ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
TIỂU LUẬN
Học phần: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn:
Nhóm thực hiện:
Mã lớp học phần:
Phan Khánh Bằng
Nhóm 2
215DL0608
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2022
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN..........................................................................................2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN..........................................................3
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 4
NỘI DUNG CHÍNH.........................................................................................................5
Câu 1: Anh/chị hãy phân tích, chứng minh làm rõ thắng lợi cách mạng Tháng Tám
1945 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?........6
I. Sơ lược về Cách mạng Tháng Tám 1945.....................................................................6
II. Nhân tố quyết định sự thắng lợi – sự lãnh đạo của Đảng...........................................8
Câu 2: Phê phán quan điểm cho rằng thắng lợi Cách Mạng Tháng Tám 1945 là ăn
may.................................................................................................................................. 19
I. Những yếu tố dẫn đến việc suy nghĩ sai lệch về thắng lợi của cuộc cách mạng........19
II. Thành công của Cách mạng tháng Tám đến từ sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt......23
III. Kết luận................................................................................................................... 25
BÀI TẬP VẬN DỤNG....................................................................................................27
I. Trắc nghiệm............................................................................................................... 27
II. Tự luận:....................................................................................................................27
1|Page
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
Phạm Nguyễn Thanh Mai
Nguyễn Việt Huỳnh Nga
Lê Thị Vân Ánh
Lê Thị Cẩm Hằng
Nguyễn Thị Ngọc Tố
Đỗ Hoài Trinh
K214060431
K214061266
K214061754
K214061755
K214061762
K214061763
2|Page
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
.............................................................................................................................................
3|Page
LỜI MỞ ĐẦU
Lời đầu tiên, chúng em xin cảm ơn Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh đã đưa học phần Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam vào chương
trình giảng dạy.
Để hồn thành bài tiểu luận này, khơng thể khơng kể về đóng góp của thầy Phan Khánh
Bằng. Xin cảm ơn sự nhiệt tình trong lúc giảng dạy của thầy để cung cấp những kiến thức
giúp chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Kiến thức là vô hạn mà sự tiếp thu kiến thức
của chúng em ln có những hạn chế nhất định. Vì thế, trong quá trình làm bài tiểu luận
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng em mong nhận được sự góp ý từ thầy
để hồn thiện hơn. Điều này có ý nghĩa rất to lớn với nhóm chúng em.
Kính chúc thầy sức khỏe và gặp thành công trong sự nghiệp giảng dạy.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Trân trọng
Nhóm thực hiện
4|Page
NỘI DUNG CHÍNH
Đề bài: Anh/chị hãy phân tích, chứng minh làm rõ thắng lợi cách mạng Tháng Tám
1945 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam? Phê
phán quan điểm cho rằng thắng lợi Cách Mạng Tháng Tám 1945 là ăn may.
5|Page
Câu 1: Anh/chị hãy phân tích, chứng minh làm rõ thắng lợi cách mạng Tháng Tám
1945 là kết quả của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?
I. Sơ lược về Cách mạng Tháng Tám 1945
I.1 Bối cảnh
I.1.1 Thế giới:
Đầu năm 1945, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến mau lẹ, chiến tranh TGT2
đến hồi kết thúc. Quân đồng minh tổ chức tiến công trên khắp các mặt trận. Ngày
9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày
8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945,
phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa
thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng
sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật.
I.1.2 Trong nước:
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng
cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó
Hội nghị Ban thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách
mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Tháng 3/1945, Trung ương đảng ra chỉ thị “Nhật –
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật
cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Tháng 8/1945, sự đầu hàng của Chính phủ Nhật đã đẩy qn
Nhật ở Đơng Dương vào tình thế tuyệt vọng như rắn mất đầu, hoang mang dao động đến
cực độ. Chính Phủ Trần Trọng Kim rệu rã, tin Nhật đầu hàng nhanh chóng lan truyền
trong nhân dân. Khắp nơi trên đất nước ta, Việt Minh tổ chức những cuộc mít tinh, biểu
tình thị uy vũ trang, có tới hàng ngàn qn tham gia. Hàng triệu quần chúng sẵn sàng
đứng lên giành chính quyền. Hội nghị đại biểu tồn quốc của Đảng họp tại Tân Trào
khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động tồn dân
khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh
vào Đông Dương.
6|Page
I.2 Nguyên nhân thắng lợi
I.2.1 Khách quan
Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi
nhất định. Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xơ và lực lượng
dân chủ trên thế giới đánh 3 bại, quân Nhật ở Đông Dương và tay sai tan rã. Bên cạnh đó,
phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ
trên thế giới phát triển mạnh.
I.2.2 Chủ quan
Cách mạng Tháng Tám thành cơng là do tinh thần u nước, đồn kết, ý chí quật
cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất
nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết
vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh
dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu
xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo
léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể
của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến
lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón
thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước
I.2.3 Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân
dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời - Nhà nước cơng
nơng đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết
thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt
7|Page
Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của
mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập,
tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất
nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin
tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân
tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết
cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hịa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh với xu thế của thời đại vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở
các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều
kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp cơng nhân
lãnh đạo khơng chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu
nhất của chủ nghĩa đế quốc mà cịn có thể thành cơng ở ngay một nước thuộc địa nửa
phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
II. Nhân tố quyết định sự thắng lợi – sự lãnh đạo của Đảng
II.1 Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi
mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến
Khi Pháp tiến hành xâm lược nước ta năm 1858 đã có nhiều phong trào đấu tranh
yêu nước phong kiến và dân chủ tư sản nổ ra nhưng hầu hết đều thất bại do các phong
trào đó chưa có sự chuẩn bị chu đáo, rõ ràng về đường lối cũng như phát huy sức mạnh
của quần chúng nhân dân. Từ những kinh nghiệm trong các cuộc phong trào ấy, ngay từ
8|Page
khi Đảng ra đời năm 1930 thì Đảng đã chú trọng đến việc chuẩn bị chu đáo về mọi mặt
cho cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 được thể hiện bằng sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn,
bền bỉ và khoa học của Đảng ta trong suốt tiến trình khởi nghĩa giành chính quyền cách
mạng.
Đảng đã chuẩn bị chu đáo về mọi mặt gồm: chủ trương, đường lối; xây dựng lực
lượng chính trị; củng cố các căn cứ địa cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang đủ
mạnh để có thể đương đầu với kẻ thù. Cuộc CMT8 diễn ra và thắng lợi chỉ trong 2 tuần lễ
nhưng Đảng ta đã dành ra 15 năm để chuẩn bị cho chiến thắng đó. Chính sự chuẩn bị chu
đáo đó cùng với các yếu tố khách quan bên ngoài đã giúp cho cách mạng thành cơng
nhanh chóng.
-
Chủ trương, đường lối
Khi mới thành lập, Đảng đã nêu chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
vũ trang tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và quan điểm này đã thể hiện
được sức mạnh của nó ngay ở cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh.
Sự chuẩn bị về chủ trương, đường lối của Đảng trên cơ sở bám sát sự vận động của tình
thế cách mạng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân ta, có ý nghĩa
quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
-
Xây dựng lực lượng chính trị
Lực lượng chính trị đóng vai trị rất quan trọng trong sự thành công của cách mạng
tháng Tám. Lực lượng chính trị nắm giữ vị trí chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo để liên kết
các phong trào đấu tranh, là bộ phận hợp thành bạo lực cách mạng của Đảng. Đây là
những hạt giống đầu tiên tạo nên một hệ thống tổ chức cơ sở Đảng ở khắp các địa
phương trên cả nước. Các cơ sở này đã giúp đồn kết một lực lượng chính trị lớn, giúp
nhân dân đứng lên giành chính quyền. Chính vì thế, trong mọi giai đoạn, Đảng ta luôn
chú trọng xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh.
Từ những ngày đầu sau khi thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng việc
xây dựng lực lượng chính trị, chuẩn bị chớp thời cơ làm cuộc khởi nghĩa giành chính
9|Page
quyền. Rất nhiều thanh niên ưu tú được đưa đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế
cộng sản. Nhiều người sau này nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng như Trần Phú,
Trường Chinh,..Lực lượng chính trị này có nhiệm vụ rất quan trọng là truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân.
Thời kỳ 1930 - 1931, Đảng ta tập trung xây dựng khối liên minh công - nông. Lực lượng
này ngày càng đơng đảo và có nhiều đóng góp vào phong trào cách mạng thời kỳ này.
Ở giai đoạn 1932-1935, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Dù trong hồn
cảnh khó khăn như vậy nhưng Đảng ta vẫn kiên trì giữ vững đường lối cách mạng. Dù ở
nơi nào, các chiến sĩ cộng sản cũng luôn đấu tranh. Khi ở trong tù, nhà tù trở thành
trường học, nơi rèn luyện thử thách cán bộ Đảng. Bên ngoài nhà tù, các Đảng viên vận
động tuyên truyền nhân dân ủng hộ cách mạng nhằm phát triển, khôi phục lực lượng cách
mạng.
Những năm 1936-1939, cuộc vận động dân chủ diễn ra mạnh mẽ, Đảng ta có dịp ra hoạt
động cơng khai nên đã tập hợp được rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, giai cấp ở mọi miền
Tổ quốc, lực lượng chính trị tăng lên nhanh chóng.
Đến những năm 1940-1945, đây là giai đoạn chuẩn bị quyết định và gấp rút cho cách
mạng tháng Tám. Năm 1941, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh bao gồm các
tổ chức quần chúng có tên là “Hội cứu quốc” để có lực lượng chính trị quần chúng hùng
mạnh đủ sức chiến thắng kẻ thù.
-
Xây dựng lực lượng vũ trang
Đảng ta ln có chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang để giành được chính quyền
cách mạng và coi đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu và có vị trí vơ
cùng quan trọng trong sự thành công của cách mạng tháng Tám.
Đầu những năm 30, lực lượng vũ trang phát triển rất tự do, nhỏ lẻ, chưa có tổ chức.
Đến đầu năm 1940, sự ra đời của đội du kích Bắc Sơn là hình mẫu cho sự ra đời của các
đội du kích, lực lượng vũ trang sau này như đội du kích Ba Tơ, du kích Ngọc Trạo, đội
Việt Nam tun truyền giải phóng qn do đồng chí Võ Ngun Giáp chỉ huy. Hình thức
10 | P a g e
hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là vũ trang tuyên truyền, nghĩa
là kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, coi trọng cơng tác tun truyền là
chính để hướng tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Bên cạnh việc tập hợp lực
lượng, Đảng ta đã biên soạn nhiều tài liệu quân sự như: cách đánh du kích, cách huấn
luyện cán bộ quân sự, mười điều kỷ luật,..
Đến đầu năm 1945, ta đã có được một đội qn chính quy hùng mạnh bên cạnh các cơ
sở, lực lượng dân quân ở các địa phương. Quần chúng nhân dân không chỉ trực tiếp tham
gia kháng chiến mà cịn ni giấu bộ đội, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
-
Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Bên cạnh xây dựng lực lượng vũ trang, q trình chuẩn bị chu đáo, tồn diện cho thắng
lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta còn luôn nhấn mạnh việc chuẩn bị căn cứ
cách mạng làm chỗ dựa cho vũ trang khởi nghĩa.
Do sự chênh lệch về lực lượng giữa ta và địch nên Đảng ta đã thấy được tầm quan
trọng, vai trò của căn cứ địa cách mạng trong việc xây dựng lực lượng cách mạng chuẩn
bị khởi nghĩa. Đảng ta không lựa chọn cách đánh trực tiếp mà dùng chiến thuật chiến
tranh du kích, đi từ giải phóng các địa phương đến giải phóng tồn bộ.
Căn cứ địa là nơi đóng qn của lực lượng cách mạng, là nơi đánh địch, rút lui để bảo
vệ mặt trận, cũng là nơi cung cấp người và của cho cách mạng… Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã chọn xây dựng các căn cứ địa ở những vùng có địa hình đồi núi, thuận lợi cho
cách đánh du kích như Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà
Giang. Đặc biệt, Đảng đã chọn Việt Bắc làm cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến vì
nơi đó dễ dàng liên lạc với cách mạng thế giới, có địa hình thuận lợi, dễ phịng thủ và khó
tấn cơng, gần Trung Quốc nên thuận tiện cho việc nhận sự giúp đỡ từ phía các nước xã
hội chủ nghĩa. Vùng giải phóng Việt Bắc như hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam và
ngày càng được mở rộng, làm bàn đạp cho ta tiến sâu xuống vùng đồng bằng để giải
phóng hồn tồn đất nước.
-
Dự đốn đúng thời cơ khởi nghĩa
11 | P a g e
Thắng lợi vẻ vang của cách mạng tháng Tám một phần là nhờ sự nhận định về thời cơ rất
chính xác của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tất cả sự chuẩn bị của
Đảng từ những năm đầu thành lập là rất chu đáo, công phu, kiên trì, bền bỉ, đặc biệt chú ý
đến sự biến đổi của tình hình thế giới, chỉ cần chờ cơ hội chín muồi là tiến hành khởi
nghĩa.
Đến cuối năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và lan rộng khắp Châu Âu.
Năm 1942, Đảng nhận định rằng phe Đồng minh sẽ chiến thắng trong thế chiến 2. Đó là
điều kiện vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Tháng 9/1944, Nhật và Pháp mâu
thuẫn càng trở nên gay gắt. Trên chiến trường thế giới, phe phát xít đã trở nên yếu thế;
lúc này Đảng ta đã đưa ra phương hướng “Hãy mài gươm, lắp súng khi quân Nhật - Pháp
bắn nhau, kịp nổi dậy tiêu diệt giặc giành lại giang sơn”.
Tháng 3/1945, Hội nghị thường vụ Trung ương Đảng họp đã dự đoán về thời cơ của
Cách mạng. Hội nghị đã nêu được các điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam như:
Chiến tranh thế giới thứ 2 đang đến giai đoạn quyết liệt, quân Đồng minh
đang chiếm ưu thế và sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật
Tình hình chính trị ở trong các nước đế quốc khủng hoảng (đặc biệt là ở Nhật
và Pháp) nên chúng khơng rảnh tay đối phó với cách mạng
Nạn đói năm 1945 đã cướp sinh mạng hai triệu đồng bào ta, khiến nhân dân
vô cùng phẫn nộ
Lực lượng cách mạng của ta ở các địa phương đã ngày càng lớn mạnh
Chúng ta cũng cần chú ý đến trường hợp quân Đồng minh chưa vào mà ta
tiến hành khởi nghĩa rất có thể sẽ bị Nhật đàn áp và khó giành được thắng
lợi.
Giữa năm 1945, thế chiến 2 kết thúc, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
Ở Đơng Dương, qn Nhật hoang mang tê liệt. Trong tình hình đó, Hội nghị tồn quốc
của Đảng họp từ 13 đến 15/8/1945 tại Tân Trào đã phân tích tình hình, chỉ ra những điều
12 | P a g e
kiện chủ quan, khách quan đã chín muồi để khởi nghĩa có thể nổ ra thắng lợi và quyết
định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
II.2 Hai là, Đảng tích cực vận động, lơi kéo tầng lớp trung gian đứng về phía cách
mạng.
Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian
(Các tầng lớp trung gian trong Cách mạng Tháng Tám gồm có tiểu tư sản, tư sản dân tộc
và các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa…) có tầm quan trọng lớn mặc dù về cơ bản
tầng lớp trung gian khơng đóng vai trị đầu tàu quyết định trong những bước ngoặt của
lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về phía cách mạng thì nó tạo thêm điều
kiện thuận lợi cho cách mạng thành công. Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không
tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn khơng thể
làm cách mạng thắng lợi nhanh chóng được.
Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn họ vào
con đường đấu tranh chống Pháp - Nhật. Nhưng từ khả năng đến hiện thực là cả một quá
trình vận động.
Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám là:
Phê bình
Uốn nắn
Vạch đường lối
Chân thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng đến thành cơng.
Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng cịn chân thành đồn kết trong hành động
thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập ra tổ chức của mình để phát huy năng
lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944 Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là
một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ”
làm cho thành phần tổ chức của Mặt trận Việt Minh ngày thêm phong phú và khả năng
hiệu triệu của tầng lớp trung gian tham gia đánh đuổi Nhật càng được tăng thêm.
13 | P a g e
Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp trung gian tham
gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo.
Sau đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải qua một bước dao động ngắn rồi với
mạnh dạn tham gia phong trào cứu quốc một cách đơng đảo.
Khó khăn: Một số đơng quần chúng trung gian thoạt đầu cịn bị mắc lừa Nhật và bọn
tay sai Đại Việt quốc gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật, cứ
thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì,
nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi
dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này
Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chức
Tân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim
cũng làm cho nhiều người mắc lừa… Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải vạch mặt
chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn,
phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay thực hành trái với lời hứa.
Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc áp bức bóc lột nhân dân”, và
bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật...
Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và
đi theo cách mạng. Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của
Đảng là đúng.
Ngày 13-8-1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian nói chung đều
theo cách mạng.
II.3 Ba là, Đảng tiên phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh
đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.
Mùa Thu năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, dân tộc
Việt Nam đã làm nên một kỳ tích trong thế kỷ 20. Đó là tiến hành thành công Cách mạng
tháng Tám, lật đổ ách thống trị tàn bạo của phát-xít Nhật, đánh đổ chế độ quân chủ lỗi
thời, giành quyền độc lập dân tộc, khôi phục nền thống nhất của đất nước; thành lập Nhà
14 | P a g e
nước Cộng hòa dân chủ, đưa nhân dân lên vị trí người làm chủ đất nước. Thắng lợi đó là
kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó, trước hết là sự chuẩn bị về đường lối lãnh
đạo cách mạng đúng đắn của Đảng ta, để bảo đảm cho Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
Đánh giá đúng sự lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
cần nhìn nhận sự vận động đó trong cả một quá trình. Cách mạng nổ ra và giành thắng lợi
trên tồn quốc trong vịng hai tuần, nhưng trên thực tế, Đảng đã trải qua một quá trình
chuẩn bị trong 15 năm, từ khi Đảng ra đời.
Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác
định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"1 Từ khi Đảng ra đời đến khi xuất hiện
cao trào Tổng khởi nghĩa tồn quốc, giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng
Tháng Tám, năm 1945, Đảng đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân ta qua các
phong trào và cao trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp, vượt qua những cuộc khủng bố, đàn
áp của đế quốc, thực dân để phát triển lực lượng cách mạng trong quần chúng, khơng
ngừng củng cố vai trị lãnh đạo của Đảng; căn cứ vào tình hình biến đổi của thực tiễn, kịp
thời điều chỉnh chủ trương, đường lối và nhiệm vụ cách mạng, nhưng luôn nhất quán về
mục tiêu và phương pháp cách mạng, về chiến lược đại đoàn kết.
Từ năm 1939, bước vào giai đoạn chuẩn bị trực tiếp cho Cách mạng tháng Tám, trước
những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta liên tiếp tổ chức ba Hội
nghị Trung ương (lần thứ 6, tháng 11/1939; lần thứ 7, tháng 11/1940 và lần thứ 8, tháng
5/1941) bàn về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, khẳng định nhiệm vụ chủ yếu
trước mắt của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc,
giành chính quyền về tay nhân dân.
Từ năm 1940 - 1945, tình hình quốc tế và trong nước biến chuyển sơi động, nhanh
chóng, xuất hiện khơng chỉ thời cơ thuận lợi mà cả những thách thức, nguy cơ đối với
cách mạng nước ta. Đây là thời kỳ thể hiện nổi bật nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén,
sáng suốt của Đảng gắn liền mật thiết với tầm nhìn xa trơng rộng, trí tuệ và mưu lược,
sáng tạo và bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
15 | P a g e
Đặc biệt tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) ở Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trương thay đổi chiến lược cách
mạng. Hội nghị quyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để
tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn
thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia, dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi được”. hoàn chỉnh chủ
trương mới của Đảng, kịp thời chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Hội nghị
Trung ương 8 còn xác định vấn đề chính quyền mà tính chất của chính quyền là “tồn thể
nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”, đồng thời tiến hành khởi nghĩa
vũ trang, chú trọng công tác xây dựng Đảng, nhất là vấn đề cán bộ. Trong thời gian, này
trong nội bộ Đảng ta phê phán nghiêm khắc quan điểm sai lầm của một vài đồng chí ở
Trung Bộ chủ trương cải tổ chính phủ Trần Trọng Kim hy vọng giành độc lập bằng con
đường hồ bình với Nhật.
Cuối năm 1944, Hồng qn Liên Xơ phản cơng tiêu diệt phát xít Đức, Ý, giải phóng
các nước Đơng Âu, làm cho qn Nhật ở Đơng Dương hoang mang dao động. Trước tình
hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định: "Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hịa
bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ hoạt động
trong vịng chính trị thì khơng đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động
khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh
phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức qn sự, nhưng lúc này chính trị vẫn trọng
hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách
mạng tới thành cơng".
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đơng Dương. Ngay trong đêm
9/3/1945, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng (Bắc
Ninh), nêu rõ: Cuộc đảo chính đã tạo ra một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm
16 | P a g e
cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang mau chóng đi đến chín muồi. Hội nghị
xác định: Phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân
Đông Dương và quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp” trước đây
bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 12/3/1945 “Nhật, Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”
Trong thời gian tiếp theo, Trung ương tiếp tục phê phán tư tưởng tả khuynh của các
đồng chí trong báo Giải Phóng (Nam Bộ) vẫn cịn giữ khẩu hiệu đánh đổ phát xít Pháp
Nhật sau khi Nhật hồn thành cuộc đảo chính.
Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ ở
Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định quyết thống nhất các lực lượng
vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa
vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.
Hướng mọi hoạt động của Đảng vào khâu trung tâm Cứu quốc3. Sau Hội nghị này, hàng
loạt chỉ thị và quyết sách của lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với Trung ương đã hình thành và
được thực hiện nhanh chóng tại căn cứ địa cách mạng. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
17 | P a g e
Tuyên truyền Giải phóng quân như là Cương lĩnh quân sự của Đảng “Chính trị trọng hơn
quân sự, người trước súng sau. Có dân rồi sẽ có súng”.
Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng ngay sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp ngày
09/3/1945 “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; ngày 15/3/1945 Tổng bộ
Việt Minh phát Hịch kháng Nhật cứu nước. Hội nghị quân sự Bắc Kỳ từ ngày 15 20/4/1945, quyết định hợp nhất Cứu quốc quân với Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân thành Việt Nam giải phóng quân và chỉ thị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở
các địa phương. Đó là hình thức đầu tiên của chính phủ.
Điểm nút, đỉnh điểm của cao trào cách mạng 1939 - 1945 là sự kiện triệu tập Hội nghị
toàn quốc của Đảng và triệu tập Quốc dân đại hội Tân Trào. Hội nghị toàn quốc của Đảng
(ngày 13, 14 và 15/8/1945) quyết định: phải kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa toàn
quốc, phải giành chính quyền trước khi quân đồng minh kéo vào nước ta và thành lập Ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc do Tổng Bí thư Trường Chinh phụ trách, ban bố Quân lệnh số 1
ra lệnh khởi nghĩa. Khi được tin Nhật đầu hàng đồng minh, Hồ Chí Minh đã rút ngắn Hội
nghị Đảng và triệu tập ngay Quốc dân đại hội (ngày 16 và 17/8/1945), thơng qua 10
chính sách của Việt Minh, lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam như một Chính phủ
lâm thời, làm lễ tuyên thệ, thông qua Quốc kỳ, Quốc ca. Quốc dân đại hội đã hoàn thành
nhiệm vụ như một Quốc hội dân cử. Ngay sau Đại hội, Người có thư kêu gọi tồn quốc
đồng bào làm tổng khởi nghĩa “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy. Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”4. Với những quyết định
lịch sử đó, tồn quốc đã nhất tề hành động: ngày 19/8, Hà Nội khởi nghĩa, ngày 23/8 ở
Huế, ngày 25/8 ở Sài Gòn. Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Ngày
02/9/1945, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc Tun ngơn độc lập, Việt Nam tuyên bố độc lập;
chế độ thực dân hơn 80 năm, chế độ phong kiến hàng nghìn năm đã bị lật nhào, chính
quyền cách mạng thuộc về nhân dân.
18 | P a g e
Lệnh Tổng khởi nghĩa được thông báo rộng rãi và được nhân dân tích cực hưởng ứng. (ảnh tư liệu)
Câu 2: Phê phán quan điểm cho rằng thắng lợi Cách Mạng Tháng Tám 1945 là ăn
may.
I. Những yếu tố dẫn đến việc suy nghĩ sai lệch về thắng lợi của cuộc cách mạng
I.1 Thiếu nhận thức về tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp và yếu
tố dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tính tất yếu phải gắn liền giải phóng giai cấp,
phải đi chung với giải phóng dân tộc. Đây là điểm mới sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong việc tiếp thu tư tưởng Mác-Lênin về vấn đề giải phóng dân tộc.
Lịch sử đã minh chứng rõ ràng Cách mạng Tháng Tám hội tụ đủ các yếu tổ để giải
phóng dân tộc và giai cấp cùng diễn ra. Đó là Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện,
Pháp và phong kiến địa chủ trong nước lung lay tận gốc.
Nếu chỉ chăm chú vào vấn đề giai cấp thì dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục bị đô hộ bởi
các đế quốc, nếu chỉ quan tâm vấn đề dân tộc thì lợi ích giữa các giai cấp sẽ chồng
chéo lên nhau. Việt Nam sẽ mãi khơng được bình n, Đảng lãnh đạo đã nhìn rõ và
quán triệt điều này, vì thế, Đảng ta đã chủ trường chuẩn bị từ sớm chờ đợi thời cơ và
19 | P a g e
khéo léo hài hịa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Điều này được thể hiện tại Hội
nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp tại Hóc Mơn, Gia Định) nhận
định Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật, cách mạng Đông
Dương sẽ bùng nổ, Đảng ta chỉ rõ: “...Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền
địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”, nên ta phải đồn kết thực
hiện cho bằng được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc. Theo
đó, Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương ra đời.
I.2 Không thấy được sự thành công của Cách mạng Tháng Tám đến từ sự theo
dõi sát sao của Đảng.
I.2.1 Cuộc vận động những năm 1930-1935.
I.2.2. Cuộc vận động những năm 1936-1939 (Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
lần thứ nhất và bốn nghị quyết Trung ương)
I.2.3 Cuộc vận động những năm 1939 -1945 (Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
lần 2).
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác nhận, để đi đến thành công của Cách mạng
Tháng Tám, Đảng phải trải qua ba cuộc vận động cách mạng khó khăn, gian khổ. Đó là:
Cuộc vận động những năm 1930 - 1935 mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh
(1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và thoái trào cách mạng
(1932 - 1935).
Cuộc vận động những năm (1936 - 1939), với cao trào Mặt trận Dân chủ năm
1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất do cuộc khủng bố của địch gây ra để đi
tiếp chặng đường mới.
Cuộc vận động những năm 1939 - 1945, Đảng đã sáng suốt phát triển cả lực
lượng chính trị lẫn lực lượng vũ trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ
động nắm bắt thời cơ mới để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Chính nhờ trải qua ba
20 | P a g e
cuộc vận động đó, Đảng từng bước hồn thiện đường lối chiến lược và sách
lược. Điều đó biểu hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:
Từ việc tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến
việc xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc. Đây là cả một
chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy không đơn giản.
Thực thi quyền dân tộc tự quyết của ba nước Đông Dương
Bố trí thế trận cách mạng và sắp xếp lực lượng cách mạng phù hợp với
yêu cầu khách quan của lịch sử Khi tình thế cách mạng có sự chuyển
biến mau lẹ, đối tượng cách mạng luôn thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách xuất sắc lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nhận thức xã hội Việt Nam để đề ra các
quyết sách chiến lược đúng đắn
Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi
nghĩa Trong thế trận lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh, cách mạng
Việt Nam vừa phát huy truyền thống vũ trang anh hùng, bất khuất của
ông cha, vừa vận dụng hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng.
Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính
quyền, ít phải đổ máu Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành cơng, ít phải
đổ máu là do các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên
thế chủ động chiến lược
I.3 Đông Dương có “khoảng trống quyền lực” (Pháp chạy, Nhật đầu hàng, quân
Đồng minh chưa tới)
Ngày 1/9/1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, các nước đế quốc xâu
xé lẫn nhau. Nhận thấy tình thế mới cho phép và đòi hỏi một chuyển hướng chiến lược
nhằm tạo ra đầy đủ khả năng đoàn kết các giai tầng xã hội xung quanh liên minh cơng
nơng quyết giải phóng dân tộc. Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân tộc tích cực chuẩn
21 | P a g e
bị mọi mặt, đồng thời theo dõi sát sao diễn biến quan hệ giữa phe đồng minh và phe phát
xít để xác định đúng và kịp thời cơ tổng khởi nghĩa.
Tháng 6/1940, phát xít Đức tấn cơng Pháp, Pari nhanh chóng thất thủ và đến tháng
9/1940 thì ở Việt Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ
vào Đồ Sơn giữa lúc Nhật - Pháp đang tranh nhau miếng mồi Đông Dương, tháng
11/1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc
Ninh đã xác định kẻ thù của cách mạng Đông Dương là Pháp - Nhật đẩy mạnh thêm một
bước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc chủ trì (tại Pác Pó, Hà Quảng, Cao Bằng), nhận định thắng lợi cuối
cùng thuộc về phe đồng minh, nên ta phải tích cực chuẩn bị lực lượng và đứng về phía
đồng minh chống phát xít, bằng mọi giá phải giải phóng dân tộc, và Hội nghị quyết định
thành lập Mặt trận Việt Minh.
Cụ thể, lúc đầu mũi nhọn của cách mạng chĩa vào thực dân xâm lược Pháp và tay
sai phong kiến. Khi Nhật vào Việt Nam, Pháp làm tay sai cho Nhật, kẻ thù chủ yếu của
cách mạng là Pháp - Nhật. Từ năm 1943 trở đi, Nhật ngày càng lấn chân Pháp ở Việt
Nam, kẻ thù chủ yếu của cách mạng được xác định lại là Nhật – Pháp.
Đặc biệt ngày 9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta nhận định thời cơ khởi
nghĩa đang đến, vì vậy ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung Ương Đảng ra Chỉ thị
“Nhật
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” phát động cao trào kháng Nhật cứu
nước.
Tháng 7/1945, khi phát xít Đức, Ý bại trận ở chiến trường Châu Âu, phát xít Nhật
đang trên đường sụp đổ ở chiến trường Châu Á thì tại lan Nà Nưa, lãnh tụ Hồ Chí MInh
tuy đang ốm rất nặng nhưng vẫn căn dặn “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới
đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành độc lập”.
22 | P a g e
Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng đồng minh,binh lính Nhật ở Đơng Dương hoang
mang cực độ, chính phủ tay sai Trần Trọng Kim như “rắn mất đầu”. Trong khi đó, quân
đồng minh chưa kịp kéo vào Đông Dương, các thế lực thù địch đang cấu xé, tranh giành
quyền lực, điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã chín muồi.
Ngày 12/9/1945, được tin Nhật gửi công hàm cho các nước đồng minh đề nghị mở
cuộc đàm phán ngừng bắn thi ngày 13/8/1945. Đảng ta triệu tập Hội nghi toàn quốc tại
Tân Trào (Tuyên Quang) xác định đây là “dịp tốt cho ta nổi lên khôi phục nước nhà tổ
tông”, đồng thời dự đoán mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ - Pháp và Liên Xơ có thể làm cho
Anh - Mỹ nhân nhượng với Pháp để cho Pháp trở lại Đông Dương, nên phải “kịp thời,
không bỏ lỡ thời cơ” tổng khởi nghĩa ngành chính quyền từ tay Nhật trước khi qn đồng
minh vào Đơng Dương.
Vì vậy, Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi. Kẻ thù
trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xơ và các lực lượng dân chủ thế giới
đánh bại. Bọn Nhật ở Đông dương và tay sai tan rã. Nếu bỏ qua giai đoạn này, thì “chẳng
những tồn quốc gia dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phân giai
cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được”. Đảng ta đã chợp thời cơ đó mà phát động
tồn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng.
II. Thành công của Cách mạng tháng Tám đến từ sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt.
II.1 Thứ nhất, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thể hiện sự
chuẩn bị chu đáo của Hồ Chí Minh.
Vào những năm cuối thập kỷ 30 (thế kỷ XX), trước những chuyển biến nhanh
chóng của tình hình thế giới, Hồ Chí Minh đã đưa ra một nhận định chính xác: Chủ nghĩa
phát xít nhất định bị tiêu diệt, đây là thời cơ thuận lợi cho các dân tộc đứng lên tự giải
phóng. Người quyết định thành lập Việt Nam Đồng minh Hội trên đất Trung Quốc. Thời
gian này, Người triển khai những hoạt động quốc tế dồn dập nhằm tranh thủ mọi lực
lượng, tạo hậu thuẫn cho cách mạng Việt Nam: Trực tiếp gặp Chu Ân Lai - đại diện Đảng
23 | P a g e
Cộng sản Trung Quốc, bàn phối hợp hoạt động giữa cách mạng 2 nước; cử Trần Văn
Hinh đi Diên An để mở rộng quan hệ quốc tế, ..
Mùa Xuân năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Người tiến hành xây dựng các đoàn thể cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập
Đồng minh gọi tắt là Việt Minh…
Tháng 8/1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh ở Đông Dương, quân Nhật hoảng
loạn, phong trào cách mạng cả nước sôi sục, những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã
chín muồi. Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chuẩn bị gấp Hội nghị toàn quốc của
Đảng và Đại hội đại biểu Quốc dân ở Tân Trào. Người nhấn mạnh, lúc này thời cơ thuận
lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng phải giành cho
được độc lập. Ngay sau Đại hội, Người gửi thư kêu gọi tổng khởi nghĩa tới đồng bào cả
nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
II.2 Thứ hai, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thể hiện vai
trò lãnh đạo tài tình của Đảng ta.
Sự chuẩn bị về lực lượng chính trị: Đảng vận động quần chúng nhân dân tham gia
mặt trận VIệt Minh ở các tỉnh miền Trung và Bắc. Hội cứu quốc được thành lập.
Năm 1945 thành Hội văn hóa cứu nước VIệt Nam.
Sự chuẩn bị về vũ trang: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, từ lực lượng khởi nghĩa vũ
trang, những đội du kích hoạt dộng tại căn cứ địa Bắc Sơn được thành lập. Quân
cứu nước phát động tuyên truyền phong trào từ tháng 7/1941 đến tháng 2 năm sau
( 8 tháng ) để chống lại địch. Ngày 15/9/1941, Trung đội cứu quốc 2 được thành
lập
Sự chuẩn bị về căn cứ địa cách mạng: Lấy Bắc Sơn làm khu vực dựng thành căn
cứ địa cách mạng. Năm 1942, Nguyễn Ái Quốc trở về chọn Cao Bằng thành trung
tâm căn cứ địa.
24 | P a g e