Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Phát huy vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở huyện quảng xương, tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.43 KB, 101 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nơng thơn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay, sau hơn 4000 năm dựng nước
và giữ nước vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân cư đang sống ở
nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan
tâm hàng đầu, có vai trị quyết định đối với việc ổn định kinh tế xã hội của đất
nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định
mục tiêu xây dựng nông thôn mới là: Xây dựng nông thôn mới ngày càng
giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X)
ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 đã nêu một cách toàn
diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết khẳng
định nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vai trị to lớn, có vị trí quan trọng
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy các vấn
đề nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với
quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để
cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lịng xây dựng thơn, xã, gia đình của
mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất tồn diện (nơng nghiệp, cơng
nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hố, mơi trường và an ninh nông thôn được
đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng
cao. Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của tồn Đảng, tồn
dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã
hội, mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Xây dựng nông thôn mới giúp
cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đồn kết giúp đỡ nhau
xây dựng nơng thơn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.



2
Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp
hành Trung ương đảng (khố X) về nơng nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết
định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nơng thơn mới; Quyết định số 800/QĐ-TTg
ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nơng thơn mới giai đoạn 2010 - 2020, Chương trình
mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai trên địa bàn các
xã trong phạm vi cả nước, nhằm phát triển nơng thơn tồn diện, với nhiều nội
dung liên quan đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, mơi trường,
hệ thống chính trị cơ sở.
Thực hiện đường lối của Đảng, Nghị quyết của chính phủ, trong thời
gian qua, phong trào xây dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các
địa phương trên cả nước, thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy
được sức mạnh của xã hội nói chung và huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh
Hóa) nói riêng. Q trình xây dựng nơng thơn mới ở huyện Quảng Xương
(Thanh Hóa) đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi trong giao lưu buôn bán và phát triển sản
xuất; Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ,
ngành nghề, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả gắn với xây dựng
nơng thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật chất tinh thần cho người
dân; Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường; Dân chủ cơ
sở được phát huy; An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; Vị
thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao. Những thành tựu đó
đã góp phần thay đổi bộ mặt nơng thơn ở huyện Quảng Xương và góp phần
vào thành tựu phát triển - xã hội của tỉnh nhà.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới ở Huyện Quảng Xương
(Tỉnh Thanh Hóa) cịn bộc lộ nhiều khó khăn hạn chế như: cơng tác quy hoạch
nơng thơn mới cịn bất cập, thiếu tính khả thi; Đội ngũ cán bộ cịn nhiều hạn chế



3
về năng lực, nên trong q trình triển khai cịn nhiều lúng túng; Công tác huy
động vốn cho xây dựng nơng thơn mới gặp nhiều khó khăn; Nhận thức của
người dân còn mơ hồ trong việc thực hiện chủ trương xây dựng nơng thơn
mới… Tất cả những vấn đề đó có nhiều nguyên nhân, song một trong những
nguyên nhân chủ yếu là do chính quyền cấp cơ sở ở huyện Quảng Xương chưa
phát huy được vai trị của mình trong q trình xây dựng nơng thơn mới.
Theo Hiến pháp năm 2013, ở nước ta cơ cấu tổ chức của hệ thống
chính trị chia làm 4 cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và cơ sở. Cấp cơ sở là cấp cuối
cùng trong sự phân cấp hành chính. Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh
sống, gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hóa. Cấp cơ
sở là nơi trực tiếp sản xuất vật chất, là nền tảng vật chất cơ bản của xã hội, là
nơi có thể tổ chức, huy động, phát huy cao độ nội lực của quần chúng nhân
dân. Trong hệ thống chính trị của nước ta, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn là một thiết chế chính trị, cùng với Hội đồng nhân dân xã, phường, thị
trấn hình thành nên cấp chính quyền cơ sở trong hệ thống chính trị chính
quyền bốn cấp của nhà nước ta hiện nay. Cấp cơ sở có một vị trí rất quan
trọng, là đơn vị cuối cùng trực tiếp và chủ yếu thể hiện sự lãnh đạo của Đảng,
thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với nhân dân. Mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được chuyển hóa thơng qua hoạt động
lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, cấp huyện và cuối cùng được triển khai thực hiện
trực tiếp ở cơ sở. Nếu cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương được coi
là địa bàn vĩ mô trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước ở địa phương
thì cấp cơ sở được coi là đơn vị vi mô nền tảng của vĩ mơ đó. Hồ Chí Minh đã
từng dạy: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được thì mọi việc đều xong xi” [41, tr.371]. Vì vậy, chính quyền cấp cơ
sở có vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình xây dựng nông thôn mới ở
xã, phường, thị trấn.



4
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất ở cơ sở, trong suốt quá trình
lãnh đạo nhân dân xây dựng nơng thơn mới, chính quyền cấp cơ sở ở huyện
Quảng Xương luôn được đổi mới và đã từng bước trưởng thành, hồn thiện,
đóng góp một vai trị hết sức quan trọng trong thành công của việc xây dựng
nông thơn mới, góp phần nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Tuy nhiên
trong thực tiễn tổ chức xây dựng nơng thơn mới, chính quyền xã vẫn chưa
phát huy hết vai trị và tiềm năng của mình nên kết quả xây dựng nơng thơn
mới cịn khiêm tốn. Tính đại diện và khả năng thay mặt nhân dân quyết định
các vấn đề quan trọng ở địa phương thấp. Vì vậy, học viên chọn đề tài: Phát
huy vai trị của chính quyền cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa hiện nay làm đề tài nghiên cứu và
viết luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng nông thôn mới là nội dung rất mới được Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta triển khai trong những năm gần đây nên số cơng trình nghiên cứu
về vai trị của chính quyền cơ sở trong xây dựng nơng thơn mới chưa nhiều.
Với khả năng tìm hiểu của học viên, có một số cơng trình tiêu biểu như sau:
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về vai trị của hệ thống chính trị cấp
cơ sở, chính quyền cơ sở trong phát triển kinh tế - xã hội:
- TS. Lưu Minh Trị, “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở
nơng thơn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, năm 1993.
- Đặng Thị Hiền, “Đổi mới kiện tồn hệ thống chính trị cấp cơ sở nông
thôn (thông qua khảo sát thực tế của tỉnh Tuyên Quang)”, Luận văn thạc sĩ
khoa học chuyên ngành Triết học, 1993.
- GS.TS. Phạm Ngọc Quang, “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm
phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động”, Tạp chí Triết học,
số 3 năm 1996.



5
- GS. Nguyễn Đức Bình, GS. PTS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn Trọng
Truyến, Nguyễn Văn Thảo, PGS. PTS Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm),
“Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới”
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- PGS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), “Hệ thống chính trị cấp cơ sở
và dân chủ hố đời sống xã hội nơng thơn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- TS. Vũ Hồng Cơng, “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng
và giải pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- TS. Đặng Đình Tân, “Chính quyền cấp xã - những vấn đề đặt ra hiện
nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Đặc san số 3 năm 2002.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khoá IX về “ Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- GS.TS. Hồng Chí Bảo (chủ biên), “Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng
thơn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- TS. Chu Văn Thành (chủ biên), “Hệ thống chính trị cơ sở- Thực trạng
và một số giải pháp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Luận án tiến sĩ của Đàm Bích Hiên, Hồn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay (2008). Nơi bảo
vệ: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Các cơng trình này đã nghiên cứu trực tiếp hệ thống chính trị ở cơ sở từ
các góc độ khác nhau trên cơ sở nội hàm khái niệm hệ thống chính trị; định
nghĩa khái niệm hệ thống chính trị và khái quát những đặc điểm, xu hướng
vận động, vị trí, vai trị của cơ sở cũng như hệ thống chính trị ở cơ sở ở nước
ta hiện nay; phân tích thực trạng và những bất cập của hệ thống chính trị ở cơ
sở, tìm nguyên nhân và đề xuất các giải pháp đổi mới hệ thống chính trị ở cơ



6
sở nước ta hiện nay. Những tri thức mà các nhà khoa học rút ra ở đây có ý
nghĩa và rất được trân trọng. Luận văn kế thừa nhiều những thành quả này và
sẽ là cơ sở để tác giả hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về xây dựng nơng thơn mới:
- Nghiên cứu của Tô Xuân Dân (c.b), Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng
(2013): “Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam: Tầm nhìn mới, tổ chức quản lí
mới, bước đi mới”, Nxb Nông nghiệp. Nghiên cứu đã cung cấp cho chúng ta
những kiến thức cơ bản về nông nghiệp, nông dân, nơng thơn mới ở Việt Nam
trên một số khía cạnh: tầm nhìn, bước đi, mơ hình tổ chức, nguồn lực và một
số kĩ năng cần thiết đối với cán bộ quản lí nơng thơn mới ở cơ sở. Vì vậy, đây
là cơ sở lý luận để luận văn thấy được vai trị của chính quyền cấp cơ sở trong
việc xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu của Vũ Văn Phúc (ch.b.), Hồ Xuân Hùng, Phạm Tất
Thắng…, “Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn” ,
Nxb CTQG, H. 2012. Tài liệu này tập hợp một số bài viết nghiên cứu về các
vấn đề lý luận chung, kinh nghiệm quốc tế trong q trình xây dựng nơng
thơn mới và thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam thời gian qua. Do
đó, tài liệu này sẽ cung cấp cho luận văn những vấn đề lý luận về xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu của Đoàn Quang Thiệu: Phát triển kinh tế nông - lâm
nghiệp là nội dung cơ bản để xây dựng nông thôn mới, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển (2009). Số 145. tr. 51-53. Bài viết khẳng định việc phát triển nông lâm nghiệp hiện nay ở nước ta là nội dung cơ bản để hồn thành mục tiêu xây
dựng nơng thơn mới.
- Nghiên cứu của Nguyễn Hồng Chuyên (2013), “Thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới” , Nxb Tư pháp, H.
Cuốn sách này giới thiệu một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới.



7
Trình bày chủ trương, đường lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà
nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nơng thơn mới. Phân tích lý
luận vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông
thôn mới. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục
vụ xây dựng nông thôn mới qua thực tế của tỉnh Thái Bình. Đề xuất các giải
pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu của Nguyễn Anh Thuỳ, Tài liệu hỏi - đáp xây dựng nông
thôn mới cấp xã, sách viết về những câu hỏi đáp về những nguyên tắc cơ bản
xây dựng nông thôn mới cấp xã theo Quyết định 491 của Thủ tướng Chính phủ.
- Nghiên cứu của Dương Chí Thiện (2012), Vai trị và những đóng góp
chủ yếu của các tổ chức xã hội tự nguyện trong xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Xã hội học. Bài viết đã chỉ ra một số tổ chức xã
hội tự nguyện ở nơng thơn hiện nay, chỉ ra vai trị của các tổ chức này trong
việc xây dựng nông thôn mới.
- Nghiên cứu của Trần Minh Yến (ch.b.), Nguyễn Việt Anh, Đào Thị
Hồng Mai.... Xây dựng nơng thơn mới - Khảo sát và đánh giá, Nxb. KHXH
2013, Cuốn sách trình bày một số lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn
mới, khảo sát thực trạng và đánh giá bước đầu về q trình thực hiện xây
dựng nơng thơn mới, những kiến nghị và kết luận về chương trình xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu của Lê Thị Hiền, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Lê Thị Hồng
Phúc: Phát huy dân chủ để xây dựng nông thơn mới , Nxb. Văn hố dân tộc
2013, cuốn sách gồm 15 câu hỏi và đáp những vấn đề cơ bản trong xây dựng
nông thôn mới cũng như việc phát huy dân chủ để xây dựng nông thôn mới.
- Thuỳ Linh, Việt Trinh S.t., hệ thống hoá, Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu
chí quốc gia về xây dựng nơng thơn mới 2014: Có hiệu lực kể từ ngày 20-11-



8
2013. Nxb Nông nghiệp, H. 2013. Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia
về nơng thơn mới. Các văn bản chỉ đạo thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới. Giới thiệu bộ quy chuẩn quốc gia về xây dựng
nông thôn mới. Cơ chế đầu tư, hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế nông nghiệp và
nông thôn. Hướng dẫn quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước và kiểm
tốn chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Từ kết quả khảo cứu tài liệu nghiên cứu nêu trên cho thấy, việc nghiên
cứu vai trị của chính quyền ở cơ sở trong việc phát triển kinh tế - xã hội thời
gian qua ở nước ta chưa nhiều và hẹp hơn nữa là chỉ ở cơ sở nông thôn huyện
Quảng Xương trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong xây dựng nơng thơn mới thì
chưa có cơng trình nghiên cứu nào. Vì vậy, việc triển khai luận văn Phát huy
vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong xây dựng nơng thơn mới ở huyện
Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa) hiện nay là cần thiết. Đồng thời để hồn
thành nhiệm vụ của mình, luận văn sẽ kế thừa kết quả những nghiên cứu đã
khảo sát trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ vai trị và thực trạng phát huy vai trị chính quyền cấp
cơ sở trong việc xây dựng nông thôn mới ở huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh
Hóa) , luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vai
trị của chính quyền cấp cơ sở trong việc xây dựng nông thôn mới ở huyện
Quảng Xương hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát một số vấn đề lý luận chung về thực chất của xây
dựng nông thơn mới và vai trị của chính quyền cấp cơ sở trong xây dựng
nông thôn mới.



9
- Phân tích thực trạng vai trị của chính quyền cấp cơ sở trong việc xây
dựng nông thôn mới ở huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa) hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trị của chính
quyền cấp cơ sở ở Huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa) trong việc xây
dựng nơng thơn mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trị của chính quyền cấp cơ sở (Hội đồng nhân dân xã, ủy ban nhân
dân xã) trong việc xây dựng nông thôn mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trị của chính quyền cấp cơ sở trong việc xây dựng nông thôn mới ở
huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các văn kiện Đại hội Đảng và các
hội nghị Trung ương; các cơng trình khoa học trong và ngồi nước đã nghiên
cứu, cơng bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về vấn đề này...
Luận văn sử dụng những chỉ thị, nghị quyết, quyết định cùng các tài
liệu khác về xây dựng nông thôn mới được cung cấp bởi Uỷ ban nhân dân,
Hội đồng nhân nhân dân các cấp của huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp cùng các phương pháp nghiên cứu
khoa học khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử và lơgíc, trừu tượng và
cụ thể, điều tra xã hội học, so sánh, tổng kết thực tiễn.



10
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ nét riêng về vai trò của chính quyền cấp cơ sở
trong việc xây dựng nơng thơn mới, đưa ra giải pháp để phát huy vai trò của
chính quyền cấp cơ sở trong việc xây dựng nơng thơn mới ở nước ta nói
chung, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm cơ sở lý luận cho các nhà
hoạch định kế hoạch xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Đồng thời, có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy vấn đề có liên
quan ở các trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện…
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương, 5 tiết.


11
Chương 1
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở NƯỚC TA - THỰC CHẤT
VÀ VAI TRỊ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI
1.1. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI - THỰC CHẤT VÀ TÍNH TẤT YẾU

1.1.1. Thực chất của xây dựng nông thôn mới
Khái niệm“nông thôn mới”
Để hiểu rõ hơn về khái niệm nông thôn mới, xây dựng nông thơn mới
chúng ta cần tìm hiểu một số khái niệm liên quan:
Nông nghiệp: theo Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của
Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn:

Nông nghiệp là phân ngành trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân, bao gồm
các lĩnh vực nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản.
Nông dân: Theo “Bách khoa tri thức tồn thư Việt Nam”: nơng dân là
những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp.
Nông dân sống chủ yếu bằng làm ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề
truyền thống. Tư liệu sản xuất chính của nơng dân là đất đai. Tùy từng quốc
gia, từng thời kỳ lịch sử, người nơng dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng
đất. Họ hình thành nên giai cấp nơng dân, có vị trí, vai trị nhất định trong xã
hội. Theo số liệu của Hội Nông dân Việt Nam, hiện nay nước ta có khoảng 13
triệu hộ nơng dân.
Nơng thơn: theo Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của
Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn:
nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị
xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.
Nơng thơn Việt Nam hiện nay có khoảng 70% dân số sinh sống.


12
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức về thế nào là nông thôn
mới và xây dựng nông thôn mới là gì? Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 26 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nơng nghiệp, nơng dân, nơng
thơn, thì nơng thơn mới được hiểu là: xây dựng nông thôn (chỉ bao gồm các
xã) ở Việt Nam hiện nay có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội - nông thôn
ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nơng thơn dưới sự lãnh đạo của Đảng
được tăng cường.
Thông tư số 54/TT-NNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quy định: “vùng/khu vực nông thôn mới Việt Nam xã hội

chủ nghĩa là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị
xã, thị trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã”.
Như vậy, nông thôn mới trước hết phải là nông thôn, chứ không phải thị tứ,
thị trấn… Nông thôn mới vừa bao hàm chức năng năng lịch sử vốn có của
nơng thơn là vùng nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nơng
nghiệp, vừa có những thuộc tính khác với nơng thơn truyền thống. Với tinh
thần đó, nông thôn mới cơ năm nội dung cơ bản là: Làng xã văn minh, sạch
đẹp, hạ tầng hiện đại; Sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng
hóa; Đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân nông thôn ngày càng
được nâng cao; Giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn, phát triển; Xã hội
nơng thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ. Để xây dựng nơng thơn mới với năm
nội dung đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg
ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nơng thơn mới bao gồm 19 tiêu chí.
Có thể nói, xây dựng nơng thơn cũng đã có từ lâu tại Việt Nam. Trước
đây, có thời điểm chúng ta xây dựng mơ hình nơng thơn ở cấp huyện, cấp


13
thôn, nay chúng ta xây dựng nông thôn mới ở cấp xã. Sự khác biệt giữa xây
dựng nông thôn trước đây với xây dựng nông thôn mới ở những điểm sau:
Một là, xây dựng nông thôn mới là xây dựng nơng thơn theo tiêu chí chung cả
nước được định trước. Hai là, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn cấp xã và
trong phạm vi cả nước, khơng thí điểm như trước đây, triển khai đồng loạt
trên 9111 xã của cả nước. Ba là, cộng đồng dân cư là chủ thể của xây dựng
nông thôn mới, không phải ai làm hộ, người nông dân tự xây dựng. Bốn là,
đây là một chương trình khung, bao gồm 11 chương trình mục tiêu quốc gia
và 13 chương trình có tính chất mục tiêu đang diễn ra tại nông thôn.
Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân cư
đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông thơn đã, đang và sẽ cịn
là mối quan tâm hàng đầu, có vai trị quyết định đối với việc ổn định kinh tế

xã hội đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới là:“Xây dựng nông thôn mới ngày
càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện
đại” [18, tr.196].
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, đồng thời để đáp ứng những địi hỏi
thơi thúc của thực tiễn, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X), ngày 5
tháng 8 năm 2008 đã ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nơng dân,
nơng thơn. Nghị quyến đã nêu một cách tồn diện quan điểm của Đảng ta về
xây dựng nông thôn mới nhằm:
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nơng
thơn, hài hịa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
vùng còn nhiều khó khăn; nơng dân được đào tạo có trình độ sản
xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh
chính trị, đóng vai trị làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông


14
nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất
hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gai cả trước
mắt và lâu dài. Xây dựng nơng thơn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp
lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô
thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ
thống chính trị ở nơng thơn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng
cường [19, tr.125-126].
Hội nghị Trung ương Bảy (khóa X) cũng chỉ ra:
Mục tiêu đến năm 2020: Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt
3,5 - 4%/năm; sử dựng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy

trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia
trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển
công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản
việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần
so với hiện nay.
Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao
động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông
thôn mới khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu
chủ động cho tồn bộ diện tích đất lúa 2 vụ, mở rộng diện tích tưới
cho rau màu, cây cơng nghiệp, cấp thốt nước chủ động cho diện
tích ni trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông suốt 4
mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ơ tơ tới các thơn, bản;
xây dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp


15
điện sinh hoạt cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn; đảm bảo cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt
văn hoá, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nơng thơn tiến gần tới
mức các đơ thị trung bình.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có
hiệu quả, bền vững cơng cuộc xố đói, giảm nghèo; nâng cao trình
độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nơng dân, tạo điều kiện
để nơng dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hồn chỉnh hệ
thống đê sơng, đê biển và rừng phịng hộ ven biển, hệ thống cơ sở
hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng
chống bão, lũ, ngăn mặn và chống nước biển dâng; tạo điều kiện
sống an tồn cho nhân dân đồng bằng sơng Cửu Long, miền Trung

và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; chủ động triển khai
một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu
tồn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ơ nhiễm môi trường, từng
bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn [19, tr.126-127].
Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới:
Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển đô thị và bố trí các
điểm dân cư. Phát triển mạnh cơng nghiệp, dịch vụ và làng nghề
gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng
nơng thơn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi
cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của nơng thơn Việt Nam. Đẩy mạnh
xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để
khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn,


16
nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao
động… [20, tr.197-198].
Với Nghị quyết của Đảng, những quyết sách của Chính phủ và sự vào
cuộc mạnh mẽ của các địa phương, các bộ, ban, ngành từ trung ương tới cơ
sở, việc xây dựng nông thôn mới theo đúng lộ trình thực sự trở thành một
cuộc vận động cách mạng của đất nước trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nội dung xây dựng nơng thơn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nơng thơn mới là một
chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc
phòng, gồm 11 nội dung sau:
Một là, quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Quy hoạch sử dụng đất và
hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nơng nghiệp hàng hóa, cơng nghiệp,
tiểu thủ cơng nghiệp và dịch vụ và quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã

hội - môi trường; phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư
hiện có trên địa bàn xã.
Hai là, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội. Hoàn thiện đường giao thông
đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã và hệ thống giao thơng trên địa bàn xã. Hồn
thiện hệ thống các cơng trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa thể thao
trên địa bàn xã. Hồn thiện hệ thống các cơng trình phục vụ việc chuẩn hóa về
giáo dục trên địa bàn xã. Hoàn chỉnh trụ sở xã và các cơng trình phụ trợ.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát
triển sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao; Tăng cường công tác khuyến
nông; đẩy nhanh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp; Cơ giới hóa nơng nghiệp, giảm tổn thất sau thu
hoạch trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; Bảo tồn và phát triển làng nghề


17
truyền thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành
nghề theo thế mạnh của địa phương; Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động
nông thôn, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và
chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn.
Bốn là, giảm nghèo và an sinh xã hội. Thực hiện có hiệu quả Chương
trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao
(Nghị quyết 30a của Chính phủ) theo Bộ tiêu chí quốc gia về nơng thơn mới;
Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo; Thực hiện
các chương trình an sinh xã hội.
Năm là, đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu
quả ở nơng thôn. Phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã; Phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn; Xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên
kết kinh tế giữa các loại hình kinh tế ở nơng thơn.
Sáu là, phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thơn. Tiếp tục thực hiện

Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của
Bộ tiêu chí quốc gia nơng thơn mới.
Bảy là, phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nơng thơn. Tiếp tục
thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia trong lĩnh vực về y tế, đáp ứng yêu
cầu Bộ tiêu chí quốc gia nơng thơn mới.
Tám là, xây dựng đời sống văn hóa, thơng tin và truyền thơng nơng
thơn.Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, đáp ứng
u cầu Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới; Thực hiện thông tin và truyền
thông nông thơn, đáp ứng u cầu Bộ tiêu chí quốc gia nơng thơn mới.
Chín là, cấp nước sạch và vệ sinh mơi trường nơng thơn. Tiếp tục thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường
nơng thơn; Xây dựng các cơng trình bảo vệ mơi trường nông thôn trên địa bàn
xã, thôn theo quy hoạch, gồm: xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát


18
nước trong thơn, xóm; xây dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải ở các xã;
chỉnh trang, cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong
khu dân cư, phát triển cây xanh ở các cơng trình cơng cộng….
Mười là, nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể
chính trị - xã hội trên địa bàn. Tổ chức đào tạo cán bộ đạt chuẩn theo quy
định của Bộ Nội vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng nơng thơn mới; Ban hành
chính sách khuyến khích, thu hút cán bộ trẻ đã được đào tạo, đủ tiêu chuẩn về
công tác ở các xã, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
để nhanh chóng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ ở các vùng này; Bổ sung chức
năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị
phù hợp với u cầu xây dựng nơng thơn mới.
Mười một là, giữ vững an ninh, trật tự xã hội nơng thơn. Ban hành nội
quy, quy ước làng xóm về trật tự, an ninh; phòng, chống các tệ nạn xã hội và các
hủ tục lạc hậu; Điều chỉnh và bổ sung chức năng, nhiệm vụ và chính sách tạo

điều kiện cho lượng lực lượng an ninh xã, thơn, xóm hoàn thành nhiệm vụ đảm
bảo an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn theo yêu cầu xây dựng nông thơn mới.
Có thể nói, với những nội dung xây dựng nơng thơn mới đã nêu trên là
một q trình kinh tế xã hội, nhằm tạo ra những giá trị mới về kinh tế, xã hội,
văn hóa, mơi trường phù hợp với nhu cầu xã hội trong thời kì cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước. Xây dựng nơng thơn mới thành cơng, cần sự
quyết tâm chính trị ở mức cao nhất của Đảng, Nhà nước và đặc biệt là chính
quyền cấp xã cũng như sự làm chủ thực sự của người nơng dân.
1.1.2. Tính tất yếu của việc xây dựng nông thôn mới
ở nước ta hiện nay
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là cơng việc vơ cùng khó khăn và
thách thức. Vì vậy, muốn xây dựng thành cơng xã hội chủ nghĩa, chúng ta


19
phải phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội. Với điểm xuất phát là nước nơng
nghiệp thì trong thời kỳ quá độ hiện nay, việc nước ta phải xây dựng nông
thôn mới là một tất yếu khách quan. Đây vừa là yêu cầu thiết yếu từ thực tiễn
đất nước, vừa là kinh nghiệm thực tiễn của thế giới đã chỉ ra. Điều đó được
thể hiện như sau:
Một là, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn là xu thế phát triển của
thế giới đương đại
Thực tiễn phát triển của thế giới chứng minh rằng, sẽ khơng thể có một
nước cơng nghiệp nếu nông nghiệp và khu vực nông thôn nghèo nàn, lạc hậu,
cư dân nơng thơn có đời sống vật chất và đời sống tinh thần thấp kém. Lịch sử
hình thành các cộng đồng, tộc người ở tất cả các quốc gia trên thế giới đều bắt
đầu từ nông thôn. Hiện nay, ở rất nhiều nước phát triển, chỉ có 4% dân số làm
nông nghiệp nhưng đã sản xuất ra của cải vật chất đủ đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng cả đất nước. Có được thành tựu đó là do họ có một q trình sản xuất

nơng nghiệp hiện đại theo hướng cơng nghiệp. Tuy nhiên, tất cả những điều
đó khơng tự nhiên mà có, họ cũng phải phấn đấu, trả giá qua cả một q trình
xây dựng, tìm tịi, nghiên cứu và trải nghiệm. Chẳng hạn:
Nước Mỹ: Để thành cơng trong phát triển nơng nghiệp, Chính phủ Mỹ
đã tập trung cho ngành này các khoản vốn đầu tư lớn và tăng cường sử dụng
lao động có trình độ cao. Công nghệ sinh học giúp phát triển những loại giống
chống được bệnh và chịu hạn. Phân hóa học và thuốc trừ sâu được sử dụng
hợp lý. Công nghệ vũ trụ được sử dụng để giúp tìm ra những nơi tốt nhất cho
việc gieo trồng và thâm canh mùa màng. Định kỳ, các nhà nghiên cứu lại giới
thiệu các sản phẩm thực phẩm mới và những phương pháp mới phục vụ việc
nuôi trồng thủy, hải sản. Ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một
ngành “kinh doanh nông nghiệp”. Sự ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp
vào cuối thế kỷ XX đã tạo ra ít trang trại hơn, nhưng quy mơ các trang trại thì


20
lớn hơn nhiều. Vào năm 1940, Mỹ có 6 triệu trang trại và trung bình mỗi
trang trại có diện tích khoảng 67 ha, đến cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, số
trang trại chỉ còn 2,2 triệu nhưng trung bình mỗi trang trại có diện tích 190 ha.
Cũng chính trong khoảng giai đoạn này, số lao động nông nghiệp giảm rất
mạnh - từ 12,5 triệu người năm 1930 xuống còn 1,2 triệu người vào cuối thập
niên 90 của thế kỷ trước - dù cho dân số của Mỹ tăng hơn gấp đôi [12, tr.315].
Hàn Quốc: cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân đầu người
của Hàn Quốc chỉ có 85 USD; phần lớn người dân khơng đủ ăn; 80% dân
nơng thơn khơng có điện thắp sáng và phải dùng đèn dầu, sống trong những
căn nhà lợp bằng lá. Do đó, phong trào Làng mới (SU) đã ra đời với 3 tiêu
chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực vượt khó, và, hợp tác (hiệp lực cộng đồng).
Năm 1970, sau những dự án thí điểm đầu tư cho nơng thơn có hiệu quả,
Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát động phong trào SU và được nông
dân hưởng ứng mạnh mẽ. Chính phủ khuyến khích và hỗ trợ xây dựng nhiều

nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho nông dân. Bộ
mặt nông thơn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu. Chỉ sau 8
năm, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nơng thơn cơ bản được hồn thành
[12, tr.318-319]. Đặc biệt, Hàn quốc đã phát triển chương trình “mỗi làng một
sản phẩm”. Từ đó, tạo phong trào thi đua phát triển trong các làng , cơ khí hóa
trong sản xuất nơng nghiệp, áp dụng cơng nghệ cao, giống mới lai tạo đột
biến, công nghệ nhà lưới, nhà kính trồng rau, hoa quả đã thúc đẩy năng suất,
giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng nhanh.
Trung Quốc, là nước có điều kiện về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn
khá giống với Việt Nam. Năm 2004 đánh dấu một điểm ngoặt trong cải cách
nơng thơn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi chính sách đối
với nơng thơn nhằm giải quyết đồng thời vấn đề nông nghiệp, nông thôn và
nông dân, gọi là Tam nông. Mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới ở


21
Trung Quốc là: “sản xuất phát triển, đời sống ấm no, làng xã văn minh, diện
mạo sạch đẹp, quản lý dân chủ”. Đồng thời, nhà nước đưa ra 8 chính sách ưu
tiên để thúc đẩy việc xây dựng nông thôn là: đề ra kế hoạch hoá phát triển
kinh tế - xã hội ở nông thôn như một tổng thể và cương quyết xây dựng nông
thôn mới hiện đại; thúc đẩy nông nghiệp hiện đại và củng cố việc hỗ trợ của
công nghiệp để xây dựng nông thôn; bảo đảm việc tăng bền vững thu nhập
của nông dân bằng một cơ sở kinh tế nông thôn vững chắc; tăng xây dựng cơ
sở hạ tầng ở nông thôn để cải tiến điều kiện vật chất; đẩy nhanh việc phát
triển dịch vụ công ở nơng thơn và khuyến khích nơng dân tham gia xây dựng
nông thôn mới; thực hiện sâu hơn cải cách nơng thơn để bảo đảm sự bảo vệ có
hệ thống người dân nông thôn; cải tiến dân chủ ở nông thơn và hồn thiện
việc quản lý nơng thơn; thúc đẩy sự lãnh đạo, khuyến khích đảng viên, tồn
xã hội giữ gìn, hỗ trợ và tham gia việc xây dựng nơng thơn mới. Bên cạnh đó,
chính phủ Trung Quốc cũng chủ trương tăng ngân sách cho phát triển nông

thôn. Xây dựng một cơ chế để công nghiệp và đô thị thúc đẩy phát triển nông
thôn. Hỗ trợ từ vốn nhà nước lớn và tăng liên tục. Phần lớn trái phiếu và vốn
ngân sách sẽ đi về phát triển nông thôn. Đặc biệt đầu tư để cải tiến sản xuất và
điều kiện sống sẽ trở thành một luồng ổn định để tăng vốn cho xây dựng
[51]. Cùng đó, Trung Quốc cũng tập trung xây dựng cơ chế hướng nghiệp,
đào tạo kỹ năng làm việc, đặc biệt là lao động trẻ. Nhờ việc xây dựng nông
thôn mới đúng đắn và đáp ứng được nguyện vọng của nông dân mà đến năm
2009, thu nhập bình qn của cư dân nơng thơn ở Trung Quốc lần đầu tiên đạt
mức trên 5.000 NDT [1].
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông
thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững
nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường
vai trò của cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy


22
mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của cá nhân và tập thể bằng cách
mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và
nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt
vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo
hiểm rủi ro cho nông dân.
Từ một số kinh nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn mới nêu trên
cho thấy, những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của
nhà nước trên cơ sở phát huy tính tự chủ, năng động, trách nhiệm của người
dân để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với
việc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thành cơng nơng nghiệp - tạo nền tảng
thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là, thực tiễn Việt Nam đi lên từ nông nghiệp và nhu cầu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn ở Việt Nam
Xét về mặt lịch sử, phát triển nông nghiệp (bao gồm cả nông nghiệp,

lâm nhiệp và ngư nghiệp) là ngành sản xuất vật chất hình thành đầu tiên của
xã hội lồi người và ln là một ngành kinh tế có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bởi, phát triển nông
nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cũng như nguyên liệu gia dụng khác
cho đời sống của con người; cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất tiểu thủ
công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến; xuất khẩu hàng hóa nơng sản thu
ngoại tệ, tạo tích lũy ban đầu, đầu tư trở lại cho phát triển kinh tế - xã hội; là
thị trường tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp - dịch vụ; phòng chống, ngăn
ngừa thiên tai, bảo vệ mơi trường sinh thái, điều hịa khí hậu.
Xây dựng nơng thơn là q trình lịch sử hàng ngàn năm nay của dân
tộc ta, qua đó đã góp phần xây dựng và tạo nên Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa như ngày nay. Hiện nay nước ta, có tới trên 70% dân số làm nông
nghiệp, gần 80% dân số sống ở nơng thơn, 90% diện tích nước ta là vùng


23
nơng thơn và miền núi. Mỗi năm nơng nghiệp đóng góp gần 30% GDP của cả
nước. Những con số đó cho thấy tầm quan trọng của nông nghiệp và nông
thôn trong phát triển đi lên của đất nước.
Nông dân Việt Nam là nhóm dân số đơng nhất ở nước ta, là giai cấp
cách mạng đồng hành cùng với giai cấp công nhân trong suốt chiều dài lịch sử
cách mạng, nhưng lại đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống và ít được
hưởng lợi nhất các thành quả của cách mạng. Mặc dù sau gần 30 năm thực
hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Song, nhiều thành tựu đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Đặc biệt trong lĩnh vực nơng
nghiệp: nơng nghiệp phát triển cịn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp,
chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cịn hạn chế.
Nơng nghiệp, nơng thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng như giao
thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, cấp nước… cịn yếu kém, mơi trường

ngày càng ơ nhiễm. Đời sống vật chất, tinh thần của người nơng dân cịn thấp,
tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị lớn,
phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Khơng thể có một nước tiên tiến nếu
nơng nghiệp và nơng thơn cịn lạc hậu và đời sống nhân dân cịn thấp. Vì vậy,
xây dựng nơng thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của quá trình đổi mới quê hương, đất nước. Đồng thời, góp phần cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân sinh sống ở địa bàn
nông thôn.
Nông thôn nước ta là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về
thành phần tộc người, về văn hóa, là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập
quán của cộng đồng. Song, không thể có một nước văn hóa tiên tiến khi nơng
nghiệp và nông thôn nghèo nàn, lạc hậu. Cư dân nông thôn có đời sống vật
chất và đời sống văn hóa tinh thần thấp kém, có nhiều hủ tục. Vì vậy, u cầu


24
tất yếu của sự phát triển là cần phát phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nơng dân nơng thơn. Do đó, vấn đề phát triển nông
thôn không những mang ý nghĩa phát triển kinh tế mà còn cả vấn đề xã hội,
an ninh quốc phịng và trật tự xã hội.
Nơng thơn là mơi trường sống của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội với nhiều nét đặc thù của làng quê Việt. Thuật
ngữ “phát triển nông thôn” cũng đã được nhắc đến thường xuyên ở nước ta,
nhưng thế nào là phát triển nông thôn, nông thôn được xac định như thế nào
thì cịn có nhiều quan điểm chưa thực sự thống nhất. Do đó, việc đầu tư cho
lĩnh vực này cịn hiện hữu tình trạng “chắp vá”, dàn trải, thiếu tính kế thừa
cho phát triển ổn định, bền vững. Ở nước ta từ nhiều năm, việc xác định vùng
nông thôn chủ yếu dựa trên đơn vị hành chính với chủ thể là lao động nghề
nơng, chưa tính đến xây dựng một nền kinh tế hàng hóa và các nội dung khác.
Do vậy, việc đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa hợp lý và gặp

không ít khó khăn. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc phát triển
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với xu thế phát triển của
nhân loại là tất yếu khách quan. Xây dựng nông thôn mới hiện nay được đặt
ra một cách toàn diện nhất và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta.
Chương trình này đáp ứng được mong ước của nhân dân và thỏa mãn các yêu
cầu, mục tiêu chiến lược xây dựng nước ta cơ bản thành một nước công
nghiệp vào năm 2020.
Sản xuất nơng nghiệp ngồi chức năng đáp ứng nhu cầu kinh tế, an
ninh lương thực cịn có chức năng sinh thái. Nếu q trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong cơng nghiệp ở nước ta thời gian qua đang phá
vỡ mối quan hệ hài hòa vốn có giữa con người với thiên nhiên thì sản xuất
nơng nghiệp lại có chức năng giữ gìn, bảo tồn khôi phục lại hệ thống sinh
thái. Sản xuất nông nghiệp luôn làm cho con người gần gũi, gắn chặt với thiên


25
nhiên và dung dưỡng thiên nhiên. Vì vậy, việc xây dựng nơng thơn mới hiện
nay ở nước ta ngồi những địi hỏi về kinh tế - chính trị - xã hội, còn là một
nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện chức năng cân bằng sinh thái, hạn
chế biến đổi khí hậu tồn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng.
Để q trình xây dựng nơng thơn mới đạt hiệu quả cao, cần sự phấn
đấu của chủ thể nông dân, sự giúp sức của các giai cấp khác dưới sự lãnh đạo
của Đảng sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa nông thôn phát triển. Tuy nhiên
con đường đi lên không phải là con đường thẳng trải đầy nhung lụa mà nó là
một q trình phấn đấu gian nan. Nhưng tin rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự đoàn kết, cầu thị của cả dân tộc, xây dựng thành công nơng thơn mới sẽ là
tất yếu.
1.2. CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG XÂY
DỰNG NƠNG THƠN MỚI


1.2.1. Chính quyền cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền địa
phương ở Việt Nam hiện nay
Chính quyền địa phương
Khái niệm chính quyền địa phương là khái niệm phát sinh từ khái niệm
hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Khái niệm này được sử dụng
khá phổ biến trong nhiều văn bản pháp luật của nhà nước. Là một khái niệm
được sử dụng nhiều trong tổ chức và hoạt động của nhà nước vào đời sống
thực tế xã hội, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định
nghĩa khái niệm chính quyền địa phương bao gồm những thiết chế nào, mối
quan hệ và cơ chế hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu thành. Xuất phát từ
góc độ nghiên cứu lý luận, từ góc độ thực tiễn hay cách thức tiếp cận vấn đề
nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà thực tiễn và quản lý tập trung vào
hai khía cạnh: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.


×