Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở huyện thanh thủy, tỉnh phú thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.62 KB, 130 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011) Đảng ta xác định:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực [29, tr.208].
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân". Đó là bản chất dân chủ của nhà nước ta. Trong
chương 2 của Hiến pháp đã ghi nhận các quyền con người, quyền và nghĩa vụ
công dân. Pháp luật và dân chủ xã, phường, thị trấn đã ngày càng hồn thiện.
Vì thế thực hiện pháp luật dân chủ cũng chính là giữ được con ngươi của mắt
mình. Nó quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ý thức được tầm quan trọng đó, ngay từ khi lập nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Dân chủ là quý báu nhất”, “Thực hành dân chủ là chìa
khố vạn năng để có thể giải quyết mọi khó khăn”. C.Mác đã từng căn dặn:
Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp mà luật pháp
tồn tại vì con người. Ở đây, sự tồn tại của con người là luật pháp. Luận điểm
trên của C.Mác khẳng định mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật, vai trò của
pháp luật trong việc bảo đảm dân chủ. Những giá trị của dân chủ phải được
truyền tải trong nội dung của pháp luật, dân chủ phải trở thành tiêu chí và giá
trị cốt lõi của các quy phạm pháp luật, của hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay. Điều này khẳng định vai trò quan trọng mang tính
quyết định của pháp luật trong việc bảo đảm dân chủ và cũng là hiện thực hóa
các giá trị của con người, những khát vọng và giá trị nhân văn cao cả.



2
Trong suốt tiến trình đổi mới ở nước ta gần 30 năm qua, mục tiêu của
đổi mới về chính trị là xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân lao động - chủ thể sáng tạo của
cách mạng Việt Nam. Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà cịn là tiền đề của
tồn bộ cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước. Nó cịn là thước đo sự hoàn
thiện trong tổ chức và sinh hoạt Đảng cũng như là chuẩn mực để đánh giá sự
tiến bộ của tồn xã hội nói chung. Nhìn vào hệ thống pháp luật người ta cũng
có thể đánh giá được mức độ dân chủ của một chế độ chính trị và ngược lại
mức độ dân chủ cũng là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống
pháp luật và của q trình thực hiện pháp luật nói riêng.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, vấn đề dân chủ vẫn luôn được Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm. Đến nay, trước tình hình quốc tế và trong nước
có những biến đổi phức tạp, vấn đề dân chủ không chỉ là vấn đề nhạy cảm mà
cịn là vấn đề nóng hổi. Bởi kẻ thù luôn lợi dụng chiêu bài dân chủ để chống
phá nhà nước. Vì thế, chúng ta càng cần phải quan tâm sát sao vấn đề này.
Một trong những nội dung lớn của thực hiện dân chủ đó là dân chủ ở cơ sở cấp hành chính nhỏ nhất, gần dân nhất, trực tiếp thực thi pháp luật về dân chủ.
Do đó, cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thực tế cho thấy kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm
qua đã có những chuyển biến rõ rệt, xong vẫn cịn tình trạng nhiều lúc, nhiều
nơi, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm. Một số nơi, quyền làm chủ
của nhân dân, chất lượng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của đất nước, tỉnh
Phú Thọ nói chung và huyện Thanh Thủy nói riêng cũng có những bước phát
triển nhảy vọt trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội. Đời sống nhân
dân được nâng cao, hệ thống chính trị cơ sở ngày một hồn thiện trở thành
công cụ thực hiện dân chủ của người dân, vai trị chính quyền cơ sở được
khẳng định, hệ thống pháp luật được hoàn thiện và là cơ sở pháp lý thực hiện



3
quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, trước những địi hỏi của cơng cuộc
đổi mới, của q trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề thực hiện pháp
luật về dân chủ và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã cần được nghiên
cứu toàn diện để kiến nghị những giải pháp thiết thực thực hiện pháp luật về
dân chủ trên địa bàn huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ.
Đó là lý do để tác giả chọn “Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở
huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật
học chuyên ngành Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ và dân chủ cơ sở ở cấp xã không phải là một vấn đề
mới mẻ xong nó vẫn là một vấn đề rất đáng được quan tâm và ln mang tính
thời sự trong tiến trình đổi mới toàn diện của đất nước hiện nay. Vấn đề này
được tiếp cận ở nhiều phương diện khác nhau, ở nhiều chuyên ngành khoa
học khác nhau.
* Sách, báo, tạp chí
Dương Xuân Ngọc: “Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
Nguyễn Cúc: “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Các cơng trình này tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về dân
chủ ở cơ sở, nêu lên thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở xã,
một số giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay.
Hồng Chí Bảo: “Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thơn trong tiến trình
đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007; Vũ Hồng Cơng: “Xây dựng và
phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009.

Những tác phẩm này đã nêu rõ thành công, hạn chế trong xây dựng và
thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường


4
ở Việt Nam. Nêu ra những kinh nghiệm, khuyến nghị về triển khai thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay.
Hồng Chí Bảo - Tống Đức Thảo: “Mối quan hệ giữa dân chủ và văn
hoá pháp luật. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội, 2011.
Tác phẩm làm rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa dân chủ và với pháp luật
nói chung và văn hố pháp luật nói riêng, những giải pháp nhằm đảm bảo dân
chủ và nâng cao văn hố pháp luật ở nước ta hiện nay.
Ngồi ra vấn đề dân chủ, thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở cấp xã còn
được đề cập đến trong các luận văn, luận án và đề tài khoa học.
- Hồng Chí Bảo: “Dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam”, Tạp chí Thơng tin lý luận, số 7-1989.
- Hồng Chí Bảo: “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ:
Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Thơng tin lý luận,
số 9-1992.
- Quách Sĩ Hùng: "Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ
cơ sở ở nước ta hiện nay", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6-2009.
- Trần Quang Nhiếp: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một hệ giải pháp
đồng bộ thống nhất”, Báo Đại Đoàn kết, ngày 1-12-1997.
- Hoàng Văn Hảo: “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mơ hình tổng
thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 2/2003.
- Tống Đức Thảo - Vũ Thị Loan: “Xây dựng cơ chế giám sát của nhân
dân đối với quyền lực nhà nước - Nhiệm vụ trọng đại của Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992”, Tạp chí Gáo dục lý luận, số 203/2013.

- Lưu Minh Trị: “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở nơng
thơn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ,
1993.


5
- Nguyễn Văn Long: “Lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức
pháp luật cho nơng dân Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ, 2002.
- Trần Quốc Huy: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt
Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội, 2005.
- Lê Xuân Huy: Ý thức pháp luật với q trình thực hiện dân chủ ở
nơng thôn nước ta hiện nay (Qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn thạc
sĩ Triết học, 2005.
- Vương Ngọc Thịnh: “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật, 2010.
Có thể thấy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về dân chủ, dân chủ
ở cơ sở với phạm vi nghiên cứu khác nhau. Các cơng trình trên cũng đã làm
rõ những vấn đề về lý luận chung cũng như thực tiễn thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên những địa phương cụ thể. Xong trên địa bàn huyện Thanh
Thuỷ, tỉnh Phú Thọ chưa có đề tài nào nghiên cứu về lĩnh vực trên, do đó để
làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
ở cấp xã cần có một đề tài nghiên cứu khoa học.
Những kết quả nghiên cứu trên cơ sở đưa nghiên cứu tham khảo kế thừa
để thực hiện đề tài: Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở huyện Thanh
Thuỷ tỉnh Phú Thọ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân
chủ cấp xã ở huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất những quan
điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở

huyện Thanh Thuỷ tỉnh Phú Thọ đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên đây, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:


6
- Làm rõ những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở huyện
Thanh Thuỷ (Phú Thọ), thành công, hạn chế, nguyên nhân.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện
pháp luật về dân chủ cấp xã ở huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tập trung chủ yếu vào sự nghiên cứu dân chủ và pháp luật dân chủ cơ
sở (cấp xã) bao hàm các nội dung và các hình thức thực hiện pháp luật dân
chủ ở cấp xã, các bảo đảm thực hiện dân chủ ở cấp xã.
- Khảo sát đánh giá thực tế thực hiện dân chủ ở cấp xã. Xác định các
quan điểm giữa pháp luật dân chủ ở cấp xã ở huyện Thanh Thủy.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi đối tượng nghiên cứu đã nêu ở trên phạm vi không gian
được khuôn lại ở tỉnh Phú Thọ, trọng điểm là khảo sát thực tiễn ở huyện
Thanh Thủy.
Về phạm vi thời gian: Luận văn đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật
dân chủ cấp xã ở huyện Thanh Thủy từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luậnvà phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về nhà nước và pháp
luật, về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp


7
định tính và định lượng, phương pháp so sánh và các phương pháp chuyên
ngành để giải quyết những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
- Làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã ở huyện
Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ (cả về thành tựu và những hạn chế bất cập và
nguyên nhân của tình hình).
- Xác định rõ được hệ quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật dân chủ cấp xã có tính khả thi để phát huy dân chủ cấp xã ở huyện
Thanh Thuỷ (Phú Thọ) trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ


1.1.1. Khái niệm dân chủ
Ngày nay, dân chủ là một thuật ngữ khá quen thuộc trong đời sống
chính trị - pháp lý. Bản thân nó là từ ghép của hai từ “dân” và “chủ” cũng đã
thể hiện rõ ràng ý nghĩa của nó đó là dân là chủ. Thuật ngữ “dân chủ” cũng
được nghiên cứu ở nhiều phương diện khác nhau: chính trị, pháp luật, văn
hóa, thậm chí cả lĩnh vực kinh tế, xã hội. Thuật ngữ dân chủ đã xuất hiện từ
rất sớm vào thời cổ đại. Nhà sử học, nhà chính trị Herodot (484-425 tcn) là
người đầu tiên đưa ra khái niệm dân chủ khi ơng xem xét các thể chế chính trị
trong lịch sử. Theo ông, lịch sử đã xuất hiện 3 kiểu thể chế chính trị: quân
chủ, quý tộc và dân chủ. Trong đó, dân chủ là thể chế mà quyền lực do nhân
dân nắm giữ thông qua con đường phổ thông đầu phiếu. Thời kỳ Hy Lạp cổ
đại là điển hình của nền chủ cổ đại. Trong ngơn ngữ Hy Lạp xuất hiện thuật
ngữ: "Democratia" là từ ghép của từ “Demos” là dân và từ “Cratos” có nghĩa
là quyền lực, như vậy nguyên nghĩa của nó là quyền lực thuộc về nhân dân.
Thuật ngữ “dân chủ” có nội hàm rộng, nó được nghiên cứu ở nhiều phương
diện khác nhau. Về phương diện triết học, dân chủ là một phạm trù của triết
học, là một yếu tố của thượng tầng kiến trúc trong xã hội có giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Về phương diện chính trị học, dân chủ là một thể chế chính trị
với nguyên tắc tổ chức và hoạt động thừa nhận quyền lực tối cao thuộc về
nhân dân. Về phương diện pháp lý, dân chủ là những chế định của pháp luật
được nhà nước ban hành nhằm đảm bảo thực hiện quyền lực tối cao của nhân
dân. Dân chủ là khát vọng của loài người tiến bộ, "vừa là đòi hỏi khách quan
vừa là kết quả của quá trình nhận thức, vừa là kỹ năng, vừa là một giá trị, dân
chủ làm cho con người tự làm chủ cuộc sống của mình, phát huy tối đa mọi


9
năng lực cá nhân, góp phần tích cực thúc đẩy cộng đồng phát triển" [66]. Có
người đã nhận định "dân chủ là cơng cụ để tối đa hóa tự do thực sự cho con

người". Dân chủ là thành tựu của lịch sử lồi người tiến bộ. Nó là một vấn đề
bao qt và ln có tính thời sự cấp bách. Theo Dahl, thuyết tối thiểu thì “lý
thuyết dân chủ là quan tâm đến q trình mà theo đó các cơng dân bình
thường thực thi ở một mức độ khá cao, quyền kiểm sốt các nhà lãnh đạo”
[82]. Trong Thơng điệp chúc mừng năm mới của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng năm 2014 qua bài viết “Hoàn thiện thể chế, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2014, tạo nền tảng phát triển
nhanh và bền vững” đã nhấn mạnh “Dân chủ là xu thế khách quan trong tiến
trình phát triển của xã hội lồi người. Từ chế độ nô lệ lên chế độ phong kiến
và từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản là những bước tiến dài về dân
chủ…” [21]. Dân chủ càng phát triển thì nhân dân càng có quyền lực, quyền
lực nhà nước càng có được sự kiểm sốt. “Phải hiểu thực hiện dân chủ phát
huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có tính quy luật của xã hội loài
người. Chúng ta đều biết, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử
con người vươn lên làm chủ không ngừng” [21, tr.39].
Luận văn tập trung nghiên cứu dân chủ ở phương diện pháp luật, đây là
nội dung lớn của vấn đề dân chủ. Dân chủ có mối liên hệ mật thiết với pháp
luật. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã khẳng định "dân chủ và nhà nước
pháp quyền là cặp "song sinh" trong thể chế chính trị hiện đại".
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đi đôi với luật pháp xã hội chủ
nghĩa. Xã hội chủ nghĩa là một xã hội được tổ chức trên cơ sở luật
pháp. Pháp luật là cái thực hiện và là cái đảm bảo cho quyền làm
chủ của nhân dân lao động và là công cụ để quản lý xã hội. Thiếu
pháp luật sẽ khơng có dân chủ và một xã hội càng dân chủ bao nhiêu
thì lại càng phải có luật pháp, kỷ cương và trật tự bếnh nhiêu [51].
Đó là mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương. Nhà nước pháp quyền
phải thượng tôn pháp luật, pháp luật phải đảm bảo được công lý và lẽ phải.


10

Có người đã nhận định "dân chủ là cơng cụ để tối đa hóa tự do thực sự cho
con người".
Lịch sử văn minh nhân loại và lịch sử phong trào xã hội chủ nghĩa
trên thế giới đã để lại nhiều bài học về dân chủ đối với tiến bộ xã hội.
Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ
lịch sử lâu dài, nhất là đối với các quốc gia cịn ở trình độ phát triển
thấp về kinh tế, văn hóa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã giành được những thành tựu to
lớn, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định trong thực tiễn.
Vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế,
chính sách để tạo động lực phát triển cho dân chủ cơ sở, đưa nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa của chúng ta phát triển không ngừng [71].
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ:
Khái niệm dân chủ đã được rất nhiều học giả trên thế giới nghiên cứu
bình luận ở nhiều phương diện khác nhau. Đặc biệt là các học giả tư sản luôn
đề cao chế độ tư bản chủ nghĩa, họ coi đó là chế độ dân chủ nhất, ưu việt nhất.
Song chính Mác - Ăngghen đã vạch ra bản chất của nền dân chủ tư sản. Đó
chỉ là nền dân chủ giả tạo, dân chủ của thiểu số những kẻ có tiền, chứ khơng
phải một nền dân chủ rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân. Một mặt ông phê
phán dân chủ tư sản giả tạo, mặt khác ông cũng khẳng định muốn xây dựng một
nền chun chính vơ sản phải bằng bạo lực cách mạng. Ăngghen viết trong
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản là "tạo ra một chế độ dân chủ nhờ đó
mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vơ sản"
[53]. Tiếp thu quan điểm của C.Mác - Ăngghen, Lênin cũng đã khẳng định:
Chế độ dân chủ tư sản trong khi trịnh trọng tuyên bố quyền bình
đẳng giữa tất cả mọi cơng dân, trên thực tế đã che đậy một cách giả
nhân giả nghĩa sự thống trị của bọn tư bản bóc lột và đã lừa dối quần
chúng để làm cho họ tin rằng có thể có bình đẳng thực sự giữa
những kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Tính chất nhà nước theo kiểu



11
Xô viết đập tan lời dối trá ấy và sự giả nhân giả nghĩa ấy bằng cách
thể hiện một nền dân chủ thực sự, nghĩa là thể hiện một sự bình
đẳng thực sự giữa hết thảy những người lao động cịn bọn bóc lột thì
bị loại ra khỏi số những thành viên có đầy đủ quyền hạn trong xã
hội [49, tr.113].
Như vậy, cả C.Mác, Ăngghen và Lênin đều đã rất trăn trở về dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Đó phải là một nền dân chủ thực sự và đó là công cụ hữu
hiệu để giai cấp vô sản chống lại nền dân chủ giả tạo của giai cấp tư sản.
C.Mác, Ăngghen đã nói: Dân chủ vơ sản phải khác hồn tồn với nền dân chủ
trước đó. "Trong chế độ qn chủ chúng ta có nhân dân của chế độ nhà nước
cịn trong chế độ dân chủ chúng ta có chế độ nhà nước của nhân dân". Ông
cũng từng khẳng định:
Dưới chế độ dân chủ không phải con người tồn tại vì luật pháp mà
luật pháp tồn tại vì con người, ở đây sự tồn tại của con người là luật
pháp trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà
nước con người lại là tồn tại được quy định bởi luật pháp. Dấu hiệu
cơ bản đặc trưng của chế độ dân chủ là như vậy [52, tr.350].
Lênin cũng khẳng định:
Muốn xây dựng nền dân chủ vô sản thì phải biến nó thành hiện thực
chứ khơng phải là hữu danh vô thực như nền dân chủ tư sản. Nhìn
chung mà nói, sự khác nhau giữa chế độ dân chủ tư sản đại nghị và
chế độ dân chủ Xô viết hay vô sản chung quy là ở chỗ trọng tâm của
chế độ dân chủ tư sản là tuyên bố một cách trịnh trọng và huyênh
hoang đủ mọi thứ tự do và quyền lợi nhưng trên thực tế lại không để
cho chính đại đai số dân cư tức là cơng nhân và nơng dân được
hưởng dù chỉ là chút ít thứ tự do và quyền lợi ấy. Trái lại, trọng tâm
của chế độ dân chủ vô sản hay Xô viết không phải là ở chỗ tuyên bố
những quyền lợi và tự do cho toàn thể nhân dân mà là ở chỗ thực sự

đảm bảo cho chính quần chúng lao động trước kia bị tư bản áp bức,


12
bóc lột được thực sự quam gia quản lý nhà nước….Như vậy, một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của chính quyền Xơ viết mà
chính quyền đó phải tiếp tục một cách kiên định là làm cho những
người lao động và những người bị bóc lột có thể thực sự hưởng được
những phúc lợi của nền văn hóa văn minh và dân chủ [45, tr.116].
Lênin cũng đưa ra những luận điểm sắc sảo để thực hiện một cách có
hiệu quả về dân chủ:
Không phải là sự tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và sắc lệnh về dân
chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm, thực hiện chế độ dân chủ
cho những người đại diện nhân dân trong những cơ quan đại biểu là
đủ. Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào
sáng kiến của bản thân quần chúng với sự tham gia thực sự của quần
chúng vào tất cả đời sống của nhân dân [45, tr.336-337].
Người cũng nhấn mạnh: “dân chủ là sự thống trị của đa số, chừng nào
mà ý chí của đa số vẫn cịn mờ tối, chừng nào mà người ta vẫn có thể dù chỉ
là hơi giống như thế thơi cho ý chí đó là cịn mờ tối thì chừng đó người ta vẫn
cịn đưa ra cho nhân dân một chính phủ của bọn tư sản phản cách mạng dưới
chiêu bài chính phủ dân chủ” [46, tr.515]. Như vậy, C.Mác, Ăngghen và
Lênin đều đã đưa ra những quan điểm sâu sắc về dân chủ vơ sản. Đó phải là
một nền dân chủ thực sự khác biệt về bản chất so với dân chủ trước đó. Nền
dân chủ đó phải là nền dân chủ đa số, dân chủ triệt để, khơng phải hơ hào, và
ở đó người dân phải làm chủ nhà nước, phải được tham gia mọi hoạt động của
đời sống chính trị, có quyền bãi miễn chính quyền do chính họ bầu ra.
Mọi cơ quan được bầu ra hay mọi hội nghị đại biểu đều có thể coi là
có tính chất dân chủ chân chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân
dân khi nào quyền bãi miễn của cử tri đối với những người trúng cử

được thừa nhận và được áp dụng. Nguyên tắc cơ bản đó của dân chủ
chân chính… khơng chịu áp dụng quyền bãi miễn, trì hỗn thực hành
quyền đó, hạn chế nó, thì như thế tức là phản dân chủ [47, tr.126].


13
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất về nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó trước hết là nền dân chủ thực sự, dân chủ của tuyệt
đại đa số nhân dân lao động, người dân bầu ra nhà nước, và có quyền bãi miễn
đại biểu do chính mình bầu ra. Đó là nền dân chủ triệt để, xóa bỏ mọi áp bức bất
công, "người dân thực sự tham gia quản lý nhà nước chứ không phải là trên
quyền quản lý ấy chủ yếu vẫn nằm trong tay những đại biểu của giai cấp tư sản
như trong các nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất" [49, tr.112].
- Tư tưởng dân chủ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc:
“Đối với Việt Nam, vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ mang ý nghĩa
thời sự mà còn là một sự tiếp nối truyền thống phát huy sức mạnh của dân chủ
được hình thành trong lịch sử đấu tranh mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước” [30]. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói “Trong lịch sử lâu đời
của dân tộc, làng ta là điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng của mọi người, cuộc
sống đa dạng và phong phú, vừa có tính đẳng cấp phong kiến, vừa có tính
cộng đồng rất đáng q. Lúc bấy giờ, câu nói “Phép vua thua lệ làng” có cái
đạo lý chân chính của nó, chừng nào thể hiện một dạng dân chủ mà phải biết
nhìn với con mắt lịch sử thì mới thấy hết ý nghĩa độc đáo” [32].
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, tư
tưởng dân chủ vẫn luôn hiện hữu trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của người dân Việt. Mặc dù, trước đây, dưới chế độ quân chủ phong kiến,
vị trí tối thượng là nhà vua - người được coi là thay mặt trời để trị dân,. Vua là
người có quyền lực tối cao. Xong trong những triều đại phong kiến tiến bộ
như đầu triều Lý, Trần. Những vị vua anh minh đã sớm nhìn thấy vị trí, sức
mạnh của nhân dân và đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Những vị vua

anh minh như vua Lê Thánh Tông thương dân như con. Năm Nhâm Thìn
(1052), vua Lý Thái Tơng cho đặt lầu chng ở sân rộng, ai có oan ức thì vào
đánh chng để kêu nhà vua. Theo gương đó, năm Ất tỵ (1725), đời vua Lê
Dụ Tông, chúa Trịnh cho yết bảng để dân được phản ánh những việc làm tốt
xấu của quan lại địa phương và bày tỏ nỗi oan ức của mình. Thời vua Trần


14
cho triệu tập Hội nghị Diên Hồng để cùng nhân dân bàn ra kế sách đánh giặc.
Sau này, Trần Quốc Tuấn đã tổng kết nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên là do triều đình thực hiện chính sách "khoan thư
sức dân" làm kế sâu rễ bền gốc, vua tơi đồng lịng, anh em hịa mục, cả nước
giúp sức đã mang đến thắng lợi vẻ vang cho quân dân nhà Trần ba lần chiến
thắng quân Nguyên Mông một đế quốc hùng mạnh nhất lúc đó. Đến thời Lê
Lợi, Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định sức mạnh của nhân dân "chở thuyền là
dân mà lật thuyền cũng là dân".
Năm Tân Sửu (1841), khi vua Thiệu Trị mới lên ngôi, giám sát ngự
sử Lưu Qũy và Nguyễn Binh Đức dâng sớ lên tâu trình vua 10 điều
sách trị nước, được vua tâm đắc thưởng lụa và phong chức. Trong tờ
sớ có điều: chăm sóc đời sống nhân dân, vì dân là gốc của nước, gốc
có vững thì nước mới yên, việc nào ảnh hưởng xấu tới dân, của cải
của dân thì khơng nên vội làm để dân được n nghiệp, thận trọng
và cơng bằng trong dùng hình phạt [64].
Mặc dù trong tư tưởng phong kiến, vua là người có quyền lực tối cao,
vua có quyền định ra luật lệ và thi hành luật lệ đó theo ý chí của mình, khơng cần
hỏi ý kiến của người dân. Tuy nhiên, các vị vua anh minh muốn xây dựng đất
nước bền vững, hùng mạnh luôn nhận ra sức mạnh của nhân dân. Và ngược lại
nếu như chỉ duy trì quyền lực độc đốn, khơng coi trọng người dân thì vị vua đó
sẽ sớm bị lịch sử thay thế. Nhà sử học Phạm Văn Sơn cũng đã tổng kết
các vua chúa mất ngai vua, nghiệp bá, các nhà chính trị gục ngã trên

nẻo đường danh vọng xưa nay khơng ngồi lý do thất nhân tâm. Ta
hiểu thất nhân tâm là mất lòng dân… Họ Hồ đã không hấp thụ được
bài học thân dân và dân vận của trần triều thủa trước, có lẽ vì khơng
để ý đến nhân dân, có lẽ ơng cho rằng chỉ cần hướng mọi công cuộc
cải cách quốc gia về quyền lợi đại chúng là đủ [73, tr.240].
Như vậy có thể nói, dân chủ là tư tưởng xuyên suốt lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở thời kỳ nào, nhà nước


15
biết phát huy sức mạnh của nhân dân thì ở đó đất nước bình n, thịnh vượng
và ngược lại.
- Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ:
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, và tiếp thu kinh nghiệm quý
báu trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng vĩ đại của dân tộc, ngay từ khi lập nước
đã sớm đề cao vai trị của nhân dân, chú trọng dân chủ, coi đó là trái tim của
chế độ xã hội chủ nghĩa. Không khi nào, không ở đâu, Người không trăn trở
về dân chủ. Người sớm nhận thức được sức mạnh vô song của quần chúng
nhân dân, Người cũng nói "dân chủ là q báu nhất", thậm chí sức mạnh đó
được Người thần thánh hóa để minh chứng cho cuộc chiến tranh phi nghĩa
của bọn đế quốc xâm lược "ý dân là ý trời. Đế quốc Mỹ làm trái ý dân, ý trời
cho nên chúng sẽ thất bại" [57]. Người rất lo lắng khi ở nơi nào đó, chính
quyền địa phương khơng thực hiện tốt dân chủ "ta nhận thấy xung quanh các
UBND, một vài tiếng phàn nàn, oán than nhiều hơn tiếng người khen. Dân
chúng tín nhiệm ở Chính quyền Trung ương nhiều hơn ở các Uỷ ban địa
phương" [55]. Người cũng thẳng thắn phê bình những nơi chính quyền địa
phương chưa làm tốt dân chủ "Những ủy ban đó khơng những khơng được
dân u, mà cịn bị dân khinh, dân ghét là khác nữa" [55]. Người luôn nhấn
mạnh: "Nước ta là nước dân chủ, nên dân là chủ, địa vị cao nhất là dân, do đó

bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi
mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là
cơng việc của dân, chính quyền từ xã đến Trung ương là do dân cử ra, đoàn
thể từ Trung ương đến xã đều do dân tổ chức lên" [56]. Mọi việc khó khăn
đến mấy chỉ cần có sự tham gia góp sức của nhân dân thì cũng sẽ trở nên dễ
dàng. Bác viết: Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở
nên dễ dàng và làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng
Dễ mười lần khơng dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong.


16
Bác luôn căn dặn cán bộ cách mạng
muốn cho dân u, muốn được lịng dân, việc gì có lợi cho dân phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý
giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lịng, những vấn đề
quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân,
mỗi khi người ta đem tới…Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc
biệt chú ý… Nói tóm lại, muốn được dân yêu, muốn được lòng dân,
trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải
có một tình thần chí cơng vơ tư [55].
Do đó Người khẳng định "thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để
giải quyết mọi khó khăn" Tư tưởng dân chủ của Người được thể hiện một
cách toàn diện nhất, đầy đủ nhất, sâu sắc nhất đó là tư tưởng dân chủ đầy tính
nhân văn. Có thể khái qt lại ở bốn nội dung: Thứ nhất: Chính phủ phải đề
cao vai trị làm chủ của nhân dân, thứ hai: mọi cán bộ công chức đều là công
bộc của nhân dân, phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân, thứ ba: chính quyền
phải do nhân dân bầu ra, thứ tư: nhân dân có trách nhiệm xây dựng đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng dân là chủ và dân làm chủ.

Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhân dân là
lực lượng quyết định thành bại của cách mạng. Vai trị đó là khơng thể phủ
nhận, sức mạnh của nhân dân là nguồn sức mạnh vô tận. Nhân dân không tiếc
máu xương để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nước khơng có dân thì khơng
thành nước. Nước do dân xây dựng lên, do dân đem xương máu bảo vệ chế độ
dân chủ phải gắn với công bằng xã hội xóa bỏ áp bức, bóc lột. Bác nói: Cán
bộ từ trên xuống dưới làm đầy tớ cho nhân dân, phải xứng đáng là công bộc
trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là dân chủ tập
trung. “Đây là mối quan hệ tùy thuộc, trong đó dân chủ là mục đích, mục tiêu
và tập trung là phương thức thực hiện” [9, tr.28].


17
Như vậy có thể nói, dân chủ là tư tưởng xuyên suốt chiều dài lịch sử
của xã hội loài người tiến bộ. Tuy mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử mang
nhân tố mới. Xong cần khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn luôn là chế độ
dân chủ ưu việt nhất. Đảng ta xác định dân chủ là mục tiêu và là động lực để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Dân chủ có vai trị to lớn quyết định
sự phát triển của xã hội. Nếu thiếu dân chủ thì khơng thể có một xã hội hiện
đại. Muốn thực hiện được dân chủ thì nhà nước phải sử dụng cơng cụ hữu
hiệu của mình đó là pháp luật. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ đã được
nhà nước triển khai từ rất sớm, trong đó, đặc biệt chú trọng đến cấp xã - nơi
chính quyền gần dân nhất.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở nói chung và cấp xã
nói riêng
1.1.2.1. Cơ sở và pháp luật dân chủ ở cấp xã
Trước hết cần xác định cấp cơ sở, chính quyền cơ sở và dân chủ cơ sở.
Theo Điều 110, Hiến pháp sửa đổi 2013, hệ thống chính trị nước ta
được tổ chức thành 4 cấp: Cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (gồm xã,
phường, thị trấn). Như vậy cấp xã là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống

chính quyền nước ta. Cấp xã có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống chính trị
nước ta. "Cấp xã gần gũi với nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi cơng việc đều xong xi" [55]. Bởi tính đặc thù của cấp
xã là nơi gần dân nhất, là nơi mà mọi chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà
nước hướng đến và cũng là nơi cuối cùng thực hiện những chủ trương chính
sách của Đảng. Là nơi kiểm nghiệm đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Cấp xã là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân. Do đó muốn thực
hiện được dân chủ thì phải đảm bảo được dân chủ thực sự ở cấp xã (còn gọi là
cấp cơ sở). Cấp xã là cấp cơ sở xong cấp cơ sở khơng phải là cấp xã. Trong hệ
thống chính trị nước ta có 3 loại hình cơ sở chính là cấp xã, ở cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp và ở doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, cơng ty
trách nhiệm hữu hạn và các loại hình doanh nghiệp khác.


18
Cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của dân, nơi chính
quyền trong lịng dân…cơ sở là nền tảng của chế độ, là nền móng
của tịa nhà, cơ sở suy yếu, rệu rã là khởi đầu những suy yếu những
điều khơng bình n của chế độ…cơ sở là hình ảnh thu nhỏ của xã
hội và đời sống xã hội. Nó là cái vi mơ mang theo nội dung, tính
chất của cái vĩ mơ ở trình độ phát triển xã hội, cơ sở có đời sống
chỉnh thể của nó…là cấp thấp nhất nhưng khơng bao giờ được quên
rằng chính cơ sở lại là tầng sâu nhất, là địa chỉ quan trọng nhất. Sự
vận hành tổng thể của hệ thống chính trị trong cả nước phải đến một
cách thơng suốt, nhanh chóng, khơng ách tắc, trì trệ. Cơ sở do đó là
địa chỉ quan trọng nhất vì xét đến cùng là nơi quyết định mà mọi chỉ
thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà
nước phải tìm đến [8].
Dân chủ ở cấp xã tức là đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân ở
cấp gần gũi với họ nhất, gắn bó thường xuyên, trực tiếp liên quan đến đời

sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân. Đó là quyền được biết
những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Quyền
được tham gia thảo luận những vấn đề liên quan đến quyền lợi thiết thân của
họ và quyền được tham gia đóng góp xây dựng quê hương và quan trọng nhất
là quyền được kiểm tra, giám sát những hoạt động của các cơ quan, công chức
nhà nước. Có thể coi, dân chủ ở cấp xã chính là việc thực hiện bốn nhóm
quyền "dân biết", "dân bàn", "dân làm", "dân kiểm tra". Dân chủ ở cấp xã để
sự đảm bảo nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nó là
sự cụ thể hóa bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ
sâu rộng và triệt để nhất.
Pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Pháp luật là hệ thống các quy tắc sử xự do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật và Nhà nước là hai thành tố của


19
thượng tầng kiến trúc. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Do đó pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động,
đảm bảo quyền dân chủ rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân lao động.
Dân chủ (như phân tích ở trên) là một hệ giá trị xã hội mang tính giai
cấp và tính nhân văn sâu sắc. Nội dung căn bản, cốt lõi của dân chủ là
quyền làm chủ của con người trong cộng đồng xã hội; bảo đảm cho quyền
làm chủ của nhân dân chỉ có thể là một nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Như vậy các giá trị của nền dân chủ xét trên phương diện
cả bản chất, hình thức và phương pháp bảo đảm luôn luôn gắn liền với
pháp luật. Hay nói một cách khác nội dung của dân chủ nói chung, quyền
làm chủ của nhân dân nói riêng ở các cấp độ, ở mọi lúc mọi nơi trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội cần được khẳng định trong pháp luật. Pháp
luật là sự phản ánh khách quan, thừa nhận (ghi nhận) các quyền tự do dân

chủ của con người, của công dân và trách nhiệm của nhà nước trong việc
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở pháp luật ấy việc tổ chức
thực hiện pháp luật là việc hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân trong
thực tế. Như thế dân chủ là q trình hình thành, vận động phát triển liên
tục thơng qua mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Mối quan hệ đó
được quy định và điều chỉnh bằng pháp luật.
Pháp luật về dân chủ ở cấp xã chính là những quy tắc xử sự về dân chủ
ở cấp xã do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền làm chủ thực sự của
người dân và được thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
1.1.2.2. Nội dung của pháp luật dân chủ cơ sở ở cấp xã
Ngay sau khi có Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị, ngày 11 tháng 5 năm
1998, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Sau một thời gian thực hiện, Nghị định
đã bộc lộ hạn chế, tình hình dân chủ phức tạp yêu cầu cần thay thế. Năm
2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003. Sau
4 năm thực hiện, đến năm 2007 trên cơ sở Nghị định số 79 đồng thời để nâng


20
cao tính pháp lý của vấn đề, Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khố XI
đã thơng qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một văn bản pháp
luật được Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khố XI đã thơng qua vào
ngày 20 tháng 4 năm 2007 (Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11) và có
hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2007, được Chủ tịch nước Việt Nam
ra lệnh công bố trên toàn quốc. đây là văn bản quy định về thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn và là văn bản pháp lý quan trọng nhằm phát huy quyền
dân chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn. Tính đến nay Pháp lệnh là văn
bản pháp lý có hiệu lực cao nhất (không kể Hiến pháp Việt Nam) quy định về
vấn đề dân chủ ở cấp xã.

Nội dung của Pháp lệnh số 34 và những điểm mới của Pháp lệnh số
34/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn so với những văn bản
trước đó.
1. Những nội dung cần công khai để nhân dân biết.
Theo Nghị định số 29 và Nghị định số 79 thì quy định 14 nội dung cần
công khai cho nhân dân biết nhưng theo Pháp lệnh số 34 thì có 11 nội dung.
Tuy nhiên nội dung cơng khai khơng thay đổi.
Có 11 nội dung:
1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.
2. Dự án, cơng trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương
án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, cơng
trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương
án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải
quyết các công việc của nhân dân.
4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo
chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.


21
5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xố
đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát
triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa
giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham
nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy
phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và
Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.

8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn
đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy
ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
9. Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các
cơng việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Về hình thức công khai.
Trước đây, theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP và Nghị định số
79/2003/NĐ-CP quy định 5-6 hình thức cơng khai, tuy nhiên đến Pháp lệnh
số 34 rút lại còn ba hình thức cơng khai, tại Điều 5 Pháp lệnh số 34, đó là:
a) Niêm yết cơng khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
cấp xã;
b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã;
c) Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thơng
báo đến nhân dân.
Bỏ những hình thức cơng khai trước như quy định tại các Nghị định số
29 và Nghị định số 79 như: tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội


22
đồng nhân dân xã; tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã và các cuộc họp
của Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và các cuộc họp của thôn; gửi văn
bản tới hộ gia đình hoặc Trưởng thơn. Việc rút bớt các hình thức cơng khai
này khơng phải là hạn chế việc cơng khai mà chỉ là đưa ra những hình thức
phù hợp hơn, thiết thực hơn. Bởi một số hình thức công khai cũ như gửi văn
bản tới từng hộ gia đình thì khó thực hiện trên thực tế vì kinh phí hạn chế.

Tuy nhiên, để việc cơng khai ngày càng được rộng rãi thì cần phải tiếp tục
nghiên cứu các hình thức cơng khai mới phù hợp với từng địa phương, từng
đối tượng. Việc áp dụng các hình thức này cũng phải tùy thuộc vào sự linh
hoạt của chính quyền từng địa phương. Pháp lệnh số 34 bổ sung thêm một nội
dung trong hình thức cơng khai đó là “thực hiện việc cung cấp thông tin theo
quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham nhũng”.
Pháp lệnh số 34/2007 quy định cụ thể các hình thức cơng khai cụ thể
đối với từng nội dung công khai.
Tại Điều 7 Pháp lệnh số 34 quy định việc công khai bằng hình thức
niêm yết:
1. Những nội dung quy định tại các khoản 2, 3( khoản 2. Dự án, cơng
trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, cơng trình trên địa
bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã. Khoản 3. Nhiệm vụ,
quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc
của nhân dân) 9 và 10 (khoản 9. Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và
nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu. Khoản 10. Các
quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các cơng việc liên
quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện) Điều 5 của
Pháp lệnh này phải được niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân cấp xã.


23
2. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm niêm yết những nội dung quy
định tại khoản 1 Điều này chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản được
thông qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của
chính quyền cấp xã hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những việc
thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên.

3. Thời gian niêm yết các nội dung quy định tại khoản 2(Dự án, cơng
trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, cơng trình trên địa bàn cấp
xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy
hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã và khoản 9 (Đối tượng, mức thu các loại
phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu)
Điều 5 của Pháp lệnh này ít nhất là ba mươi ngày liên tục, kể từ ngày niêm
yết; các nội dung quy định tại khoản 3 (Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ,
công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân) và khoản
10 (Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các cơng
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện), Điều
5 của Pháp lệnh này được niêm yết thường xuyên.
Điều 8 Pháp lệnh số 34 quy định việc công khai trên hệ thống truyền
thanh và thông qua trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân
dân. Trừ hai nội dung là đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài
chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu và Các quy định của pháp luật
về thủ tục hành chính, giải quyết các cơng việc liên quan đến nhân dân do
chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện, còn lại các nội dung quy định tại điều
5 của Pháp lệnh đều được công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã
hoặc gửi đến Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thơng báo đến nhân dân.
Pháp lệnh 34 có quy định cụ thể trách nhiệm tổ chức thực hiện các nội
dung công khai tại Điều 9 của Pháp lệnh. Theo đó Uỷ ban nhân dân cấp xã có
trách nhiệm lập, thông qua kế hoạch thực hiện những nội dung công khai,
trong đó nêu rõ cách thức triển khai thực hiện, thời gian thực hiện và trách


24
nhiệm tổ chức thực hiện. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện và chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch, phương án đã được
thông qua.

Như vậy, Pháp lệnh số 34 quy định rõ hơn về từng hình thức cơng khai
đối với từng nội dung và quy định cụ thể hơn trách nhiệm của chính quyền
cấp xã đối với việc thực hiện các nội dung cơng khai. Khắc phục được thiếu
sót trong các Nghị định 29 và Nghị định 79, khơng có quy định cụ thể về
trách nhiệm, nghĩa vụ của chính quyền cấp xã. Do đó, nâng cao tính khả thi
của Pháp lệnh dân chủ trong quá trình thực hiện.
2. Những nội dung nhân dân bàn và quyết định
Trước đây, Nghị định 29 và Nghị định 79 hai nội dung này gộp lại trong
một nội dung ở Chương III Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp.
Nay nội dung này được quy định tại Chương III của Pháp lệnh số 34
gồm hai mục: mục 1 là nội dung, hình thức nhân dân bàn và quyết định trực
tiếp; mục 2 là nội dung, hình thức nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền quyết định. Trong đó, những nội dung nhân dân được bàn và quyết
định trực tiếp quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh “Nhân dân bàn và quyết
định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các
cơng trình phúc lợi cơng cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân
dân đóng góp tồn bộ hoặc một phần kinh phí và các cơng việc khác trong nội
bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật”. Hình thức nhân
dân bàn và quyết định trực tiếp theo Pháp lệnh số 34 cơ bản giống với quy
định tại Nghị định số 29 và Nghị định số 79, được quy định tại Điều 11 Pháp
lệnh số 34:
a) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn
từng thơn, tổ dân phố;
b) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
2. Trường hợp tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình thì
việc biểu quyết được thực hiện bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín; hình


25
thức biểu quyết do hội nghị quyết định; nếu số người tán thành chưa đạt quá

50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thơn, tổ dân phố hoặc
trong tồn cấp xã thì tổ chức lại cuộc họp.
3. Trường hợp không tổ chức lại được cuộc họp thì phát phiếu lấy ý
kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình”
Điểm mới của Pháp lệnh so với Nghị định số 29 và Nghị định số 79
quy định cụ thể giá trị thi hành đối với những việc nhân dân bàn và quyết định
trực tiếp tại Điều 12 của Pháp lệnh đảm bảo tính logic, chặt chẽ hơn của pháp
luật dân chủ.
Những nội dung nhân dân bàn và biểu quyết được quy định tại Điều 13
của Pháp lệnh số 34 gồm có ba nội dung:
1. Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố.
2. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
3. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu
tư của cộng đồng.
Quy định này cụ thể hơn những việc nhân dân bàn và biểu quyết so với
Nghị định 29 và Nghị định số 79. Đặc biệt, bổ sung thêm việc bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, và bầu bãi nhiệm thành
viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cơng cộng. Pháp lệnh số 34
cũng có quy định các hình thức nhân dân bàn và biểu quyết tại Điều 14:
1. Nhân dân bàn và biểu quyết những nội dung quy định tại Điều 13
của Pháp lệnh này bằng một trong các hình thức sau đây:
a) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn
từng thơn, tổ dân phố;
b) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
2. Trường hợp tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình thì
việc biểu quyết được thực hiện bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín; hình
thức biểu quyết do hội nghị quyết định; nếu số người tán thành chưa đạt quá
50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thơn, tổ dân phố thì
tổ chức lại cuộc họp.



×