1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, nảy sinh, tồn tại và phát triển cùng với
sự phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thuở hoang sơ nhất của mình, khi
cuộc sống cịn hồn tồn lệ thuộc vào giới tự nhiên, con người đã từng bước ý
thức được sự cần thiết phải hợp tác với nhau và biết đề ra những “ngun
tắc”, những “chuẩn mực” có tính chất ngăn cấm làm điều xấu, khuyến khích
làm điều tốt. Ý thức đó cho dù cịn “mang tính động vật như chính đời sống
xã hội ở giai đoạn ấy: đó là một ý thức quần cư đơn thuần” nhưng nó dần dần
được nội tâm hóa, trở thành khát vọng bên trong, thành tình cảm đạo đức đây là hình thái đầu tiên của đạo đức.
Sự phát triển của sản xuất xã hội dẫn đến sự phân công lao động, trồng
trọt tách khỏi chăn nuôi, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, sản phẩm tự
sản, tự tiêu trước đây trở thành hàng hóa, kinh doanh xuất hiện và đạo đức
kinh doanh cũng ra đời - cho dù đây chỉ là bước “khởi nguồn” của đạo đức
kinh doanh mà thôi. C.Mác và Ph.Ăngghen từng viết, bắt đầu từ lúc đó, ý
thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và chuyển sang xây dựng lý luận
“thuần túy”, thần học, triết học, đạo đức...
Khởi nguồn từ trong xã hội cổ đại, nhưng phải đến xã hội cận đại, thậm
chí hiện đại, đạo đức kinh doanh mới thu hút sự quan tâm lớn của toàn nhân
loại, nhất là ở các nước có nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh. Đặc biệt từ
khi hoạt động kinh doanh có những biểu hiện lệch chuẩn đạo đức xã hội như
hối lộ, quảng cáo lừa gạt, thông đồng về giá cả, kinh doanh sản phẩm kém
chất lượng v.v. thì đạo đức kinh doanh càng được quan tâm.
Mối quan hệ giữa đạo đức và kinh doanh là vấn đề lý luận quan trọng.
Chúng ta phải nhận thức rằng, bản chất của kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận,
mục tiêu tối đa hố lợi nhuận là hồn tồn chính đáng. Vấn đề là khơng nên
tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, bằng những thủ đoạn bất chính, gây phương
2
hại cho người khác, cho cộng đồng, đặc biệt là phương hại đến sức khoẻ, tính
mạng. Khơng cịn cách nào khác, các nhà quản lý cần phải đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, giáo dục, phải thông qua tuyên truyền giáo dục để làm cho các
doanh nghiệp và những người sản xuất, kinh doanh có nhận thức đúng đắn
hơn, đầy đủ hơn về đạo đức kinh doanh. Phải giúp họ “giác ngộ” một chân lý:
Ngày nay muốn kinh doanh tốt phải có đạo đức tốt; doanh nghiệp chỉ có thể
tồn tại bền vững và làm ăn phát đạt khi khẳng định được uy tín, thương hiệu
dựa trên chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, người tiêu dùng đang có xu hướng
ngày càng trở thành “người tiêu dùng thông thái”. Lừa mị họ hoặc chà đạp lên
quyền lợi của họ chắc chắn sớm muộn sẽ bị họ tẩy chay. Nếu sai, hãy thành
khẩn sửa sai, đừng biện minh hoặc đổ lỗi cho khách hàng theo cách bấy lâu
nay một số doanh nghiệp vẫn làm.
Phải thấy rằng kinh doanh hướng tới mục tiêu làm giàu vì thế nhiều khi
vi phạm đạo đức kinh doanh, văn hóa kinh doanh. Ngược lại cuộc sống lại địi
hỏi kinh doanh cần có đạo đức. Người kinh doanh càng giỏi thì càng phải
thực hiện đầy đủ các chuẩn mực đạo đức. Và kinh doanh có đạo đức là kinh
doanh bền vững. Người kinh doanh càng thực hiện đầy đủ các chuẩn mực đạo
đức thì càng có cơ hội thu lợi nhuận cao.
Ở Việt Nam, từ sau đổi mới, khi Nhà nước cho phép phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, hoạt động kinh doanh đã tăng nhanh chóng cả về số
lượng và chất lượng. Do đó, trong những năm qua, hoạt động kinh doanh có
nhiều đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước; làm tăng thêm nguồn của
cải cho xã hội; tạo ra một khối lượng lớn công ăn, việc làm cho người lao
động, nhất là lực lượng lao động trẻ. Nước ta từ khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường đã xuất hiện nhiều xu hướng sản xuất kinh doanh. Sự biến đổi rất
nhanh của các thành phần kinh tế, của các quan hệ trong sản xuất kinh
doanh... đồng thời cũng bộc lộ những yếu tố bất cập trong đó có đạo đức kinh
doanh. Ở Việt Nam hiện nay có khoảng hơn 500.000 doanh nghiệp từ nhỏ đến
lớn với hàng trăm ngàn doanh nhân hoạt động.
3
Tỉnh Hải Dương được tái lập năm 1997. Là một tỉnh thuộc Bắc Bộ được
gọi là mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi đã sinh ra nhiều hiền tài làm rạng danh
non sông đất nước. Đảng bộ và nhân dân Hải Dương có truyền thống đấu
tranh cách mạng oanh liệt. Từ năm 1927 những hoạt động cách mạng theo
chiều hướng vơ sản đã được nhen nhóm ở đây. Trong các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng, đấu tranh thống nhất đất nước,
nhân dân và Đảng bộ đã có những đóng góp quan trọng, trực tiếp về sức
người, sức của. Đây cũng là nơi nổi tiếng với nhiều truyền thống tốt đẹp: cần
cù, anh dũng, kiên cường, hiếu học, thơng minh, sáng tạo, có ý chí hoài bão
vươn lên... Những truyền thống này đã và đang được kế thừa và phát triển.
Trong sự nghiệp đổi mới, Hải Dương sớm tiếp cận đường lối đổi mới
của Đảng, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát triển văn
hóa - xã hội, xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị và đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá. Tuy nhiên, quá trình này cũng làm xuất hiện một số
vấn đề cần giải quyết nhất là vấn đề đạo đức trong kinh doanh. Làm thế nào
để kinh doanh có hiệu quả nhưng phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; giữ
chữ tín, giữ thái độ tôn trọng khách hàng, cạnh tranh lành mạnh nhưng kinh
doanh vẫn phát triển? Đó là lý do thôi thúc tôi chọn: “Vấn đề xây dựng đạo
đức kinh doanh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương)" làm đề tài thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
So với nhiều nước trên thế giới, những nghiên cứu về đạo đức kinh
doanh ở Việt Nam dường như “khiêm tốn” hơn nhiều. Từ năm 1986 đến
nay khi một bộ phận không nhỏ tham gia hoạt động kinh doanh, vi phạm
chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, gây nên những tổn thất
lớn cho xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích chính đáng của người tiêu
dùng thì đạo đức kinh doanh mới thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội.
Cũng từ đây mới có một số nghiên cứu về đạo đức trong kinh doanh. Với
4
khn khổ tìm hiểu của mình, tác giả luận văn tiếp cận được một số cơng
trình nghiên cứu sau:
- “Đạo đức trong kinh doanh”. Hội thảo của Viện Kinh tế đối ngoại - Bộ
Thương mại (nay là Bộ Công thương), Tháng 7 năm 1995. Các bản tham luận trong
Hội thảo đã đề cập đến nhiều vấn đề lý luận liên quan đến đạo đức kinh doanh.
- “Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh”, do GS,TS Ngơ Đình
Giao chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1997. Ngoài việc phân tích các
khái niệm cơng cụ cơ bản như: mơi trường kinh doanh; đạo đức kinh doanh,
các tác giả còn chỉ ra quan hệ biện chứng giữa môi trường kinh doanh và đạo
đức kinh doanh ở nước ta hiện nay. Các tác giả cho rằng: Cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vô tư là đạo đức kinh doanh của người Việt Nam hiện nay.
- “Đạo đức kinh doanh” của Phạm Quốc Toản, nhà xuất bản Thống kê,
năm 2002, Cuốn sách đã đề cập nhiều vấn đề liên quan đến kinh doanh và đạo
đức kinh doanh - nhất là lịch sử đạo đức kinh doanh
- “Văn hóa kinh doanh”, do Dương Thị Liễu chủ biên, nhà xuất bản Đại
học Kinh tế quốc dân, năm 2009. Giáo trình đã đề cập đến các khái niệm cơ
bản, như: văn hóa, văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh v.v.Theo các tác
giả, đạo đức kinh doanh “…là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác
dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể
kinh doanh”
- Đạo đức mới do GS Vũ Khiêu chủ biên, nhà xuất bản Khoa học xã hội,
1974. Trong tác phẩm này vấn đề đạo đức, đạo đức mới và giáo dục đạo đức
mới đã được làm sáng tỏ trên những nét cơ bản.
- Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới của Tương Lai, nhà xuất
bản Sự thật, 1983. Trong cuốn sách này, tuy cịn có những hạn chế nhất định
nhưng có thể coi đây là tài liệu tham khảo bổ ích về lĩnh vực đạo đức học.
- Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố hiện đại hố đất nước của Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương
5
(nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Cuốn sách này đã đề cập một
cách hệ thống nội dung lý luận cũng như thực tiễn đạo đức xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, đã khái quát một cách
cô đọng những chuẩn mực, truyền thống giá trị đạo đức của dân tộc ta, những
nguyên tắc phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam.
- Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của TS Trịnh Duy Huy nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2009. Cơng trình này tác giả đã tập trung xem xét tác động của kinh tế
thị trường đối với xã hội, chuẩn mực đạo đức hiện nay và thực trạng đạo đức
ở nước ta, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường đối với đời sống đạo đức xã hội.
- Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam của Vũ Đình Bách, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay của Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003.
- Đạo đức kinh doanh - Lý thuyết và thực hành của Mai Ngọc Cường,
nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1996.
- Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh của Ngơ Đình Giao, nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2001.
- Đạo đức kinh doanh của V.E.HENDERSON, nhà xuất bản Văn hố Thơng tin, Hà Nội, 1996.
- Đạo đức kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp của Bùi Xn Phong,
nhà xuất bản Văn hố - Thơng tin, Hà Nội, 2009.
- Giáo trình đạo đức kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp của Nguyễn
Mạnh Quân, nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, 2013, đưa ra
quan niệm: “Đạo đức kinh doanh gồm những nguyên tắc và chuẩn mực có tác
6
dụng hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh; chúng được những
người hữu quan (như người đầu tư, khách hàng, người quản lý, người lao động,
đại diện cơ quan pháp lý, cộng đồng dân cư, đối tác, đối thủ...) sử dụng để phán
xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức”.
Các luận án, luận văn có liên quan đến đề tài:
- Đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp của Vũ Thanh Hương, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
- Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của Mai Xuân Hợi, Luận
án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- Vấn đề xây dựng văn hoá kinh doanh ở nước ta hiện nay của Nguyễn
Thị Ngọc Anh, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2010.
Các bài viết nghiên cứu về đạo đức, giáo dục đạo đức, và xây dựng
đạo đức kinh doanh trong một số tạp chí như:
- Mối quan hệ giữa lợi ích và đạo đức của Song Thành (Tạp chí Triết
học, số 1, 1992).
- Tư tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên
trong điều kiện hiện nay của Đoàn Văn Khiêm (Tạp chí Triết học, số 2, 2001).
- Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường
của Đỗ Lan Hiền (Tạp chí Triết học, số 4, 2002).
- Đạo đức mới - đạo đức cách mạng từ các cách tiếp cận khác nhau của
Trịnh Duy Huy (Tạp chí Triết học số 1, 2006).
- Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới
ở nước ta hiện nay của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 11, 2006).
- Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 3, 2007).
7
- Một số vấn đề cần quan tâm trong việc giải quyết mối quan hệ tăng
trưởng kinh tế, phát triển văn hố, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội của Đỗ
Huy (Tạp chí Triết học số 2, 2009).
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam một số vấn đề lý luận
và thực tiễn cấp bách của Phạm Văn Đức (Tạp chí Triết học số 2, 2009).
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận dụng ở Việt
Nam hiện nay của Trần Anh Phương (Tạp chí Triết học số 8, 2009).
- Vai trị của triết học đối với phát triển kinh tế của Trần Văn Phịng (Tạp
chí Triết học số 9, 2009).
- Về mối quan hệ giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế ở Việt
Nam của Trần Đình Thảo (Tạp chí Triết học số 3, 2010).
- Thực tiễn và sáng tạo trong đổi mới thể chế kinh tế ở Việt Nam của
Nguyễn Văn Thức (Tạp chí Triết học số 4, 2010).
- Tìm hiểu hoạt động kinh doanh và văn hóa kinh doanh cổ truyền của
người Việt Nam của Nguyễn Thị Ngọc Anh (Tạp chí Triết học số 3, 2010).
- Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội: từ góc nhìn lịch sử đạo đức học của
Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học số 4, 2012).
- Lợi ích và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay của Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học số 4, 2013).
- Chữ tín trong kinh doanh của Trung Quốc - Những vấn đề nổi cộm và
giải pháp của Tôn Xuân Thần (Tạp chí Triết học số 5, 2013).
- Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội nhìn từ biện
chứng của sự tiến hóa lịch sử, một số đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Phạm Văn Đức (Tạp chí Triết học số 7, 2013).
Nhìn chung, những cơng trình và bài viết nêu trên khơng chỉ đã đề cập
đến vấn đề đạo đức mới và xây dựng đạo đức kinh doanh trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường mà cịn góp phần hướng vào việc xây dựng và
phát triển đạo đức ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng đạo đức
cho doanh nhân, doanh nghiệp trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
8
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay là vấn đề đang biến động nhanh,
phức tạp vì thế cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng xây dựng đạo đức kinh doanh ở Hải
Dương trong những năm gần đây, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm góp phần xây dựng đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ thực chất đạo đức kinh doanh, phân tích tầm quan trọng, nội
dung xây dựng đạo đức kinh doanh cho doanh nhân, doanh nghiệp trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc xây dựng đạo đức kinh doanh cho
doanh nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay ở Hải Dương.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng đạo
đức kinh doanh cho doanh nhân, doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh cho
doanh nhân, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Doanh nhân, doanh nghiệp đang sản xuất, kinh doanh tại tỉnh Hải Dương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
9
về đạo đức và xây dựng đạo đức nói chung, đạo đức kinh doanh nói riêng.
Đồng thời, tác giả cịn kế thừa có chọn lọc những giá trị của một số cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với phương pháp lịch sử và lơgíc,
phân tích và tổng hợp. Ngồi ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác:
So sánh, thống kê, khảo sát - để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
xây dựng đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả xây dựng đạo
đức kinh doanh ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương).
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, giáo dục đạo đức kinh doanh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
10
Chương 1
ĐẠO ĐỨC KINH DOANH, TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG XÂY
DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY
DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.1. Kinh doanh và đạo đức kinh doanh
1.1.1.1. Kinh doanh và một số khái niệm liên quan
Doanh có nghĩa là quản lý, kinh doanh có nghĩa đen là quản lý kinh tế;
chữ kinh trong kinh tế với nghĩa là "sửa trị" (kinh tế là dạng rút gọn của "kinh
bang tế thế", "sửa nước cứu đời") thực chất cũng là quản lý. Kinh doanh gồm
3 lĩnh vực đó là sản xuất hàng hóa, bn bán và dịch vụ, cả 3 đều có chung
mục đích cơ bản là kiếm lời.
Thương mại xuất hiện khi sản phẩm tự sản, tự tiêu trở thành hàng hố
trong q trình phát triển của kinh tế xã hội của loài người. Hình thức đầu tiên
của thương mại là hành vi mua bán hàng hoá. Thương mại đã tồn tại rất lâu
trong lịch sử và đã có những thời kỳ phát triển thành thương mại quốc tế: như
con đường tơ lụa (102-73 trước công nguyên), con đường hồ tiêu (1489)...
Nhưng từ thế kỷ 20 với sự phát triển nhanh chóng cuả các loại hình cơng
nghiệp dịch vụ... thương mại khơng cịn thể hiện được hết các hoạt động kinh
tế - xã hội thường ngày nên đã xuất hiện thuật ngữ kinh doanh.
Kinh doanh là hoạt động cơ bản của con người. Hiểu theo nghĩa chung
nhất thì kinh doanh là cách làm giàu của con người trên thương trường.
Theo từ điển của Collins, từ kinh doanh có nghĩa là những hành vi có
liên quan đến sản xuất, mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ.
Điều 4 Luật Doanh nghiệp Việt Nam (năm 2005) có ghi: Kinh doanh là
việc của chủ thể thực hiện một hay một số cơng đoạn của q trình đầu tư - từ
11
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi.
Như vậy ý nghĩa của kinh doanh rất rộng bao gồm hầu hết các hoạt động
kinh tế thường ngày, gồm có: Sản xuất kinh doanh; là cơng việc nhằm mục
đích lợi nhuận, đóng góp sự phát triển kinh tế của xã hội. Kinh doanh là hoạt
động luôn gắn chặt với thị trường. Thương mại: bn bán giúp lưu thơng
hàng hố, các dịch vụ mua bán như môi giới, đại lý, đại diện... và xúc tiến
thương mại như: triển lãm, hội chợ. Dịch vụ: là hoạt động phục vụ nhu cầu
con người một cách hợp pháp để hưởng thù lao. Đầu tư: là góp vốn để kinh
doanh có lời.
Để hoạt động kinh doanh diễn ra, tối thiểu phải có 2 nhân vật tham gia,
đó là chủ thể kinh doanh và khách hàng - đối tượng của chủ thể kinh doanh.
Hai thành phần này luôn ràng buộc gắn bó với nhau quy định lẫn nhau. Khách
hàng cần hàng hoá, dịch vụ của chủ thể kinh doanh để thoả mãn nhu cầu của
mình. Cịn chủ thể kinh doanh thì cần khách hàng mua hàng hố hay dịch vụ
của mình để có thể thu được lợi nhuận, nhờ đó mà duy trì và phát triển cơng
việc kinh doanh.
Chủ thể kinh doanh thường phải căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích
của khách hàng - mục tiêu mà anh ta nhằm vào, để cung cấp cho họ một
lượng hàng hố, dịch vụ nào đó, từ đó thu về một lượng tiền với một mức lợi
nhuận nhất định. Ngược lại, khách hàng có quyền chấp nhận hàng hố và trả
tiền hay khơng, qua đó thực hiện việc khách hàng có ủng hộ hay khơng sự
thành đạt của chủ thể kinh doanh. Như vậy, chủ thể kinh doanh tiến hành hoạt
động kinh doanh nhưng đây là sự phục vụ vì lợi nhuận.
Nền kinh tế hiện đại đòi hỏi người sản xuất cũng đồng thời là người kinh
doanh vì người sản xuất chỉ biết chú trọng vào chất lượng sản phẩm khơng
biết chú trọng vào việc kinh doanh thì hàng hố dù có tốt đến đâu cũng khó
tiêu thụ. Hàng sản xuất ra là để phục vụ người tiêu dùng chứ không phải để
12
bày làm mẫu hoặc chất trong kho. Vì vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh hiện
đại là một hoạt động kinh tế có tính tổng hợp, bao trùm các q trình bắt đầu
từ tư duy cho đến sản xuất, tiêu thụ và phục vụ sau bán hàng nhằm sản xuất ra
các vật phẩm và dịch vụ đạt lợi nhuận cao và ổn định.
Q trình sản xuất, kinh doanh ln gắn liền với chủ doanh nghiệp hay
còn gọi là các doanh nhân. Để hiểu rõ hơn về hoạt động kinh doanh, cần tìm
hiểu thêm khái niệm doanh nhân.
Trong tiếng Anh, doanh nhân là entreprenneur hoặc businessman. Khi
bàn đến khái niệm doanh nhân, GS,TS Trần Ngọc Thêm cho rằng: doanh
nhân hiểu theo nghĩa đen là người quản lý việc làm ăn. Còn Theo GS, TS
Hồng Vinh: doanh nhân là người có xu hướng và khát vọng làm giàu bằng
cách liên tục tạo ra những giá trị thặng dư nhằm không ngừng làm gia tăng tài
sản cho mình và cho doanh nghiệp.
Hiểu một cách khái quát doanh nhân là nhà kinh doanh, là người lãnh
đạo, chịu trách nhiệm và đại diện cho doanh nghiệp trước xã hội và pháp
luật. Doanh nhân có thể là chủ một doanh nghiệp, là người sở hữu và điều
hành, chủ tịch công ty hoặc giám đốc công ty (hoặc cả hai ).
Theo GS,TS Hồ Sĩ Quý, doanh nhân trong vai trị là người thuyền trưởng
có trách nhiệm định hướng các hoạt động của doanh nghiệp, dẫn dắt doanh
nghiệp vượt qua những khó khăn, thách thức, tạo ra mơi trường tin cậy và hợp
tác giữa các thành viên của doanh nghiệp, quản lý mọi sự thay đổi trong
doanh nghiệp...
Một khái niệm liên quan khác đó là Doanh nghiệp. Điều 4 của Luật
Doanh nghiệp Việt Nam (năm 2005) có ghi: Doanh nghiệp là tổ chức kinh
tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế phải hội đủ 4 yếu tố:
13
Tên riêng: thương hiệu, biểu tượng.
Tài sản: của cải vật chất hay tài sản trí tuệ.
Trụ sở giao dịch ổn định: địa chỉ, số tài khoản.
Đăng ký kinh doanh: tại các phòng đăng ký kinh doanh của tỉnh, thành phố.
Ở tầm kinh tế vi mô chia các tổ chức doanh nghiệp ra làm 3 loại hình
chính dựa trên hình thức và giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu: Doanh
nghiệp tư nhân (Proprietorship), Doanh nghiệp hợp danh (Partnership), Doanh
nghiệp trách nhiệm hữu hạn (Corporation).
Thông thường doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
số các doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn lại chiếm tỷ
trọng lớn nhất về doanh thu, đặc biệt trong các lĩnh vực địi hỏi vốn lớn như
sản xuất hàng hóa, tài chính.
Số liệu thống kê ở Việt Nam từ năm 2005 đến 2008 cho thấy số lượng
doanh nghiệp tăng nhanh từ khoảng 11 vạn lên hơn 20 vạn, trong đó tỷ trọng
doanh nghiệp tư nhân giảm dần từ khoảng hơn 30% xuống hơn 20%, trong
khi tỷ trọng doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ
hơn 57% lên 67%. Tỷ trọng doanh nghiệp hợp danh không đáng kể.
Trong năm 2012, Tổng cục thống kê cho biết, tổng số doanh nghiệp của
tồn bộ nền kinh tế có tại thời điểm 01/01/2012 là 448.393 doanh nghiệp. Số
doanh nghiệp thực tế đang hoạt động là 375.732.
Tổng số doanh nghiệp tính đến thời điểm 01/01/2012 trên phạm vi cả
nước tồn tại về mặt pháp lý là 541.103 doanh nghiệp, nếu loại trừ 92.710
doanh nghiệp khơng thể xác minh được, thì tổng số doanh nghiệp của toàn bộ
nền kinh tế là 448.393 doanh nghiệp (Xem phụ lục 1).
Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong
11 tháng đầu năm 2013, cả nước có 71.018 doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới với số vốn đăng ký 359.470 tỷ đồng, tăng 9,5% về số doanh nghiệp và
giảm 15,4% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp
14
gặp khó khăn rơi vào tình trạng ngừng hoạt động nay quay trở lại hoạt động
trong 11 tháng đầu năm là 12.709 doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong 11 tháng
đầu năm cũng chứng kiến cả nước có đến 54.932 doanh nghiệp giải thể và
ngừng hoạt động (trong đó, số doanh nghiệp hoàn thành thủ tục giải thể là 8.857
doanh nghiệp, số doanh nghiệp gặp khó khăn và rơi vào trạng thái tạm ngừng
hoạt động là 46.075 doanh nghiệp) tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước.
Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp bao gồm: Công ty trách
nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp mà
các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Cơng ty hợp doanh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là
chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành
viên hợp doanh). Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm
bằng tồn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty. Ngồi ra trong
cơng ty hợp doanh cịn có các thành viên góp vốn.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được thành lập theo Luật đầu tư nước
ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định.
Doanh nghiệp được biểu hiện bởi: thương hiệu, tài sản, trụ sở giao
dịch, giấy phép kinh doanh để kinh doanh phát triển cần phát triển đạo đức
kinh doanh.
15
Doanh nhân và doanh nghiệp có vai trị đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế, là những pháp nhân và thể nhân được quyền khai thác và sử dụng các
nguồn lực kinh tế để tổ chức sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; là các chủ thể
kinh tế áp dụng và vận hành các quy luật trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
kinh tế và pháp luật của Nhà nước; thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội và đóng góp có tính quyết định vào sự nghiệp đổi mới, khắc phục nguy
cơ tụt hậu về kinh tế…
Các doanh nhân thông qua tổ chức và điều hành sản xuất kinh doanh mà
góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng sản xuất hàng hóa, theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Các
doanh nhân thơng qua tổ chức sản xuât kinh doanh mà góp phần tạo ra việc
làm, thu hút lao động, tăng thu nhập cho dân cư, tăng thu ngân sách, thúc đẩy
quá trình tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. “Thời của những doanh
nhân cơ hội đã qua”, điều này có nghĩa là những doanh nhân thực hiện những
mục đích kinh doanh vụ lợi, với những “mánh khóe kinh doanh” khơng lành
mạnh, phi pháp thì sẽ khơng tồn tại lâu dài trên thương trường, hơn nữa sẽ
phải chịu sự trừng phạt của luật pháp Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế.
Nếu như các doanh nhân, doanh nghiệp muốn làm ăn chân chính khơng có
được kế hoạch cụ thể cho mình thì sẽ khơng thể có thành cơng, với những rủi
ro khơng lường trước, doanh nghiệp sẽ thất bại, khi đó sẽ gây tổn thất cho
chính bản thân chủ doanh nghiệp, cho người lao động trong doanh nghiệp.
Trong một thị trường rộng mở, cơ hội cho các nhà doanh nghiệp là rất
lớn khi họ biết tham gia phân chia thị trường với các doanh nghiệp khác, và
với các doanh nghiệp lớn. Đây cũng là thời điểm mà chủ doanh nghiệp phải
thể hiện khả năng quan sát, sự nhạy bén trong phân tích thị trường, phân tích
nhu cầu của thị trường để lựa chọn ra thị trường mục tiêu và khách hàng tiềm
năng cho mình để khơng những đáp ứng được nhu cầu sẵn có mà cịn có thể
16
tạo ra được những nhu cầu mới. Đây là một q trình được thực hiện khơng
chỉ dựa trên những kiến thức sẵn có về thị trường mà cịn phải dựa trên sự
sáng tạo của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp. Joseph A.Schumpeter cho rằng
tinh thần sáng tạo của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp ứng dụng các
sáng chế đã có (chứ khơng phải là đưa ra các sáng chế mới) từ đó định hướng
q trình sản xuất các sản phẩm mới bằng cơng nghệ mới, vật liệu mới. Do
đó, người tiêu dùng có thêm lựa chọn về sản phẩm mới thay thế sản phẩm
hiện có cho cùng một nhu cầu. Hơn nữa, doanh nghiệp có thể tạo ra xu hướng
tiêu dùng mới thơng qua cung cấp sản phẩm hồn tồn mới và mở ra thị
trường mới…Có một lời khun được đưa ra cho các chủ doanh nghiệp là: Để
tránh được các rắc rối trong việc quản lý công việc của người lao động trong
doanh nghiệp mình, các chủ doanh nghiệp có thể quy định rõ ràng bằng văn
bản những điều mà mình mong muốn nhân viên thực hiện. Nói chung, không
cần thiết phải tạo ra 1 thoả thuận lao động riêng cho mỗi người lao động, chỉ
cần 1 cuốn sách hướng dẫn người lao động trong đó có chi tiết các chính sách
của doanh nghiệp là đủ. Bên cạnh việc chú trọng đến phát huy yếu tố con
người, các yếu tố khác trong doanh nghiệp như công nghệ, nguyên liệu…cũng
phải được quan tâm. Do vậy người chủ doanh nghiệp cũng phải chủ động
trong tìm hiểu thơng tin về các thị trường đầu vào: công nghệ, vốn, đất, thị
trường nguyên liệu, thị trường lao động…để chủ động bố trí kế hoạch hoạt
động sản xuất kinh doanh hợp lý. Trong kinh tế thị trường ngày nay ở nước ta,
để phát triển doanh nghiệp, mỗi doanh nhân đang phải bổ sung cho mình
những kiến thức cần thiết, qua các trường lớp hoặc tự học, có như vậy mới
đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi
các doanh nhân phải vừa có năng lực vừa có đạo đức. Đó là điều kiện để các
doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần những con người xã hội chủ
17
nghĩa” [43, tr.310]. Con người xã hội chủ nghĩa, theo quan điểm của Người
phải là người có năng lực làm chủ; có đạo đức cần, kiệm, liêm chính, chí cơng
vơ tư; có kiến thức khoa học kỹ thuật, nhạy bén với cái mới, có tinh thần sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm... Những con người với đầy đủ các phẩm chất đó là
nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xă hội. Đức và
tài có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại. Đạo đức là cơ sở để phát
triển tài năng, ngược lại tài năng chỉ được phát huy, trở thành cái có ý nghĩa
trong cuộc sống khi con người có đạo đức mà thơi. Vì vậy, đạo đức kinh
doanh sẽ tiếp thêm sức mạnh cho các chủ doanh nghiệp xây dựng thương
hiệu, nâng cao lợi nhuận kinh doanh, góp phần thực hiện thành cơng công
cuộc đổi mới. Xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh,
người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh...
Ở nước ta hiện nay, phần lớn các doanh nhân đang nỗ lực vươn lên, đầu
tư chất xám, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và quản
lý, biến quá trình sản xuất thành quá trình sáng tạo, tăng năng xuất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu,
thị hiếu người tiêu dùng, giữ chữ “tín” với khách hàng. Nói cách khác, q
trình kinh doanh của họ là quá trình gắn liền với trí tuệ, nhờ lao động trí tuệ
mà hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả hơn. Thị trường càng phát triển,
hoạt động kinh doanh càng sơi động thì vai trị của lao động trí tuệ cũng càng
lớn. Điều đó góp phần thúc đẩy sự hình thành trong xã hội một lớp người có
khả năng làm chủ q trình kinh doanh, xây dựng đạo đức kinh doanh. Cùng
với năng lực, đạo đức kinh doanh của các doanh nhân, doanh nghiệp có vai
trò “sống còn” giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
1.1.1.2. Đạo đức và đạo đức kinh doanh
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
18
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã hội.
Quan niệm trên đây cho thấy đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
thuộc bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh hiện thực đời sống xã hội
về lĩnh vực đạo đức. Vì vậy, đạo đức không phải do “mệnh trời” sinh ra hay là
biểu hiện của sức mạnh siêu nhiên nào đó mà là sản phẩm của xã hội, sản
phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan của hoạt động thực
tiễn con người. Đạo đức mang bản chất xã hội là cái của con người, do con
người và vì con người. Đạo đức nảy sinh, hình thành, tồn tại và phát triển
trong đời sống hiện thực của con người. Trong quá trình con người sống, hoạt
động, giao tiếp với nhau. Đạo đức mang tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân
tộc và cả tính nhân loại. Đạo đức điều chỉnh hành vi, lối ứng xử, phương thức
hành động của mỗi người trong quan hệ với xã hội và với những người khác
thông qua một hệ thống các giá trị. Việc điều chỉnh này được thực hiện bằng
những chuẩn mực, quy tắc, khuôn phép đạo đức phù hợp với từng thời điểm
lịch sử, từng cộng đồng người, từng giai cấp và dân tộc.
Với tư cách là một trong những hình thái ý thức xã hội đạo đức có những
đặc điểm khác so với một số phương thức điều chỉnh hoạt động của con
người. Đạo đức được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của chính chủ thể đạo
đức và được đảm bảo bằng sự kiểm soát của lương tâm con người hoặc bằng
dư luận xã hội. Do vậy, sự điều chỉnh hành vi con người bằng dư luận xã hội,
bằng lương tâm chỉ có trong lĩnh vực đạo đức. So với phong tục, truyền thống
thì đạo đức cũng khác bởi vì phong tục, truyền thống được duy trì bởi sức
mạnh của một trật tự đã ổn định, cịn đạo đức có cơ sở tư tưởng dưới hình
thức những quan niệm về việc con người phải sống và cư xử như thế nào cho
phù hợp.
Đạo đức là nội dung cốt yếu của tính cách con người và là cơ sở, nền
tảng để con người xây dựng lý tưởng sống, mục đích sống của mình. Nó có
19
vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Sự tồn tại của xã hội bao giờ
cũng cần đến đạo đức. Chính vì vậy, đạo đức ln được xem là một mục tiêu
của mọi thời kỳ phát triển, mọi chế độ xã hội và của cả loài người. Khi xã hội
càng tiến bộ, càng phát triển thì nhân loại càng cần đến đạo đức.
Sự tác động của đạo đức đến các lĩnh vực hoạt động kinh tế nhiều hay ít
phụ thuộc vào những yếu tố: bản thân ý thức đạo đức tiến bộ hay lạc hậu, ý
thức đạo đức thâm nhập vào quần chúng nhiều hay ít; khả năng giai cấp cầm
quyền hiện thực hoá tư tưởng và ý thức đạo đức của mình đối với xã hội, đất
nước đến đâu.
Nếu đạo đức tiến bộ thì nó sẽ có tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bởi vì đạo đức là nền tảng cho việc hoàn thiện và phát triển nhân cách cá
nhân, đạo đức tiến bộ là điều kiện để con người loại bỏ những cái thấp hèn,
hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Chúng tôi đồng ý với quan niệm của tác giả
Lương Quỳnh Khuê khi quan niệm: “Nhu cầu hướng tới chân, thiện, mỹ là
kiềng ba chân của các nhu cầu tinh thần. Nó có ý nghĩa đặc biệt trong việc
hình thành, phát triển nhân cách sáng tạo của con người” [ 18, tr.53]. Khi
những giá trị đạo đức tốt đẹp được hình thành, tính tích cực của người lao
động được phát huy sẽ tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Đồng thời, họ
tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì con người, chống lại thái độ vơ nhân
đạo, chống lại đói nghèo, lạc hậu, góp phần tạo ra những điều kiện nhất định
để con người thực hiện nhu cầu của mình. Chính hoạt động lao động sáng tạo
và đấu tranh của con người sẽ mang lại những giá trị đạo đức ngày càng tiến
bộ, làm cho quan hệ giữa người với người trở nên thân thiện hơn, xã hội sẽ
phát triển hài hoà, lành mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần. Đây chính là điều
kiện thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Trong thời đại ngày nay, đạo đức càng có vai
trị quan trọng trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, công bằng dân chủ, độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội. Đạo đức đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh
vì quyền con người, chống lại chủ nghĩa vô nhân đạo, bảo vệ môi sinh, chống
20
nghèo đói, tạo ra mọi khả năng và điều kiện thuận lợi để con người thực hiện
nhu cầu của mình.
Đối với sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay, đạo đức đã, đang và sẽ
có một vai trị vơ cùng to lớn, là động lực tinh thần của người cách mạng
trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Muốn thực hiện sự nghiệp cách
mạng đòi hỏi người cách mạng phải có đạo đức và phải khơng ngừng rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang…” [42, tr.283]. Khi có đạo đức cách mạng thì sẽ
chiến thắng được những thói hư, tật xấu, những tiêu cực và chủ nghĩa cá nhân
trong mỗi con người.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của đạo đức gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của con người. Là một phương thức đặc biệt để nhận thức cuộc sống và
điều chỉnh hành vi con người nên trong mọi thời đại, mọi chế độ chính trị
khác nhau, lồi người luôn cần đến đạo đức. Cho dù ở Phương Đông hay
Phương Tây, cổ đại hay hiện đại không lúc nào và khơng bao giờ đạo đức lại
vắng bóng và thiếu sự hiện diện của đạo đức trong đời sống xã hội. Nó là một
trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi của con người, là cội
nguồn của hạnh phúc và là động cơ, sức mạnh để chống lại cái ác, góp phần
thúc đẩy tiến bộ xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đạo đức kinh doanh bắt đầu trở thành một lĩnh vực khoa học vào đầu
những năm 1970. Đến cuối những năm 1970, một loạt vấn đề đạo đức kinh
doanh nảy sinh như hối lộ, quảng cáo lừa gạt, thông đồng cấu kết về giá, vi
phạm vệ sinh và an tồn thực phẩm, gây ơ nhiễm mơi trường … Lúc này đạo
đức kinh doanh khơng cịn là mĩ từ sáo rỗng nữa mà trở thành một từ ngữ phổ
biến và ngày càng đi sâu vào đời sống xã hội.
Trong những năm 1980 các nhà nghiên cứu và thực hành đạo đức kinh
doanh đã nhận ra rằng đây là một lĩnh vực đầy triển vọng. Ngày càng có
nhiều đối tượng khác nhau quan tâm đến việc nghiên cứu đạo đức kinh doanh.
21
Cuối những năm 1980, có những thay đổi trong quan điểm của cơng
chúng Mĩ về kinh doanh. Thay vì coi trọng sự kiểm sốt của chính phủ, dân
chúng cho rằng việc tự kiểm soát bản thân của mỗi người mới quan trọng.
Nhiều khoản thuế quan và rào chắn thương mại được dỡ bỏ, sáp nhập công ty
và chuyển hướng kinh doanh
Nếu một cơng ty khơng có các chương trình thỏa ước về đạo đức có hiệu
lực thật sự và có nhân viên vi phạm pháp luật, cơng ty có thể phải chịu những
hình phạt khắc nghiệt. Quan điểm chủ đạo của bản hướng dẫn là khuyến khích
các cơng ty tìm cách ngăn chặn các hành vi sai lầm, để qua đó các cơng ty có thể
loại trừ những thiệt hại to lớn do phải chịu các hình phạt khi vi phạm. Cách tiếp
cận cứng nhắc bằng các qui định pháp lí có tác dụng khơng đủ mạnh để buộc các
doanh nghiệp từ bỏ những lợi ích trước mắt, ngay cả hình phạt là rất nặng khi bị
phát hiện. Quan điểm được cho là tích cực hơn địi hỏi các cơng ty xây dựng bản
sắc riêng, hình thành những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức và hành vi đặc thù
của công ty để ngăn chặn các hành vi sai phạm.
Đạo đức kinh doanh ngày nay càng được nhiều người quan tâm. Những
vấn đề đạo đức trong kinh doanh được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau
như pháp lí, triết học, lí luận về khoa học xã hội, khoa học quản lí … Chúng
được nghiên cứu với quan điểm thiết thực trong việc giải quyết các vấn đề tồn
tại trong thực tiễn quản lí hàng ngày. Việc nghiên cứu về đạo đức kinh doanh
không hàm nghĩa thuần túy áp dụng hay áp đặt các qui tắc về điều gì nên hay
khơng nên, được phép hay không được phép làm trong những hồn cảnh cụ thể,
mà liên hệ một cách có hệ thống những khái niệm về trách nhiệm đạo đức với
việc ra quyết định trong một tổ chức. Những người quản lí doanh nghiệp, các
nhà nghiên cứu và các chính phủ đang tìm cách xây dựng những chỉ dẫn cụ thể,
có hệ thống có thể giúp các cá nhân, tổ chức ra các quyết định hợp lí về đạo đức.
Hiện nay việc nghiên cứu và thực hành đạo đức trong kinh doanh có xu
thế khơng cịn dựa vào những qui định pháp lí về đạo đức để xây dựng các
22
chương trình hành động, mà hướng tới xây dựng bản sắc văn hóa và sự đồng
thuận trong tổ chức. Nhiều tổ chức đều nhận ra rằng các chương trình đạo đức
kinh doanh thực thụ có thể góp phần quan trọng vào sự thành công của công
việc kinh doanh. Các chương trình hành động vì đạo đức kinh doanh trong tổ
chức thường nhấn mạnh vào việc làm rõ và đạt được sự đồng thuận về những
giá trị đặc trưng có thể tạo nên bản sắc riêng của tổ chức; mỗi cá nhân cũng
như tồn bộ tổ chức cần tơn trọng và cam kết hành động vì các giá trị này. Sai
lầm trong những hành động về mặt đạo đức có thể làm mất uy tín của một tổ
chức hay làm xấu đi hình ảnh về sản phẩm của một cơng ty.
Mơi trường lao động coi trọng đạo đức kinh doanh có tác dụng tạo nên
sự tin cậy giữa các cá nhân, bộ phận, đơn vị trong một tổ chức. Thực tế đã cho
thấy những công ty thành công trong việc tạo ra môi trường lao động tin cậy
lẫn nhau luôn đạt được hiệu quả cao hơn trong mọi hoạt động.
Đạo đức kinh doanh với tư cách là một khái niệm khoa học mới chỉ xuất
hiện từ nửa đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Người đầu tiên đưa ra khái
niệm này là nhà nghiên cứu đạo đức kinh doanh nổi tiếng Norman Bowei.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về đạo
đức kinh doanh. Theo PhilipV.Lewis, Đại học Abilene Christian, Hoa Kỳ,
trong thời gian từ năm 1961 đến 1985 trên các sách giáo khoa và các tạp chí
có khoảng trên 185 định nghĩa về đạo đức kinh doanh.
Tổng hợp tất cả những ý kiến có được, chúng tơi quan niệm, đạo đức
kinh doanh gồm những nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng hướng dẫn hành
vi trong mối quan hệ kinh doanh; chúng được những người hữu quan (như
người đầu tư, khách hàng, nhà quản lý, người lao động, đại diện cơ quan pháp
lý, cộng đồng dân cư, đối tác, đối thủ...) sử dụng để phán xét một hành động
cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức.
Nếu nói một cách đơn giản đạo đức kinh doanh là tập hợp các nguyên
tắc, chuẩn mực dùng để điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn, kiểm soát hành vi
23
kinh doanh sao cho lợi ích kinh doanh của họ phù hợp với lợi ích và yêu cầu
của xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu khi luận giải về đạo đức kinh doanh đều thống
nhất cơ bản cho rằng các yếu tố tác động đến đạo đức kinh doanh là:
Yếu tố phương thức sản xuất, theo quan niệm của triết học Mác - Lênin,
đạo đức là một hình thái của ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Mà yếu tố
quyết định của tồn tại xã hội là phương thức sản xuất, vì vậy, phương thức sản
xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định đến việc
hình thành, xây dựng đạo đức kinh doanh của mọi xã hội. Còn đạo đức kinh
doanh phản ánh thực tiễn kinh doanh của xã hội. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là hai mặt có quan hệ biện chứng hợp thành phương thức
sản xuất, phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn lịch sử của từng quốc gia, dân tộc cũng như của toàn nhân loại.
Phương thức sản xuất quyết định điều kiện sống của con người và của xã
hội. Trong đó, lực lượng sản xuất quyết định khả năng sản sinh khối lượng
và chất lượng của cải, ảnh hưởng đến đời sống chung toàn xã hội, song
quan hệ sản xuất lại quyết định trực tiếp đến sản xuất cái gì, sản xuất cho ai
và sản xuất như thế nào? Vì vậy, quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định đến
việc kinh doanh cái gì, kinh doanh như thế nào và kinh doanh để làm gì?
Nói cách khác, quan hệ sản xuất có vai trị gần như quyết định trong việc
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Do đó, nó có thể tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến đạo đức kinh doanh.
Yếu tố chính trị: giữa kinh tế và chính trị, giữa chính trị và đạo đức có
quan hệ với nhau tác động qua lại lẫn nhau trên cơ sở tính tất yếu kinh tế ở
đây chính trị thay thế một phần chức năng điều chỉnh hành vi con người của
đạo đức. Ngồi ra chính trị cịn có khả năng làm biến đổi tinh thần của đạo
đức. Aristốt từng nói rằng: Chính trị là khoa học có tính chất quyết định tính
chất và nội dung đạo đức.
24
Điều kiện tự nhiên, địa lý không chỉ tác động đến tâm lý cộng đồng, nó
cịn là cơ sở vật chất để hình thành nên tâm lý đó. Mỗi một môi trường sống,
điều kiện sống khác nhau của mỗi nước, mỗi tỉnh lại để lại dấu ấn rõ nét trong
tâm lý cộng đồng của cư dân nơi đó.
Có thể nói tâm lý được hình thành một cách trực tiếp, tự phát dưới ảnh
hưởng của điều kiện tự nhiên, của môi trường địa lý. Đạo đức kinh doanh của
người phương Tây có điểm giống và khác với đạo đức kinh doanh của người
Phương Đông. Ngay ở Việt Nam, tâm lý kinh doanh giữa các doanh nhân ở
phía Bắc và phía Nam cũng có những khác nhau tương đối. Nó có nguyên
nhân do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên.
Yếu tố kinh tế (lợi nhuận): Lợi nhuận là một trong những yếu tố cần
thiết cho sự tồn tại của một doanh nghiệp và là cơ sở đánh giá khả năng
duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu người quản
lý doanh nghiệp hiểu sai bản chất của lợi nhuận và coi là mục tiêu chính và
duy nhất của hoạt động kinh doanh thì sự tồn tại của doanh nghiệp có thể bị
đe doạ. Mục đích hàng đầu và tối thượng của người làm kinh doanh và các
doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận là động lực hết sức quan trọng đối
với các doanh nhân, doanh nghiệp. Cơ chế thị trường cổ vũ và thúc đẩy các
chủ thể kinh doanh trở lên thực dụng hơn. Họ sẵn sàng sử dụng nhiều thủ
đoạn vì mục đích lợi nhuận. Nguy cơ này đã được C.Mác cảnh báo trong
bộ Tư bản với việc trích dẫn lời của nhà kinh tế học T.J.Dunninh rằng:
Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Được đảm
bảo 10% lợi nhuận thì người ta có thể sử dụng tư bản vào đâu cũng
được; được 20% thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50% thì nó thật sự táo
bạo, được được 100% thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của lồi người;
được 300% thì khơng tội ác nào nó khơng dám phạm cho dù bị treo
cổ [36, tr.1056].
25
Yếu tố pháp luật (quản lý của nhà nước).
Để tăng cường tính liên kết giữa các doanh nghiệp và doanh nhân Việt
Nam nhà nước cần đóng vai trị trung tâm trong hoạt động bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể kinh doanh. Kinh doanh trên cơ sở tuân thủ pháp luật cả
hai đều hướng tới điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh doanh.
1.1.2. Kinh tế thị trường và tầm quan trọng của việc xây dựng đạo
đức kinh doanh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay
1.1.2.1. Một số nhận thức chung về kinh tế thị trường và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngày
nay, khái niệm kinh tế được hiểu theo hai nghĩa cơ bản: Tổng thể các quan hệ
sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất. Và toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ
phận của nền kinh tế quốc dân. Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo
ngành kinh tế, thành phần kinh tế và vùng kinh tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ
chế quản lý kinh tế.
Nói đến kinh tế là nói đến điều kiện vật chất của đời sống xã hội, hay nói
cách khác, đó là phương tiện để con người tồn tại. Chẳng hạn, muốn tồn tại,
con người cần phải có cái ăn, cái mặc, thuốc men để chữa bệnh... Tất cả
những gì thuộc kinh tế theo nghĩa đó - cịn gọi là tư liệu sinh hoạt - khơng
phải do thần thánh sinh ra, mà do con người dùng công cụ lao động của mình
tác động vào tự nhiên tạo ra. Ngay cả công cụ lao động mà con người dùng để
làm ra của cải vật chất đó cũng do chính con người tạo ra.
Trong q trình sản xuất ra của cải vật chất, con người không thể tiến
hành sản xuất một cách biệt lập, riêng lẻ được, mà trái lại, muốn tiến hành sản
xuất, con người chẳng những phải có quan hệ với tự nhiên mà cịn có quan hệ