pháp lý của Nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến an
toàn hàng hải nhằm đảm bảo trật tự, an tồn, đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật trong lĩnh vực hàng hải cũng như hoạt động quản lý
nhà nước về an toàn hàng hải.
Pháp luật về an toàn hàng hải được thể hiện trong nhiều loại văn bản
pháp lý khác nhau, do nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành.
Ở góc độ văn kiện pháp lý quốc tế, hiện nay có rất nhiều văn bản pháp
11
lý liên quan đến an toàn hàng hải mà Việt Nam đã tham gia. Việt Nam là thành
viên thứ 63 của Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS 1982) từ
23/6/1994. Kể từ ngày trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hàng hải
Quốc tế năm 1984 đến nay, Việt Nam đã tham gia 20 Công ước và Nghị định
thư của IMO, trong đó có các Cơng ước cơ bản về an tồn, an ninh hàng hải
và phịng ngừa ô nhiễm môi trường như: Công ước quốc tế về an toàn sinh
mạng người trên biển (SOLAS 74/78) năm 1990. Cơng ước quốc tế về phịng
chống ơ nhiễm mơi trường biển từ tàu (MARPOL 73/78) phụ lục I, II năm
1991, Công ước quốc tế về tiêu chuẩn đào tạo, huấn luyện, cấp chứng chỉ và
trực ca (STCW 78/95) năm 1990, Cơng ước quốc tế về phịng tránh đâm va
trên biển (COLREG 72) năm 1990…
Về hệ thống văn bản QPPL trong nước về an toàn hàng hải, cho đến nay,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản khác nhau về
vấn đề này. Các loại văn bản bao gồm: Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Thơng tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Ngoài ra, ở cấp độ địa
phương, trong các văn bản QPPL của chính quyền địa phương có thể có
những quy định liên quan đến vấn đề an toàn hàng hải trên địa bàn quản lý của
từng địa phương.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về an toàn hàng hải
Là một lĩnh vực đặc thù trong pháp luật về hàng hải nói riêng và hệ thống
pháp luật nói chung, pháp luật về an tồn hàng hải có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật về an tồn hàng hải là lĩnh vực pháp luật có mối
liên quan mật thiết đến hệ thống pháp luật quốc tế.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc phê
chuẩn nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, trong đó có những văn kiện liên quan
đến hàng hải nói chung và an tồn hàng hải nói riêng. Ngay sau khi phê chuẩn,
12
tham gia các công ước quốc tế này, Bộ luật HHVN năm 1990 và các văn bản
dưới luật đã nội luật hóa các quy định của Cơng ước quốc tế để triển khai thực
hiện cho đội tàu biển, cảng biển Việt Nam và các đối tượng khác có liên quan
đến hoạt động hàng hải. Cùng với sự phát triển của ngành hàng hải, Tổ chức
Hàng hải Quốc tế đã sửa đổi bổ sung nhiều các quy định liên quan đến an
tồn, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường, Việt Nam cũng đã
hồn thiện sửa đổi Bộ luật HHVN năm 2005 và ban hành hầu hết các văn bản
hướng dẫn thi hành Bộ luật HHVN năm 2005 với 01 Pháp lệnh, 21 Nghị định,
14 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và hàng chục Quyết định hoặc Thông
tư cấp Bộ và một số quy chuẩn, tiêu chuẩn ngành. Các quy định về an toàn, an
ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường biển trong các điều ước
quốc tế được nghiên cứu và nội luật hóa để thực thi trong các văn bản pháp
luật của Việt Nam. Bộ luật HHVN là một bộ luật lớn bao trùm tất cả các hoạt
động hàng hải từ cảng biển, tàu biển, bảo hiểm, lai dắt, thuyền bộ…
Do đặc thù của hoạt động hàng hải là hoạt động mang tính quốc tế cao,
liên quan đến nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, do vậy, các
quy định của pháp luật về an tồn hàng hải khơng bó hẹp trong phạm vi
quốc gia mà có sự liên kết, quan hệ mất thiết không thể tách rời với các quy
định của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các quốc gia trong khu
vực và trên phạm vi toàn cầu. Điều này cho thấy tính chất đa dạng, đa diện
và phức tạp của pháp luật về an toàn hàng hải so với các lĩnh vực pháp luật
khác của đất nước. Đặc điểm này cũng đặt ra nhiều thách thức đối với việc
ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề
an toàn hàng hải của các cơ quan nhà nước cũng như việc thực thi pháp luật
của các bên liên quan.
Thứ hai, pháp luật về an toàn hàng hải là lĩnh vực pháp luật có mối
quan hệ khơng thể tách rời với các lĩnh vực liên quan như vấn đề an ninh
hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường trong hoạt động hàng hải.
13
An tồn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ô nhiễm môi trường
trong hoạt động hàng hải là ba nội dung quan trọng của hoạt động quản lý nhà
nước về hàng hải. Có thể khẳng định, mọi hoạt động hàng hải dù đó là hoạt
động quản lý hay hoạt động kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực cũng như các
hoạt động hàng hải khác đều sẽ không mang lại hiệu quả cao và thường phát
sinh thiệt hại, nếu tổ chức, cá nhân liên quan không thật sự quan tâm đến cả
ba nội dung quan trọng này.
Pháp luật HHVN điều chỉnh khá toàn diện, đầy đủ cả ba nội dung nêu
trên tại Bộ luật HHVN năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật
gồm Pháp lệnh, các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy
phạm do các cơ quan nhà nước ban hành theo thẩm quyền. Trong số các văn
bản QPPL hàng hải hiện hành, ngồi các văn bản có nội dung điều chỉnh riêng
về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường thì
phần lớn các văn bản còn lại dù với hàm lượng nhiều hay ít, tất cả đều có
những nội dung quy định liên quan đến ba nội dung này. Đặc biệt, trong phần
lớn nội dung điều chỉnh của Bộ luật HHVN năm 2005 thì tại các Chương đều
có các quy định liên quan đến an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng
ngừa ơ nhiễm mơi trường.
Mặt khác, hoạt động hàng hải thường liên quan đến yếu tố quốc tế nên
việc bảo đảm an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi
trường cũng khơng thể bỏ qua nghĩa vụ của quốc gia ven biển, quốc gia cảng
biển và quốc gia tàu mang cờ trong tổ chức thực hiện quy định của pháp luật
hàng hải quốc tế; đặc biệt là việc thực thi các Công ước của UN và IMO mà
Việt Nam là thành viên như UNCLOS 82, LOADLINE 66, TONNAGE 69,
COLREG 72, MARPOL 73/78, SOLAS 74/78, STCW 78/95 và sửa đổi 2010,
CLC 92, BUNKER 01, INMARSAT 76, SAR 79, SUA 88 với PROT. SUA 88
được sửa đổi năm 2005 và các điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan khác,
trong đó có Thỏa thuận TOKYO MOU về kiểm tra nhà nước cảng biển. Điều
14
này cho thấy, phần lớn trong số 14 Công ước quốc tế do IMO thông qua mà
Việt Nam là thành viên đều là những cơng ước có nội đung điều chỉnh chủ
yếu về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường
trong hoạt động hàng hải.
Thứ ba, pháp luật an toàn hàng hải là lĩnh vực liên quan đến nhiều đối
tượng khác nhau, nhiều quy định mang tính kỹ thuật, quy chuẩn, quy tắc...
nên được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Tính đa dạng, phức tạp trong quan hệ pháp luật hàng hải nói chung, quan
hệ pháp luật về an tồn hàng hải nói riêng đã dẫn đến tính đa chiều trong đối
tượng điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực này. Chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật an toàn hàng hải bao gồm cả các quốc gia; các tổ chức quốc tế; các
cơ quan quản lý nhà nước; các chủ thể kinh doanh của nhiều quốc gia khác
nhau; các lực lượng khác nhau liên quan đến biển, hải đảo (cảnh sát biển,
quân đội, hải quan); các cảng biển, bến tàu thuyền; các ngư dân... Mặt khác,
liên quan đến yếu tố an tồn hàng hải có nhiều vấn đề về kỹ thuật, định mức,
tiêu chuẩn... mang tính chuyên ngành (ví dụ: các tiêu chuẩn an toàn, đăng
kiểm). Do vậy, pháp luật về an toàn hàng hải được quy định trong nhiều văn
bản QPPL khác nhau, do nhiều cơ quan ban hành. Chỉ trong vòng hơn 5 năm
trở lại đây, cả nước ta đã có hơn 50 văn bản QPPL điều chỉnh trực tiếp những
vấn đề liên quan đến vấn đề an tồn hàng hải. Điều này cho thấy sự khó khăn,
phức tạp trong việc điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề an toàn hàng hải, nhất
là đối với Việt Nam, một đất nước gắn liền với biển. Có thể nói Việt Nam là
một quốc gia biển, bởi có bờ biển chạy dài hơn 3.200 km với hơn 1 triệu km 2
mặt nước với nhiều quần đảo và đảo quan trọng như Trường Sa, Hồng Sa,
Thổ Chu, Phú Quốc, Cơn Đảo… Nằm cận kề tuyến hành hải quốc tế quan
trọng từ Đông sang Tây, Bắc xuống Nam; nối liền nhiều trung tâm kinh tế lớn
của thế giới như Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore... Chính
vì vậy, vấn đề an tồn hàng hải nói riêng và những vấn đề liên quan đến hàng
15
hải, biển đảo nói chung đều hết sức có ý nghĩa đối với việc đảm bảo chủ
quyền cũng như phát triển kinh tế biển. Điều này cũng đặt ra đòi hỏi, trong
xây dựng pháp luật, bất cứ quy định pháp lý nào có liên quan đến lĩnh vực
hàng hải, biển, đảo v.v... thì đều phải đảm bảo yếu tố an tồn hàng hải, an ninh
hàng hải và bảo vệ mơi trường biển.
Thứ tư, pháp luật về an toàn hàng hải có mối quan hệ chặt chẽ với các
pháp luật liên quan khác thuộc hệ thống pháp luật.
Pháp luật về an tồn hàng hải có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều lĩnh vực
pháp luật khác, nhất là pháp luật về biển, biên giới quốc gia, thương mại, dân
sự, hải quan, an ninh, quốc phịng, y tế, tài ngun, mơi trường, đầu tư, xây
dựng, dầu khí, đường bộ, đường thuỷ nội địa, thuỷ sản và các pháp luật khác.
Do đó, sự phù hợp, thống nhất của pháp luật về an toàn hàng hải với Hiến
pháp và các pháp luật khác không những là yêu cầu bắt buộc mà còn là yếu tố
quan trọng, nhằm bảo đảm những nguyên tắc cơ bản về xây dựng hoàn thiện
hệ thống pháp luật nhà nước cũng như pháp luật về an tồn hàng hải nói
riêng. Hay nói cách khác, pháp luật về an tồn hàng hải không thể độc lập với
Hiến pháp và các pháp luật khác thuộc hệ thống pháp luật Nhà nước mà luôn
phải bảo đảm yêu cầu về sự phù hợp, thống nhất với Hiến pháp và pháp luật
nhà nước nói chung. Ngược lại, sự phù hợp và thống nhất giữa quy định của
pháp luật khác có liên quan với quy định của pháp luật về an toàn hàng hải
càng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong áp dụng pháp luật nhà nước nói chung
cũng như pháp luật về an tồn hàng hải nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tế cũng khơng tránh khỏi sự khác nhau giữa quy
định của pháp luật về an toàn hàng hải và quy định của pháp luật khác về
cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng hải. Để giải quyết sự bất cập
này, khoản 2 Điều 1 Bộ luật Hàng hải năm 2005 quy định "trường hợp có sự
khác nhau giữa quy định của Bộ luật HHVN với quy định của luật khác về
cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng hải thì áp dụng quy định của
16
Bộ luật này". Quy định này nhằm điều chỉnh đối với những trường hợp cụ thể
khi có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật HHVN năm 2005 với quy định
của các luật khác về cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng hải, hay
có thể gọi là điều chỉnh sự “xung đột pháp luật”. Điều này cho thấy, sự phù
hợp và thống nhất của pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản về xây
dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước cần được bảo đảm khi xây dựng
hoàn thiện pháp luật về an toàn hàng hải.
Thứ năm, pháp luật về an toàn hàng hải không được chế
định thành
một chương cụ thể mà được quy định rải rác
trong nhiều chương của Bộ luật Hàng hải Việt Nam.
Do hầu như mọi hoạt động hàng hải đều ít nhiều có liên quan đến vấn đề
an tồn hàng hải cho nên các quy định của Bộ luật HHVN cũng như của các
văn bản pháp luật có liên quan về an toàn hàng hải được xây dựng theo
phương thức lồng ghép. Phương thức này thể hiện ở chỗ, quan hệ pháp luật
hàng hải nào có liên quan đến vấn đề an tồn hàng hải thì các quy định về an
toàn được áp dụng trong lĩnh vực cụ thể đó. Chẳng hạn, chương quy định về
Thuyền bộ (Chương III, Bộ luật HHVN năm 2005) không trực tiếp quy định
về vấn đề an toàn hàng hải, nhưng trong một số điều khoản cũng có điều
chỉnh vấn đề này. Ví dụ: quy định về trách nhiệm của thuyền trưởng khi xảy
ra tai nạn. Hoặc ở Chương về Cảng biển (Chương IV, Bộ luật HHVN năm
2005) có quy định về an tồn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ
nhiễm mơi trường tại cảng biển. Tuy nhiên, nhìn chung, các quy định về an
toàn hàng hải được quy định tập trung ở một số chương (Mục 2: Đăng ký tàu
biển; Mục 3: Đăng kiểm tàu biển; Mục 5: An toàn hàng hải, an ninh hàng hải
và phịng ngừa ơ nhiễm môi trường thuộc Chương II về tàu biển; Chương IX
về Hoa tiêu hàng hải; Chương X về Lai dắt tàu biển; Chương XI về Cứu hộ
hàng hải; Chương XIII về Tai nạn đâm va).
17
Đặc điểm này cũng cho thấy sự khác biệt giữa cấu trúc của pháp luật về
an toàn hàng hải khác với pháp luật hàng hải của một số nước trên thế giới.
Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, các quy định về an toàn hàng hải của Việt
Nam được quy định chủ yếu trong một luật, đó là Bộ luật HHVN. Trong khi
đó, nhiều quốc gia khác, trong hệ thống pháp luật có nhiều luật điều chỉnh
từng lĩnh vực hoặc nhóm lĩnh vực riêng biệt như luật vận tải biển, luật dịch vụ
bổ trợ vận tải biển, luật giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ tàu, luật thuyền
viên, luật cảng biển, luật an toàn hàng hải, luật đăng ký tàu biển, luật phòng
ngừa đâm va tàu thuyền, luật bảo hiểm hàng hải, luật tố tụng hàng hải, luật
trọng tài hàng hải và các luật liên quan khác.
1.1.3. Nội dung của pháp luật về an toàn hàng hải
Pháp luật về an toàn hàng hải bao gồm nhiều nội dung, được quy định ở
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Có thể chia các nội dung này thành các
nhóm sau đây:
- Nhóm các quy định về nguyên tắc chung về bảo đảm an
tồn hàng
hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ô nhiễm
môi trường trong hoạt động hàng hải.
Pháp luật về an toàn hàng hải chú trọng đề cao vai trị bảo đảm an tồn
hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường trong hoạt
động hàng hải. Do đó, mọi hoạt động hàng hải cũng như các hoạt động liên
quan khác của tổ chức, cá nhân, tàu thuyền đều phải tuân thủ quy định của
pháp luật Việt Nam và các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là
thành viên về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm
mơi trường.
- Nhóm các quy định về tàu biển.
Các quy định về tàu biển liên quan đến an toàn hàng hải gồm việc đăng
ký tàu biển, đăng kiểm tàu biển nhằm đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối
18
với các chủ tàu cũng như chất lượng tàu biển. Đây là những vấn đề liên quan
mật thiết với việc đảm bảo an tồn hàng hải.
- Nhóm các quy định về thuyền bộ, bao gồm thuyền
trưởng và các thuyền viên.
Đây là các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hàng hải phổ biến và
thường xuyên, do đó cần sự điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật về an toàn
hàng hải quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của
thuyền trưởng, sỹ quan và các chức danh khác làm việc trên tàu biển để đảm
bảo an tồn hàng hải.
- Nhóm các quy định về cảng biển.
Cảng biển là nơi diễn ra nhiều hoạt động hàng hải và địi hỏi đảm bảo an
tồn hàng hải rất lớn. Do vậy, pháp luật về an toàn hàng hải điều chỉnh đối với
cảng biển gồm các vấn đề về xây dựng, khai thác, quản lý, tổ chức bộ máy
cảng biển cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể liên quan đến hoạt
động của cảng biển.
- Nhóm các quy định về hoa tiêu hàng hải, lai dắt tàu biển.
Hoạt động hoa tiêu hàng hải và dịch vụ lai dắt tàu biển là những hoạt
động liên quan chặt chẽ đến vấn đề an tồn hàng hải. Vì vậy, pháp luật về an
tồn hàng hải có các quy định liên quan đến các hoạt động này, bao gồm các
chủ thể tham gia, điều kiện, trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia các hoạt động này.
- Nhóm quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật hàng hải Việt Nam và các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là
thành viên liên quan đến bảo đảm an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và
phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường.
Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật HHVN và các
điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến bảo
đảm an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường là
19
nhiệm vụ quan trọng, là công cụ không thể thiếu đối với hoạt động quản lý
nhà nước về hàng hải. Các hoạt động này thực hiện theo quy định của Bộ luật
HHVN năm 2005, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật HHVN năm 2005
có liên quan, Luật Thanh tra 2011, Luật Xử phạt hành vi vi phạm hành chính
2012, pháp luật khác có liên quan và các cơng ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên như UNCLOS 82, SOLAS 74/78, MARPOL 73/78, STCW 78/95
được sửa đổi 2010, LOADLINE 66, TONNAGE 69, COLREG 72, CLC 92,
BUNKER 01, INMARSAT 76, SAR 79, SUA 88 với PROT. SUA 88 được
sửa đổi năm 2005 và các thỏa thuận giữa Việt Nam với các nước, tổ chức
quốc tế, tổ chức khu vực như ASEAN, APEC; đặc biệt là quy định của các
điều ước, thỏa thuận quốc tế về thực thi nghĩa vụ kiểm tra nhà nước cảng
biển, kiểm tra nhà nước tàu mang cờ và kiểm tra của quốc gia ven biển, trong
đó có Thỏa thuận TOKYO MOU về kiểm tra nhà nước cảng biển.
- Nhóm quy định về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải.
Tìm kiếm và cứu nạn hàng hải được pháp luật hàng hải Việt Nam quy
định tại Bộ luật HHVN năm 2005 và trong một số văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật như Nghị định số 95/2010/NĐ-CP ngày 16/9/2010 của Chính
phủ về cấp phép và phối họp hoạt động với lực lượng tìm kiếm cứu nạn nước
ngồi tại Việt Nam, Quyết định số 23/TTg ngày 23/10/1996 của Thủ tướng
Chính phủ về thành lập Ủy ban quốc gia tìm kiếm - cứu nạn trên khơng và
trên biển, Quyết định số 56/2005/QĐ-BGTVT ngày 28/10/2005 của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải về tổ chức và hoạt động của Trung tâm phối
hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam và các văn bản QPPL hàng hải
khác có liên quan. Hơn nữa, hoạt động tìm kiếm và cứu nạn hàng hải còn
được điều chỉnh theo quy định của SAR 79, UNCLOS 82 và các điều ước,
thỏa thuận quốc tế có liên quan khác mà Việt Nam là thành viên.
- Nhóm quy định về tai nạn đâm va.
Tai nạn đâm va là một trong các loại tai nạn hàng hải thường xảy ra do
20
đâm va giữa tàu biển với tàu biển, tàu biển với phương tiện thuỷ nội địa, tàu
biển với thuỷ phi cơ hoặc giữa các phương tiện thủy khác trên biển, trong
vùng nước cảng biển. Lịch sử hàng hải thế giới và ở Việt Nam nói riêng đã
ghi nhận nhiều vụ tai nạn đâm va đặc biệt nghiêm trọng, gây tổn thất rất lớn
về người, tàu thuyền, tài sản và môi trường. Vì vậy, pháp luật về an tồn hàng
hải có nhiều quy định pháp lý về vấn đề tai nạn đâm va và xử lý tai nạn đâm
va trong hoạt động hàng hải.
- Nhóm quy định về điều tra tai nạn hàng hải.
Tai nạn hàng hải bao gồm tất cả các loại tai nạn, sự cố xảy ra trong hoạt
động hàng hải và thường gây tổn thất lớn về người, tàu thuyền, tài sản, môi
trường. Lịch sử hàng hải thế giới và tại Việt Nam đã ghi nhận hàng ngàn vụ
tai nạn hàng hải khủng khiếp, gây hậu quả nặng nề về người do bị chết, mất
tích, bị thương; tàu biển bị phá hủy, chìm đắm, cháy, nổ, mắc cạn, mất tích,
hư hỏng; hàng hóa và hành lý bị phá hủy, chìm đắm, hư hỏng; cảng biển và
các cơng trình, thiết bị khác bị phá hủy, chìm đắm, hư hỏng, gây ách tắc giao
thông hàng hải và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng do dầu, hàng hóa, rác
thải, nước thải và các chất độc hại, nguy hiểm khác từ tàu biển.
1.1.4. Vai trị của pháp luật về an tồn hàng hải
Trong hệ thống pháp luật, pháp luật về an tồn hàng hải được hình thành
khá sớm, tương đối hồn thiện với sự thống nhất cao và có phạm vi điều
chỉnh rộng, đối tượng áp dụng đa dạng, vừa có tham khảo vận dụng pháp luật,
tập quán quốc tế về hàng hải. Vì thế, pháp luật về an tồn hàng hải đóng vai
trị hết sức quan trọng trên nhiều khía cạnh sau đây:
Một là, pháp luật về an toàn hàng hải góp phần thể chế hóa quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển hàng hải nói
riêng, kinh tế biển nói chung.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) trình
bày tại Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định:
21
Phát triển kinh tế ven biển, biển và hải đảo theo định hướng Chiến
lược biển đến năm 2020. Xây dựng hợp lý hệ thống cảng biển, các
khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị ven biển gắn với phát triển
công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, khai thác, chế biến dầu khí, vận
tải biển, du lịch biển. Phát triển mạnh kinh tế đảo, khai thác hải sản
xa bờ gắn với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền
vùng biển quốc gia [33, tr.203].
Quan điểm trên cho thấy, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng phát
triển kinh tế biển, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
thời gian tới. Tuy nhiên, mọi chủ trương, chính sách đều khó thực hiện có
hiệu quả nếu khơng có một hệ thống quy định của pháp luật tạo đảm bảo về
mặt pháp lý, trong đó có các quy định pháp luật về an toàn hàng hải. Hệ
thống quy định của pháp luật về an toàn hàng hải là căn cứ pháp lý quan
trọng để đảm bảo sự an toàn, một trong những yêu cầu hàng đầu của mọi
hoạt động kinh tế - xã hội. Mất an toàn trong hàng hải là lĩnh vực có nguy
cơ gây thiệt hại cao cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước. An tồn hàng hải cịn gắn bó mật
thiết với vấn đề an ninh hàng hải nói riêng, an ninh quốc gia nói chung, vấn
đề phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường biển... nên nếu khơng được đảm bảo thì
hệ lụy của sự mất an toàn trong lĩnh vực này là hết sức khó lường. Điều
này càng cho thấy vai trị khơng thể thiếu của pháp luật về an toàn hàng hải
đối với việc đảm bảo thực hiện Chiến lược biển của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian tới.
Hai là, pháp luật về an tồn hàng hải góp phần thúc đẩy phát triển
ngành hàng hải quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Pháp luật về an toàn hàng hải là một bộ phận quan trọng của pháp luật về
hàng hải của đất nước, vì thế, nó góp phần vào sự phát triển của ngành hàng
hải quốc gia, từ đó góp phần thúc đẩy các ngành, lĩnh vực kinh tế khác thuộc
22
nền kinh tế quốc dân cùng phát triển.
Trong sự phát triển của ngành hàng hải thì phát triển đội tàu vận tải biển
và xây dựng kết cấu hạ tầng hàng hải là những minh chứng cho sự tiến bộ
trong những năm gần đây. Đến hết năm 2011, đội tàu vận tải biển Việt Nam
có 1.691 tàu các loại, với tổng dung tích 4.434.551 GT và tổng trọng tải
7.476.269 DWT, trong đó có 650 tàu biển hoạt động quốc tế với tổng dung
tích gần 2 triệu GT. Nếu xét về số lượng, đội tàu thuộc sở hữu Việt Nam đứng
thứ 3/10 nước ASEAN, đứng sau 2 nước Singapore (1.329 chiếc) và
Indonesia (2.041 chiếc); xét về tổng trọng tải, đội tàu Việt Nam đứng thứ
4/10 nước ASEAN, đứng sau các nước Singapore (gấp 15 lần tổng trọng tải
đội tàu Việt Nam), Malaysia (2,9 lần), Philippine (1,8 lần). Tính riêng đội tàu
container, trong 5 năm (2007-2011), đội tàu container Việt Nam đã tăng gấp
đôi cả về số lượng và tổng trọng tải. Năm 2007, Việt Nam mới chỉ có 31 tàu
với tổng trọng tải 243.996 DWT (tương đương 15.487 TEU) thì năm 2011 đã
có 61 tàu với tổng trọng tải 669.538 DWT [45].
Kết cấu hạ tầng hàng hải và hệ thống cảng biển của nước ta nói riêng
ngày càng được phát triển mạnh cả về số lượng, quy mơ, chun dụng hóa và
hiện đại hóa theo khu vực, vùng miền. Tất cả các bến cảng và khu vực
chuyển tải thuộc hệ thống cảng biển ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu lưu
thông hàng hóa, hành khách trong nước và giữa Việt Nam với nước ngồi,
đặc biệt có một số cảng, bến cảng đủ điều kiện tiếp nhận tàu biển loại lớn,
hiện đại. Đến cuối năm 2012, có 39 cảng biển lớn, nhỏ với trên 190 bến
cảng có tổng chiều dài cầu cảng gần 42 km; năng lực thông quan gần 300
triệu tấn/năm và dự kiến đạt 290 triệu tấn hàng hóa thơng quan, tăng gần
11,8 lần so với năm 1990 [47].
Cùng với sự phát triển mạnh về đội tàu, hàng năm sản lượng hàng hoá do
tàu biển Việt Nam vận chuyển đều tăng và cuối năm 2012 dự kiến đạt gần
43,6 triệu tấn, tăng 12,6 lần so với năm 1990, trong đó vận tải trong nước gần
23
17,2 triệu tấn, vận tải quốc tế gần 26,4 triệu tấn [47].
Đội ngũ thuyền viên Việt Nam ngày càng được tăng cường cả về số
lượng cũng như chất lượng và đến cuối năm 2012, Việt Nam có tổng số gần
34,6 ngàn thuyền viên, trong đó có gần 2.150 thuyền trưởng, trên 2.200
máy trưởng và gần 3.400 sỹ quan các loại, hạng. Mặt khác, do thuyền viên
được đào tạo, huấn luyện theo quy định của pháp luật hàng hải Việt Nam,
Công ước STCW 78/95 và sửa đổi năm 2010 nên cơ bản đáp ứng được nhu
cầu trong nước cũng như xuất khẩu thuyền viên làm việc trên tàu biển nước
ngoài [47].
Các hoạt động của các loại hình dịch vụ hàng hải (đại lý, hoa tiêu, cung
ứng, lai dắt, giao nhận, môi giới, bảo hiểm, cứu hộ, logistics...) phát triển theo
hướng đa dạng hóa các thành phần kinh tế cùng tham gia. Đến cuối năm
2012, có gần 450 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải [34, tr.155].
Những kết quả trên sẽ khó đạt được nếu khơng có một hệ thống quy định
pháp luật về hàng hải nói chung, về an tồn hàng hải nói riêng.
Ba là, pháp luật về an tồn hàng hải góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia quan hệ pháp luật hàng hải.
Có thể nói, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hàng hải hết sức đa
dạng. Đó là các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các cơ quan quản lý nhà nước,
các doanh nghiệp, người du lịch, ngư dân...
Mỗi một chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật hàng hải như: vận tải
biển, khai thác, đánh bắt xa bờ, du lịch biển... đều có những lợi ích của riêng
mình. Tuy nhiên, lợi ích hợp pháp của các bên trong các quan hệ pháp luật
hàng hải có thể bị xâm phạm hoặc gây thiệt hại của bên kia hoặc bên thứ ba.
Nói cách khác, các chủ thể trong các quan hệ pháp luật hàng hải có thể gặp
bất trắc liên quan đến vấn đề an toàn hàng hải, như tai nạn đâm va, chìm tàu.
Trong trường hợp đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể chỉ có thể
được đảm bảo khi có các quy định của pháp luật về vấn đề an toàn hàng hải.
24
Các quy định về an toàn hàng hải, một mặt, ghi nhận địa vị pháp lý của các
chủ thể, tạo niềm tin, sự an tâm cho các chủ thể tham gia các hoạt động hàng
hải; mặt khác, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề bất trắc nảy sinh
trong hoạt động hàng hải. Chẳng hạn, khi có tai nạn đâm va xảy ra, các bên
căn cứ vào các quy định của pháp luật hàng hải về đâm va, về xác định lỗi,
xác định thiệt hại, trách nhiệm của bên gây thiệt hại v.v... để giải quyết.
Bốn là, pháp luật về an tồn hàng hải góp phần thúc đẩy hội nhập quốc
tế, đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trên biển.
Pháp luật về an toàn hàng hải và các điều ước, thỏa thuận quốc tế về
hàng hải mà nước ta là thành viên đã có tác động nhất định đối với quá trình
hội nhập quốc tế của đất nước. Bởi vì, với vai trị “đầu mối”, vừa có vị trí là
“cầu nối” của q trình lưu thơng hàng hóa, hành khách trong nước và giữa
nước ta với các nước trên thế giới, hoạt động hàng hải ln có mối liên kết
khăng khít với các hoạt động khác của nền kinh tế quốc dân. Thực tế cho thấy,
ngành hàng hải cơ bản đã đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập của nền kinh
tế, đặc biệt là trước đòi hỏi ngày càng tăng về bảo đảm lưu thơng hàng hóa,
hành khách trong nước và nước ngồi. Điều này khẳng định tính hiệu quả áp
dụng của pháp luật về an tồn hàng hải khơng chỉ đối với hoạt động hàng hải
mà cịn góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, trong đó có phát
triển kinh tế biển. Mặt khác, pháp luật về an toàn hàng hải cũng đã góp phần
nhất định vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là bảo đảm chủ quyền và
thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia về biển.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC TIÊU CHÍ HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN
TỒN HÀNG HẢI
1.2.1. Khái niệm hồn thiện pháp luật về an toàn hàng hải
Trên thực tế, các quan hệ xã hội ln ln vận động, địi hỏi các QPPL
cũng phải có sự điều chỉnh để phù hợp với sự vận động đó. Do vậy, hồn
thiện pháp luật là một trong những công việc thường xuyên của bất cứ quốc
25
gia nào. Thực tiễn hoạt động hàng hải nói chung, an tồn hàng hải nói riêng
ngày càng đa dạng, phức tạp và nhạy cảm nên pháp luật về an toàn hàng hải
cũng cần phải có sự thay đổi để kịp điều chỉnh các quan hệ phát sinh đáp ứng
đòi hỏi yêu cầu nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra. Việc nghiên cứu để hoàn thiện
pháp luật về an toàn hàng hải là nhu cầu tất yếu, đòi hỏi cũng phải bảo đảm
được những tiêu chuẩn và yêu cầu nhất định.
Hoàn thiện, xét dưới góc độ động từ, là làm cho điều gì đó tốt hơn. Từ
đó, có thể hiểu, hồn thiện pháp luật là làm cho pháp luật về một lĩnh vực nào
đó tốt hơn, hồn chỉnh hơn để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Với cách hiểu đó,
để hoàn thiện pháp luật về an toàn hàng hải, trước hết các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cần phải nhìn nhận đúng vị trí, vai trị của pháp luật về lĩnh
vực này trong hệ thống pháp luật nói chung. Sự ra đời của pháp luật về hàng
hải và an toàn hàng hải là nhằm đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo an toàn hàng
hải của các văn kiện pháp lý quốc tế về lĩnh vực này; đồng thời đáp ứng đòi
hỏi và yêu cầu của thực tiễn của các hoạt động hàng hải cũng như của công
tác quản lý về an toàn hàng hải của Nhà nước.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành xác định được thực
trạng của pháp luật về an toàn hàng hải thơng qua việc hệ thống hóa các quy
định của pháp luật về lĩnh vực này. Trước khi đánh giá thực trạng pháp luật, cần
xác định chính xác nội dung của pháp luật, nêu rõ sự cần thiết của việc hoàn
thiện pháp luật về an toàn hàng hải, đồng thời, phải xây dựng được các tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về an toàn hàng hải. Các tiêu chí đánh
giá này phải có tính khoa học, được xây dựng trên các tiêu chí hồn thiện pháp
luật nói chung, có tính đến yếu tố đặc thù của pháp luật về an toàn hàng hải.
Bên cạnh đánh giá về nội dung, cần phải đánh giá về mặt hình thức của
pháp luật về an toàn hàng hải, tức là các loại văn bản pháp luật có chứa đựng
QPPL về an toàn hàng hải. Một lĩnh vực pháp luật hoàn chỉnh là lĩnh vực mà
được điều chỉnh bằng các văn bản có giá trị pháp lý cao, được xây dựng bằng