1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Hà Nội là Thủ đơ của cả nước và có vị trí ở khu vực trung tâm của
miền Bắc. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà
Nội có diện tích 3.324,92 km2 , là địa phương đứng đầu cả nước về diện tích,
đứng thứ hai về qui mơ dân số là 6,448,837 người, có 10 quận nội thành, 18
huyện ngoại thành và 01 thị xã.
Với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu người đang trong độ tuổi lao
động. Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao động có trình độ chun mơn cao.
Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn
lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu của sự chuyển đổi kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, Hà Nội cũng phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác.
Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi
trường đầu tư của thành phố cũng thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn
chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực
mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội chưa cao
và thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.
1.2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong định hướng phát triển, Hà Nội
đang phấn đấu thực hiện các kế hoạch, chỉ tiêu đặt ra để trở thành một thành
phố cơng nghiệp. Khơng chỉ có thế, Hà Nội là một thành phố giàu tiềm năng
về du lịch, làng nghề, với nhiều khu công nghiệp và nông nghiệp công nghệ
cao đã và đang phát triển. Vì vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa rất lớn. Đồng thời, đào tạo nghề để giải
quyết việc cho số lao động của các địa phương trong diện thu hồi đất cho các
cơng trình cũng đang được thành phố quan tâm và là nỗi bức xúc của mỗi địa
phương và người lao động. Tình hình đó địi hỏi thành phố phải phát triển
mạnh công tác đào tạo nghề thì mới đáp ứng được yêu cầu. Tuy trong những
năm vừa qua, Đảng bộ thành phố đã có nhiều cố gắng, nhưng thực trạng công
2
tác dạy nghề cịn nhiều bất cập, trong đó lượng lao động qua đào tạo nghề cịn
ít mà lại chủ yếu là đào tạo ngắn hạn mang tính chất bồi dưỡng, mạng lưới cơ
sở dạy nghề hiện có trên địa bàn thành phố còn chưa được đầu tư đúng mức,
do công tác kế hoạch và quy hoạch để từng bước xây dựng và phát triển nhằm
đáp ứng nhu cầu dạy nghề về số lượng, chất lượng, ngành nghề cho phát triển
kinh tế.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Đảng lãnh đạo công tác đào
tạo nghề từ năm 2001 đến năm 2011 qua thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề
tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề lao động và việc làm ở nước ta là một đề tài mang tính thời sự, thu
hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa học và được tiếp cận ở những khía cạnh,
mức độ và phạm vi khác nhau, có thể kể đến các nhóm cơng trình sau đây:
Các bài báo khoa học viết về vấn đề đào tạo nguồn lao động và việc
làm đăng tải trên các báo, tạp chí như: Thơng tin kho bạc Nhà nước 1997, số
08; Nguyễn Thị Hằng,“Triển khai thực hiện cơng tác đào tạo nghề và chương
trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm”, Tạp chí Lao động và Xã hội số 4
năm 1999; Dương Ngọc, “Lao động và việc làm vẫn là vấn đề bức xúc”, Thời
báo kinh tế Việt Nam, số 85 ngày 23- 10 -1999; Lê Thị Ngân, “Phát triển
nguồn nhân lực trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn”, Tạp chí Cộng sản số 36 năm 2003; Tạ Trung, “Xóa đói, giảm
nghèo và việc làm - vấn đề có giá trị nhân văn sâu sắc”, Tạp chí Thơng tin
cơng tác tư tưởng lý luận của Ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương, tháng 11
năm 2003...Từ những góp độ tiếp cận khác nhau, các tác giả đề cập đến tầm
quan trọng của việc đáp ứng yêu cầu lao động và việc làm trên con đường xây
dựng, phát triển đất nước theo đường lối đổi mới; sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước trong các Chương trình quốc gia; các giải pháp trong giải quyết vấn
đề lao động trẻ và việc làm gắn với xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là vấn đề
3
chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp nơng thơn và nơng dân. Đây là những gợi mở tốt cho tác giả tham
khảo, kế thừa đối với đề tài luận văn.
Các tham luận được công bố trong các kỷ yếu hội thảo khoa học đề cập
đến vấn đề việc làm cho người lao động trẻ dưới nhiều góc độ khác nhau,
như, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế (1986- 2007)”... Bài viết khẳng định
đào tạo nghề trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề kinh tế - xã hội
rất tổng hợp và phức tạp. Hội nhập kinh tế quốc tế chỉ thực sự có ý nghĩa đối
với Việt Nam nếu như cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu hơn, tồn
diện hơn, chúng ta giải quyết tốt hơn vấn đề đào tạo nghề trong sự phát triển
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các luận văn, luận án nghiên cứu lao động và việc làm, như: Trần Ngọc
Diễn - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, luận án tiến sĩ kinh tế: “Nâng
cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” bảo vệ năm 2002... Các tác giả đã nghiên cứu vấn
đề đào tạo nghề cho người lao động Việt Nam thông qua việc sử dụng các
nguồn vốn nói chung và các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào
Việt Nam, đồng thời, đề ra các giải pháp cụ thể để đạt được chất lượng và
hiệu quả trong chính sách lao động và việc làm cho người lao động, góp phần
vào thực hiện mục tiêu phát triển chung của đất nước là tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong những năm gần đây, một số Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà
Nội , như: Ban chỉ đạo đào tạo nghề thành phố đã tiến hành một số nhiệm vụ
khoa học mang tính khảo sát và tổng kết một số vấn đề về đào tạo nghề người
lao động tại thành phố Hà Nội. Nhìn chung, những nhiệm vụ khoa học do các
cơ quan trong thành phố tiến hành đều tập trung tìm kiếm các biện pháp để
đào tạo nghề cho lao động góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
4
của thành phố, những nội dung phản ánh, đánh giá, tổng kết q trình đào tạo
nghề khơng được quan tâm đúng mức.
Những cơng trình, nhiệm vụ khoa học trên đây nhìn chung đã khái quát
những quan điểm của Đảng, Nhà nước; những phương hướng, biện pháp của
Đảng bộ thành phố Hà Nội trong vấn đề đào tạo nghề cho người lao động;
những kết quả đạt được, những hạn chế và vấn đề đặt ra trong đào tạo nghề và
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tuy nhiên, đến nay, chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu
sâu, tồn diện về vấn đề đào tạo nghề thành phố Hà Nội nhất là dưới góc độ
khoa học Lịch sử Đảng.
Những cơng trình nghiên cứu kể trên cung cấp nhiều tư liệu, số liệu,
gợi mở nhiều vấn đề có liên quan đến đề tài để tác giả có thể khai thác, vận
dụng trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu q trình đề "Đảng lãnh đạo cơng tác đào tạo nghề từ
năm 2001 đến năm 2011 qua thực tiễn thành phố Hà Nội” góp phần làm
sáng rõ quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội vận dụng chủ trương của Đảng
và Nhà nước, lãnh đạo đào tạo nghề cho người lao động bối cảnh mở cửa hội
nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ; cung cấp những luận cứ khoa học có tính gợi
mở để Đảng bộ thành phố Hà Nội có thể vận dụng hoạch định phương hướng,
giải pháp đào tạo nghề cho người lao động tại địa phương; đóng góp vào cơng
tác nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
Phân tích điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội tác động
đến vấn đề đào tạo nghề cho người lao động thành phố Hà Nội từ năm 2001
đến năm 2011.
5
Hệ thống hóa những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ thành phố Hà
Nội về vấn đề đào tạo nghề cho người lao động thành phố Hà Nội từ năm
2001 đến năm 2011.
Tái hiện và luận giải khách quan, có hệ thống quá trình Đảng bộ thành
phố Hà Nội lãnh đạo đào tạo nghề cho người lao động thành phố Hà Nội từ
năm 2001 đến năm 2011.
Khẳng định thành tựu, chỉ ra những hạn chế của Đảng bộ thành phố Hà
Nội về vấn đề đào tạo nghề cho người lao động thành phố Hà Nội từ năm
2001 đến năm 2011.
Đúc kết một số kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình Đảng bộ thành
phố Hà Nội về vấn đề đào tạo nghề cho người lao động thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quan điểm và chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước, các biện pháp và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ thành
phố Hà Nội và những kết quả đạt được trong việc lãnh đạo đào tạo nghề cho
lao động thành phố Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2011.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng đào tạo nghề
và quá trình Đảng bộ lãnh đạo đào tạo nghề cho người lao động thành phố Hà
Nội từ năm 2001 đến năm 2011.
- Về không gian: Địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm,
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nguồn nhân lực và vấn
đề đào tạo nghề.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và logic, bên cạnh đó là phương
pháp khảo sát thực tế, phân tích, thống kê, so sánh.... để phản ánh, luận giải
quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo đào tạo nghề cho người lao
động thành phố Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2011.
5.3. Nguồn tài liệu
Luận văn chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu gồm:
Các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng bộ
thành phố Hà Nội và các Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ thành phố Hà Nội các khóa, cũng như các Nghị quyết, Chương
trình hành động, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đề án, quy hoạch, của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thành phố trực tiếp hoặc có liên quan
đến đào tạo nghề từ năm 2001 đến năm 2011.
Các Báo cáo tổng kết, sơ kết đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ đào
tạo nghề cho lao động thành phố Hà Nội trên các lĩnh vực qua các năm 2001 2011; các Công văn, Quyết định, Công thư, các văn bản lưu tại Trung tâm lưu
trữ thành phố và các Sở, Ban, Ngành, đoàn thể và các địa phương thành phố
Hà Nội cũng được chú ý tham khảo.
Ngồi ra, tác giả cịn tham khảo những cơng trình nghiên cứu gồm
sách, báo, tạp chí, luận án viết về đào tạo nghề cho lao động có liên quan đến
đề tài.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Hệ thống hóa các tài liệu liên quan đến vấn đề đào tạo nghề cho lao
động thành phố Hà Nội.
Khái quát quá trình đào tạo nghề cho lao động thành phố Hà Nội.
Đúc kết một số kinh nghiệm có tính gợi mở để các cấp ủy, chính quyền
trong việc đào tạo nghề cho lao động thành phố Hà Nội.
7
7. Ý nghĩa của luận văn
7.1. Ý nghĩa về lý luận
Kết quả đạt được trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề có liên quan đến vấn đề đào tạo
nghề và thực hiện chính sách đào tạo nghề của Đảng và Nhà nước nói chung
và ở thành phố Hà Nội nói riêng.
7.2. Ý nghĩa về thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho các cấp, các ngành thành phố Hà
Nội tham khảo trong việc xây dựng các phương hướng, biện pháp thực hiện
vấn đề đào tạo nghề trên địa bàn thành phố hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết.
8
Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. CÁC KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm về nghề và đào tạo nghề
1.1.1.1. Khái niệm nghề
Nói đến khái niệm nghề, có rất nhiều cách thức tiếp cận khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Nghề là công việc chuyên làm theo phân công lao
động trong xã hội”.
Với cách tiếp cận này, mỗi người trong hệ thống phân công lao động xã
hội sẽ đảm nhận một hoặc một số công việc, những công việc này lặp đi lặp
lại thường xuyên, từ ngày này sang ngày khác, nội dung của những cơng việc
đó khơng hề thay đổi, và nó được hiểu là nghề.
Nghề, cũng có thể được hiểu là một hình thức phân cơng lao động, nó
địi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hồn thành
những cơng việc nhất định.
Như vậy, nghề là một thuật ngữ để chỉ một hình thức lao động trong xã
hội. Để có thể làm được một nghề, người lao động cần phải có kiến thức về lý
thuyết của một hoặc một vài mơn khoa học nào đó, những kỹ năng thực hành
đến mức thành thạo. Thơng qua q trình lao động của mỗi người lao động
đối với nghề của mình, họ sẽ hồn thành cơng việc mà nghề đó u cầu, từ đó
tạo ra được những sản phẩm vật chất và tinh thần, phục vụ cho bản thân họ,
cho gia đình họ và cho tồn xã hội.
Tóm lại, nghề là tổng hợp những kiến thức (hiểu biết) và kỹ năng lao
động mà con người tiếp thu được do kết quả của đào tạo chun mơn và tích
luỹ kinh nghiệm trong cơng việc.
1.1.1.2. Đặc trưng của nghề
Đã là nghề, cho dù được hiểu theo cách thức như thế nào thì nó cũng có
những đặc trưng cơ bản như sau:
9
- Là một công việc chuyên làm.
- Là phương tiện sinh sống gắn với cả cuộc đời hoặc phần lớn cuộc đời
của người lao động.
- Bao gồm cả lao động trí óc và lao động chân tay.
- Phù hợp với yêu cầu của xã hội.
- Có rất nhiều nghề, giữa các nghề có thể có mối quan hệ với nhau,
cũng có thể chúng độc lập với nhau.
Có thể nói, nghề gắn liền với kiến thức và kinh nghiệm, nói đến một
nghề là phải nói đến hiểu biết và sự thành thạo của người lao động đối với
công việc của nghề. Những kiến thức và kinh nghiệm đó khơng phải tự nhiên
có được mà là do kết quả của đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm.
Nói đến nghề, là nói đến một hoặc một số những cơng việc nào đó
trong hệ thống phân cơng lao động xã hội, nhưng nói đến nghề nghiệp, là nói
đến một cái gì đó rất cụ thể, bởi vì đó là nghề của một người lao động. Với
nghề này, người lao động đó đang thực hiện những nội dung công việc cụ thể,
đem kiến thức và kỹ năng của họ thực hiện công việc, tạo ra của cải vật chất
và tinh thần.
Hiện nay, Nhà nước rất khuyến khích và tạo điều kiện để mọi người
phát triển nghề nghiệp, điều này đã được quy định rất rõ trong Bộ luật Lao
động của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩaViệt Nam: “mọi người đều có
quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng
cao trình độ nghề nghiệp, khơng bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc,
thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo” (Điều 5- bộ Luật Lao động) “mọi
người có quyền tự do lựa chọn nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu
việc làm của mình” (Điều 20- bộ Luật Lao động).
Lựa chọn nghề nghiệp đúng sẽ là cơ sở quan trọng cho sự thành đạt của
mỗi người lao động vì nó tạo ra sự cuốn hút, say mê trong q trình làm việc.
Xã hội có rất nhiều nghề và cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
10
nước, nhiều ngành nghề mới sẽ xuất hiện và cũng có những ngành nghề sẽ
mất đi; nghề đang làm trong hiện tại là phù hợp, nhưng khơng thể nói trước
được rằng nó vẫn cịn là phù hợp trong tương lai. Điều đó cũng góp phần giải
thích vì sao nhiều người phải chuyển nghề sau một thời gian làm việc hoặc
phải đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lành nghề của bản thân.
1.1.2. Đào tạo nghề
1.1.2.1. Khái niệm
Với cách tiếp cận về nghề và đào tạo nghề như trên, ta có thể hiểu: “Đào
tạo nghề là q trình có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt các kiến thức,
kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào đó, từ đó tạo ra năng lực để thực hiện
thành công nghề đã được đào tạo”.
Thơng qua q trình đào tạo nghề, học sinh sẽ được học hệ thống những
kiến thức (hiểu biết) về lý thuyết cần thiết của nghề, được thực hành trong
thực tế để hình thành kỹ năng, kỹ xảo của nghề, đồng thời họ còn được giáo
dục và phát triển cả thái độ, ý thức đối với nghề trong tương lai của bản thân họ.
Sau khoá học đào tạo nghề này, người lao động sẽ nắm vững một nghề, một
chuyên mơn, q trình đào tạo nghề sẽ được thực hiện với cả những người đã có
nghề, có chun mơn rồi hoặc học để làm nghề, chuyên môn khác.
Phân loại đào tạo nghề
Căn cứ vào thực tế đào tạo đối với người học
- Đào tạo mới: là quá trình đào tạo nghề cho những người chưa có nghề.
- Đào tạo lại: đào tạo cho những người đã có nghề song vì một lý do nào
đó nghề của họ khơng cịn phù hợp nữa. Đào tạo lại thường được hiểu là quá
trình nhằm tạo cho người lao động có cơ hội để học tập một lĩnh vực chuyên
môn mới để đổi nghề. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, nhiều lĩnh vực kỹ
thuật được tiếp cận với nhau để hình thành những kỹ thuật mới thì mặc dù
khơng thay đổi nghề, nhưng người lao động cũng cần được trang bị thêm về
kiến thức và kỹ năng của một lĩnh vực chuyên môn mới.
11
- Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề: nhằm bồi dưỡng nâng cao kiến
thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những
cơng việc phức tạp hơn.
Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề
Đào tạo ngắn hạn: có thể được thực hiện 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc
1 năm tại các trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề độc lập hoặc gắn với cơ sở
kinh doanh, dịch vụ và cơ sở giáo dục khác. Quá trình đào tạo ngắn hạn tổ
chức theo hình thức học lý thuyết và thực hành theo lớp, kèm cặp tại xưởng,
tại nhà, lấy thực hành là chính, vừa học, vừa làm, chuyển giao công nghệ; đưa
kiến thức khoa học, công nghệ mới và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Đào tạo
nghề ngắn hạn dành cho những người có trình độ học vấn và sức khoẻ phù
hợp với nghề cần học.
Các khóa học ngắn hạn sẽ cung cấp đầy đủ các yêu cầu kỹ năng, kiến
thức của một nghề nhưng ở trình độ thấp. Bên cạnh đó, cịn có các khố học
ngắn hạn chỉ cung cấp một phần nội dung của nghề nghiệp, hoặc chỉ có tác
dụng bổ trợ. Mỗi người có thể theo học nhiều khố học ngắn hạn để tích luỹ
dần kiến thức nghề nghiệp cho mình hoặc để bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ
năng mới.
Thơng tin về các khố học ngắn hạn này có thể thấy trên các phương
tiện thông tin đại chúng hoặc trên bảng thông báo ngay ở cơ sở đào tạo.
Đào tạo dài hạn: được thực hiện từ 1 đến 3 năm tại các trường dạy
nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học
có đủ điều kiện để tổ chức dạy nghề dài hạn. Đào tạo dài hạn thường cung cấp
đầy đủ kiến thức, kỹ năng cơ bản để thực hiện một nghề nào đó. Sau khi kết
thúc khoá học dài hạn, người lao động sẽ cơ bản có đủ hành trang để khởi đầu
nghề nghiệp của mình. Đào tạo dài hạn có ưu điểm là tính liên tục cao nên
người học có thể tiếp nhận các kiến thức, kỹ năng một cách hệ thống, bài bản
và cũng thuận lợi hơn khi muốn học tập để nâng cao trình độ.
12
Căn cứ vào trình độ đào tạo nghề
Trình độ đào tạo nghề là chuẩn mực kỹ thuật hoặc nghiệp vụ theo mức
độ khác nhau, được quy định theo các căn cứ khoa học thống nhất. Bao gồm:
- Trình độ bán lành nghề: được trang bị một số kiến thức, kỹ năng nghề
nhất định. Tổ chức đào tạo cấp trình độ này nhằm cung cấp lao động cho nhu
cầu phát triển ngành nghề giản đơn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển đổi cơ
cấu lao động tại chỗ, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế gia đình và phát triển
cơ hội có việc làm cho người lao động. Tỷ trọng lao động được đào tạo ở cấp
trình độ này sẽ giảm dần trong kế hoạch đào tạo, song vẫn chiếm phần lớn
trong tổng số lao động được đào tạo hàng năm.
- Trình độ lành nghề: người học được trang bị đầy đủ kiến thức lý
thuyết tổng hợp và kỹ năng thực hành chuyên sâu, giúp họ có khả năng đảm
nhận được những công việc phức tạp. Lao động được đào tạo ở cấp trình độ
này chủ yếu để phục vụ nhu cầu sử dụng của các khu công nghiệp, khu chế
xuất, những dây chuyền sản xuất sử dụng công nghệ cao, phục vụ nhu cầu
xuất khẩu và chuyên gia.
- Trình độ cao: khơng những người học có được hệ thống lý thuyết và
kỹ năng thực hành đầy đủ mà họ còn được tiếp cận với những khoa học mới,
với công nghệ tiên tiến, hiện đại từ đó họ có thể thực hiện công việc trên
những thiết bị mới, những công việc cần trình độ cao và sự khéo léo. Theo
yêu cầu phát triển của công nghệ sản xuất, theo xu hướng quốc tế, để hội nhập
và cạnh tranh trên thị trường lao động trong và ngoài nước, trong một số lĩnh
vực địi hỏi trình độ chun mơn kỹ thuật ở bậc trung cấp và cao đẳng. Vì
vậy, hệ thống đào tạo nghề cần sớm tổ chức đào tạo lao động ở cấp trình độ
này với tỉ trọng ngày càng nhiều hơn.
1.1.3. Các hình thức đào tạo nghề
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch đào tạo là xác định
các hình thức đào tạo thích hợp. Thực chất là tính toán hiệu quả kinh tế của
13
các hình thức đào tạo, là so sánh giữa chi phí đào tạo với hiệu quả đem lại khi
đào tạo. Đây là vấn đề phức tạp, trong thực tế chưa có phương pháp tính tốn
thật chính xác. Hiện nay mới chỉ có thể phân tích được những ưu và nhược
điểm của các hình thức đào tạo. Tuỳ theo yêu cầu và điều kiện thực tế, có thể
áp dụng hình thức này hay hình thức khác. Những hình thức đào tạo đang
được áp dụng hiện nay là:
1.1.3.1. Đào tạo tại nơi làm việc
Đào tạo tại nơi làm việc là đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hành ngay
trong quá trình sản xuất, do xí nghiệp tổ chức.
Đào tạo tại nơi làm việc được tiến hành dưới hai hình thức: cá nhân và
tổ đội sản xuất. Với đào tạo cá nhân, mỗi thợ học nghề được một cơng nhân
có trình độ lành nghề cao hướng dẫn. Người hướng dẫn vừa sản xuất, vừa tiến
hành dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức đào tạo theo tổ, đội sản xuất, thợ
học nghề được tổ chức thành từng tổ và phân công cho những cơng nhân dạy
nghề, thốt ly sản xuất chun trách hướng dẫn.
Những cơng nhân dạy nghề phải có trình độ văn hố, trình độ nghề
nghiệp và có phương pháp sư phạm nhất định.
Quá trình đào tạo được tiến hành qua các bước:
Phân cơng những cơng nhân có trình độ lành nghề cao vừa sản xuất,
vừa hướng dẫn thợ học nghề. Trong bước này, người hướng dẫn vừa sản xuất,
vừa giảng cho người học nghề về cấu tạo máy móc, nguyên tắc vận hành, quy
trình cơng nghệ, phương pháp làm việc. Người học nghề theo dõi, quan sát
những theo tác, động tác và phương pháp làm việc của người hướng dẫn.
Cũng trong bước này, doanh nghiệp hoặc phân xưởng tổ chức dạy lý thuyết
cho người học nghề do kỹ sư hoặc kỹ thuật viên phụ trách.
Giao việc làm thử sau khi đã nắm được những nguyên tắc và phương
pháp làm việc, người học nghề bắt tay làm thử dưới sự kiểm tra uốn nắm của
người hướng dẫn.
14
Giao việc hoàn toàn cho người học nghề. Khi người học nghề có thể
tiến hành cơng việc độc lập được, người hướng dẫn giao hẳn công việc cho
người học nghề nhưng vẫn phải thường xuyên theo dõi, giúp đỡ.
Muốn cho hình thức này đạt kết quả tốt, việc kèm cặp trong sản xuất
cần phải được tổ chức hợp lý, có chế độ đồng kèm cặp giữa người dạy học và
người học, giữa xí nghiệp và người dạy.
1.1.3.2. Các lớp cạnh doanh nghiệp
Đối với những nghề tương đối phức tạp, việc đào tạo trong sản xuất
không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, các doanh
nghiệp phải tổ chức các lớp đào tạo riêng cho mình hoặc cho các doanh
nghiệp cùng ngành. Hình thức đào tạo này khơng địi hỏi có đầy đủ cơ sở vật
chất - kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào điều kiện tự
nhiên sẵn có của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo gồm có hai phần: Lý
thuyết và thực hành sản xuất. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư,
cán bộ phụ trách. Phần thực hành được tiến hành ở các phân xưởng thực tập và
trong các phân xưởng do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn.
1.1.3.3. Các trường chính quy
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển trên cơ sở kỹ thuật
hiện đại, Bộ hoặc các Ngành cần tổ chức các trung tâm dạy nghề, các
trường dạy nghề tập trung, quy mô tương đối lớn, đào tạo cơng nhân có
trình độ lành nghề cao. Khi tổ chức các trường dạy nghề, cần phải có bộ
máy quản lý, đội ngũ giáo viên chuyên trách và cơ sở vật chất riêng cho
đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các trường, cần phải đảm
bảo các điều kiện sau đây:
Phải có kế hoạch và chương trình đào tạo. Đối với các nghề phổ biến,
chương trình do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục- Đào tạo
xây dựng và ban hành. Chương trình đào tạo phải bao gồm hai phần lý thuyết
và thực hành, không coi nhẹ phần nào.
15
Phải có đội ngũ giáo viên dạy nghề có đủ khả năng, chuyên môn và
kinh nghiệm giảng dạy.
Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập,
các phịng thí nghiệm, xưởng trường. Những nơi có điều kiện, nhà trường cần
cần tổ chức xưởng sản xuất riêng, nên để ở gần các doanh nghiệp lớn của
ngành, tạo điều kiện cho giảng dạy và học tập thuận lợi. Các tài liệu giảng dạy
và sách giáo khoa phải được biên soạn thống nhất cho các nghề, các trường.
Như vậy, muốn cho việc đào tạo có chất lượng phải đi từ những vấn đề cơ bản
của công tác dạy nghề, như định rõ nhiệm vụ, mục tiêu của mỗi trường, lớp;
tăng cường trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy, học tập;
đào tạo đội ngũ giáo viên lý thuyết và thực hành cho các nghề; ban hành
những chế độ, chính sách cần thiết như quy chế trường, lớp, tiêu chuẩn giáo
viên, tiêu chuẩn tuyển sinh vào các trường.
1.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CƠNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ
Trình độ tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của những người cơng
nhân đóng một vai trị quan trọng hàng đầu trong suốt q trình đổi mới nền
kinh tế, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng tay nghề cho cơng nhân cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng
bộ. Nhưng trước hết là phải làm sao để cơng tác đào tạo nghề có hiệu quả hơn
nữa. Muốn vậy, chúng ta cần nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng tới cơng tác
này để có những biện pháp tốt nhất đáp ứng yêu cầu đặt ra.
1.2.1. Các yếu tố bên trong
Công tác đào tạo nghề, ngay trong bản thân quá trình ấy đã chứa đựng rất
nhiều yếu tố. Những yếu tố này có mối quan hệ khăng khít, bền chặt với nhau,
những yếu tố ấy tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, cũng có lúc mâu
thuẫn nhau. Trên cơ sở ấy mà nó có tác động trực tiếp tới kết quả, hiệu quả của
đào tạo nghề. Vậy, những yếu tố bên trong đó là gì, chúng tác động như thế nào
tới công tác đào tạo nghề, đó là điều chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây:
16
1.2.1.1. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở dạy nghề
Có thể nói, cơ sở vật chất, kỹ thuật là yếu tố đầu tiên quyết định tới
việc cơ sở dạy nghề có tồn tại hay khơng? Cơ sở vật chất, kỹ thuật được nhắc
đến ở đây là hệ thống trường lớp, những trang thiết bị phục vụ cho cơng tác
dạy nghề, kinh phí của cơng tác dạy nghề…
Muốn quá trình học tập, đào tạo diễn ra thì trước hết cần có địa chỉ, tại
đây giáo viên dạy nghề sẽ truyền đạt kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành,
kỹ xảo làm việc cho học viên, giúp học viên tiếp cận được với nghề một cách
nhanh nhất và dễ dàng nhất. Địa chỉ ở đây chính là nơi diễn ra hoạt động sản
xuất kinh doanh, cũng có thể là những xưởng thực hành, hay quy mơ hơn, đó
là những lớp dành riêng cho mục đích học nghề. Một hệ thống trường lớp tốt
sẽ giúp quá trình truyền đạt và tiếp thu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp có
hiệu quả hơn, giúp công tác đào tạo nghề đạt kết quả tốt hơn. Nói đến cơ sở
vật chất, kỹ thuật, chúng ta không thể không nhắc đến những trang thiết bị,
dụng cụ, máy móc phục vụ q trình dạy và học. Đó là bàn, ghế, hệ thống
chiếu sáng, các thiết bị âm thanh, máy móc thực hành… Ví dụ như học sinh
học nghề tiện sẽ không thể học tốt nếu không biết cấu tạo của máy tiện, không
biết cách sử dụng máy tiện. Đặc biệt, trong điều kiện ngày nay, để quá trình
đào tạo nghề được tốt thì những trang thiết bị máy móc phục vụ cho q trình
thực hành phải là những máy móc tốt nhất, hiện đại nhất hay ít nhất cũng phải
phù hợp với q trình sản xuất để học viên sau khi kết thúc khoá học mới
không bị bỡ ngỡ khi tiến hành làm việc thực tế.
Một cơ sở vật chất, kỹ thuật tốt sẽ khiến kết quả đào tạo, bồi dưỡng rất
khả quan, sản phẩm của q trình đó là những người lao động có trình độ
chun mơn, vững vàng trong nghề đã được đào tạo, sẵn sàng đáp ứng mọi
yêu cầu của công việc. Nếu cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu đặt ra
thì quá trình học lý thuyết và thực hành có những hẫng hụt, việc học tại các cơ
sở dạy nghề với ra làm việc thực tế có những khoảng cách lớn, từ đó làm
17
giảm hiệu quả của công tác đào tạo, gây lãng phí chi phí cho q trình đào tạo
và bồi dưỡng, mà lãng phí này khơng chỉ cho bản thân người công nhân, cho
doanh nghiệp, tổ chức thuê mướn, mà là cho tồn xã hội.
1.2.1.2. Chương trình dạy nghề
Có cơ sở vật chất, kỹ thuật chưa đủ, quá trình đào tạo nghề muốn thực
hiện được thì phải xác định xem đào tạo cái gì, quá trình ấy diễn ra như thế
nào, trong thời gian bao lâu, cách thức đào tạo ra sao. Những điều đó được
biểu hiện cụ thể qua chương trình dạy nghề.
Chương trình dạy nghề bao gồm: giáo trình dạy nghề (sách giáo khoa,
tài liệu tham khảo), thời gian của quá trình học nghề (đào tạo dài hạn hay
ngắn hạn hay là đào tạo lại nâng cao trình độ lành nghề…), hình thức giảng
dạy là dạy trực tiếp trong sản xuất hay dạy tại trường lớp… Những nhân tố
này là những nhân tố nội tại có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả của công tác
đào tạo nghề.
Hệ thống lý thuyết bao giờ cũng được tập trung trong các tập bài giảng
của giáo viên dạy nghề mà những bài giảng này có được là nhờ giáo viên dạy
nghề đọc qua sách vở, tài liệu tham khảo hay có kinh nghiệm từ thực tiễn sản
xuất. Một hệ thống lý thuyết tốt sẽ giúp cho học sinh học nghề hình dung ra
được công việc mà họ sẽ phải làm trong tương lai, giúp họ tiếp cận được với
thực tế một cách rõ ràng và nhanh chóng nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Hành mà khơng có học thì như
người đi trong đêm tối” [77].
Có nghĩa là muốn làm việc thực tế được tốt thì phải có hệ thống lý
thuyết tốt dẫn đường. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của giáo trình dạy
nghề, của những tài liệu, sách báo tham khảo và quan trọng nhất là những bài
giảng lý thuyết của giáo viên dạy nghề.
Thời gian dạy và học nghề cũng có những ảnh hưởng khơng nhỏ tới
q trình đào đạo nghề. Với thời gian ngắn, học sinh học nghề chỉ có thể tiếp
18
xúc được với phần nào nội dung công việc trong tương lai của họ, muốn làm
việc tốt thì sau khố học họ vẫn phải tìm hiểu và mày mị thêm trong thực tế;
thời gian học ngắn sẽ không thể liên kết tốt giữa lý thuyết và thực hành và
không thể đáp ứng được với yêu cầu của những công việc phức tạp. Ngược
lại, thời gian học dài (những khoá học dài hạn, học tại trường dạy nghề) thì lý
thuyết và thực hành sẽ đều nhuần nhuyễn, học sinh học nghề sẽ kết hợp tốt lý
thuyết được học với thực tế cơng việc, với q trình thực hành, sau khố học,
trình độ tay nghề của họ đã đáp ứng được với những bước cơng việc phức tạp,
và có thể họ sẽ đảm nhận được những vị trí quan trọng trong dây chuyền hoạt
động sản xuất kinh doanh.
1.2.1.3. Đội ngũ giáo viên
Nếu như cơ sở vật chất, kỹ thuật và chương trình dạy nghề trong các cơ sở
dạy nghề là những yếu tố tĩnh tại, thì lực lượng giáo viên dạy nghề lại là một yếu
tố động, mang tính quyết định chất lượng đối với hệ thống cơ sở dạy nghề.
Giáo viên dạy nghề là những người trực tiếp mang kiến thức, kỹ năng
của nghề truyền đạt cho học viên. Thông qua giáo viên dạy nghề mà học viên
hiểu được cơ sở lý luận, cơ sở khoa học của nghề; nắm được trình tự thực
hiện cơng việc. “Có thầy giỏi mới có trị hay”, đó là kinh nghiệm mà nhân
dân ta đúc kết từ lâu và đem ứng dụng kinh nghiệm ấy trong trường hợp này
là hoàn toàn đúng đắn.
Nếu giáo viên dạy nghề có trình độ tốt, tâm huyết với nghề sẽ đào tạo
ra một lớp người lao động có chất lượng lao động và yêu nghề, từ đó mà nâng
cao năng suất lao động cá nhân và xã hội, giảm những chi phí khơng đáng có
trong q trình sản xuất, giảm tai nạn lao động, tăng hứng thú đối với quá
trình lao động với người lao động. Ngược lại, giáo viên dạy nghề khơng đủ
trình độ hoặc khơng tâm huyết với nghề, học sinh học nghề sẽ không thể tiếp
thu có hiệu quả chương trình dạy nghề, dẫn đến việc áp dụng lý thuyết đã học
vào trong thực hành là kém và đi vào sản xuất thực tế không đáp ứng được
u cầu của cơng việc, gây lãng phí ngun vật liệu, thời gian và cả tiền bạc.
19
Có thể nói, hệ thống các cơ sở dạy nghề là những “cái nôi”, nơi trực
tiếp đào tạo nghề cho người lao động- lực lượng chính trị -xã hội quan trọng
nhất, là lực lượng chủ yếu phục vụ cho quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Những thành quả của lao động sản xuất đạt được phụ thuộc trước hết vào
trình độ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp, phụ thuộc vào trình độ tay
nghề của họ mà giáo viên dạy nghề là “linh hồn” của những “cái nôi” đó. Vì
thế mà giáo viên dạy nghề phải được đào tạo và rèn luyện thường xuyên trên
cơ sở cấu trúc nhân cách: là một nhà sư phạm, một nhà chuyên môn kỹ thuật,
nhà nghiên cứu ứng dụng khoa học, nhà quản lý và hoạt động xã hội vì giáo
viên nghề là yếu tố quyết định chất lượng đào tạo nghề.
1.2.1.4. Lượng học sinh tham gia học nghề
Nếu nói: giáo viên dạy nghề là quan trọng quyết định tới chất lượng
đào tạo nghề thì học sinh học nghề tham gia học nghề là nhân tố quan trọng
quyết định tới sự ra đời, tồn tại và phát triển của một cơ sở dạy nghề nào đó.
Một cơ sở học nghề có đầy đủ trang thiết bị, máy móc phục vụ cho
cơng tác đào tạo nghề; có khn viên trường đẹp; có chương trình dạy nghề
được tổ chức khoa học nhất, tiến bộ nhất và đội ngũ giáo viên dạy nghề chất
lượng... nhưng nếu khơng có học sinh tham gia vào q trình học tập thì cơ sở
dạy nghề đó cũng khơng thể nào tồn tại được.
Khi số lượng học sinh học nghề phù hợp với quy mơ của cơ sở dạy
nghề thì chất lượng đào tạo sẽ được nâng lên rõ rệt. Ngược lại, nếu quy mô
học sinh này quá nhỏ hoặc quá lớn so với những yếu tố trên thì cũng đều làm
cho q trình dạy nghề khơng được hiệu quả tối ưu .
1.2.2. Các yếu tố bên ngồi
Cơng tác đào tạo nghề là cơng tác hết sức quan trọng, nó chịu ảnh
hưởng và tác động của rất nhiều yếu tố, đồng thời nó cũng tác động tới nhiều
mặt của sự phát triển đất nước. Các yếu tố nội tại bên trong q trình ấy
khơng phải là đứng n mà thường xuyên vận động, gây ảnh hưởng đến nhau,
20
làm cho công tác đào tạo nghề cũng phát triển theo, có diện mạo mới. Nhưng
diện mạo mới này khơng phải là hồn tồn các yếu tố bên trong đó tạo ra, mà
nó cịn chịu ảnh hưởng của những nhân tố khác bên ngồi q trình, làm thay
đổi, đổi mới nó, làm cho q trình ấy chuyển biến theo xu hướng phát triển
chung của đất nước.
1.2.2.1. Nhận thức của người dân
Thực tế trong thời gian vừa qua và cho tới tận bây giờ, tâm lý chung
của học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông là muốn vào các trường
đại học và đó cũng là mong muốn của các bậc cha mẹ. Từ nguyện vọng đó,
hàng năm số lượng thí sinh vào các trường đại học ngày một đơng, có nhiều
thí sinh tham gia nhiều kỳ thi để mong được vào đại học. Ngược lại, số thanh
niên vào học các trường nghề rất ít, phần lớn những em vào học trường nghề
đều do hồn cản khó khăn, học lực thấp, đã vậy, khi vào trường nghề tâm lý
vẫn không hứng khởi, học với tinh thần “bất đắc dĩ”. Tình trạng đó đã gây nên
việc truyền đạt kiến thức cho học sinh gặp rất nhiều khó khăn.
Như vậy, nhận thức này đã tác động rất tiêu cực đến việc phát triển hệ
thống cơ sở dạy nghề, lượng học sinh tham gia vào học nghề ít khiến các cơ
sở dạy nghề không thể đổi mới trang thiết bị giảng dạy, đội ngũ giáo viên dạy
nghề cũng không được trau dồi thêm kiến thức, kỹ năng mới. Có nghĩa là,
cơng tác đào tạo nghề sẽ không thể phát triển tốt được.
Tuy nhiên, do yêu cầu chung của sự phát triển mà cho đến nay, nhận
thức này cũng đã có những chuyển biến tích cực. Lượng học sinh tham gia
vào các cơ sở dạy nghề ngày một nhiều. Đã có suy nghĩ: “đường tới tương lai
không chỉ bằng con đường đại học”, do vậy các em học sinh từ các trường phổ
thông đã tích cực tìm hiểu thêm về hệ thống nghề nghiệp và đã có những lựa
chọn tích cực cho nghề nghiệp trong tương lai; các bậc cha mẹ cũng ngày càng
ủng hộ việc con em mình tham gia vào các trường học nghề; toàn xã hội ra sức
đầu tư, tuyên truyền và ủng hộ cho sự phát triển của hệ thống cơ sở dạy nghề.
21
Đây là điều đáng mừng và cần thiết được phát huy hơn nữa để công tác đào tạo
nghề ngày càng đạt hiệu quả tốt phục vụ sự phát triển đất nước trong tương lai.
1.2.2.2. Tình hình phát triển kinh tế- xã hội
Kinh tế có phát triển, xã hội có ổn định thì mới có thể đầu tư cho cơng
tác đào tạo nghề, mới có thể được các Ban, Ngành, Đồn thể quan tâm. Như
vậy, đào tạo, bồi dưỡng nghề mới có thể phát triển được.
Dạy nghề là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, vì vậy nó
cũng là một trong các khoản chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước. Kinh tế
đất nước có phát triển thì lượng vốn đầu tư cho công tác này mới gia tăng.
Doanh nghiệp muốn phát triển thì phải có đội ngũ những người lao động có trình
độ chun mơn, vì thế có nhiều doanh nghiệp cũng bỏ tiền ra để đào tạo nghề
cho người lao động hoặc họ bỏ tiền ra để “mua” những người lao động được đào
tạo hoặc bồi dưỡng nghề với trình độ cao vào doanh nghiệp của họ. Muốn vậy,
doanh nghiệp phải có tiềm lực kinh tế nhất định mới có thể thực hiện được.
Nói chung, ở cả cấp độ vi mô hay vĩ mô, đào tạo nghề muốn tồn tại, phát
triển được đều cần cơ sở kinh tế vững chắc. Kinh tế càng phát triển, đào tạo nghề
sẽ càng mở rộng quy mô và đi sâu vào cải thiện chất lượng và ngược lại.
Tương tự, với tình hình xã hội cũng vậy, một xã hội thường xun
khơng ổn định thì cơng tác giáo dục nói chung, đào tạo nghề nói riêng sẽ ít
được quan tâm hơn là khi tình hình xã hội ổn định.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, với một xã hội rất ổn định, nền kinh
tế đang ngày càng phát triển thì công tác đào tạo nghề đang được hết sức quan
tâm để từ đó có thể tạo ra những người lao động với trình độ nhất định, đến lượt
nó sẽ phục vụ tốt hơn nữa cho quá trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
1.2.2.3. Nhu cầu của xã hội về lao động qua đào tạo nghề
Nhu cầu là những đòi hỏi, mong muốn của con người xuất phát từ
những nguyên nhân khác nhau nhằm để đạt được những mục đích nào đó như
nhu cầu tâm sinh lý, nhu cầu xã hội…
22
Xã hội được hiểu ở đây là tổng thể các doanh nghiệp, các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, các làng nghề truyền thống…mà ở đó có sử dụng lao động
qua đào tạo nghề.
Vậy nhu cầu của xã hội về lao động qua đào tạo nghề có thể hiểu là
tổng thể những nhu cầu của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh,
các làng nghề… về người lao động qua đào tạo nghề.
Đã có rất nhiều học thuyết bàn về “cung” và “cầu”, giữa những học thuyết
đó có những điểm khác biệt nhau, cũng có những điểm hài hồ nhau, nhưng tất cả
các học thuyết đều không phủ nhận mối quan hệ biện chứng giữa “cung” và
“cầu”. Có nghĩa là có cung thì sẽ có cầu và ngược lại có cầu thì sẽ có cung.
Chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ này qua hai khía cạnh.
Thứ nhất, khía cạnh về cung: chính là những người có trình độ chun
mơn nào đó mà nơi chủ yếu để tạo ra nguồn cung này chính là hệ thống các
cơ sở dạy nghề.
Thứ hai, khía cạnh về cầu: như đã nói ở trên, đó là các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất kinh doanh, làng nghề… cần lao động có trình độ lành nghề,
trình độ chun mơn nhất định để tiến hành tạo ra những sản phẩm vật chất và
tinh thần phục vụ cho đời sống của con người và xã hội.
Khi đưa hai khía cạnh này lên trên thị trường lao động, chúng sẽ gặp nhau
và tác động qua lại lẫn nhau. Cầu càng lớn thì cung sẽ làm sao để thoả mãn một
cách tối ưu nhu cầu này. Hay nói khác đi,nếu cầu về lao động qua đào tạo nghề
càng lớn thì lượng học sinh tham gia vào đào tạo, bồi dưỡng nghề càng nhiều,
các cơ sở đào tạo nghề sẽ mở rộng quy mô, đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật
nhiều hơn, đội ngũ giáo viên được nâng cao trình độ… đến một mức nào đó, nó
có thể làm thay đổi cơ cấu lao động trong xã hội theo hướng mong muốn.
1.2.2.4. Chính sách của Nhà nước về đào tạo nghề
Đào tạo nghề thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, vì thế nó cũng chịu sự
quản lý và tác động của hệ thống pháp luật thông qua các văn bản pháp luật
23
như Nghị định, Nghị quyết, Thơng tư, Quyết định… có liên quan đến cơng tác
đào tạo nghề.
Những chính sách của Nhà nước về các khía cạnh đào tạo nghề càng
nhiều càng chứng tỏ đào tạo nghề được quan tâm. Ở nước ta trước đây, trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cả nước cần tập trung sức
người, sức của cho tiền tuyến nhưng Nhà nước vẫn quy định khuyến khích
học nghề. Sắc lệnh số 27/SL ngày 12/03/1947 của chủ tịch nước quy định:
“bắt buộc các hãng kỹ nghệ, hầm mỏ… nếu dùng từ 30 người thợ thì phải dạy
một số thợ học nghề bằng 1/10 số thợ chuyên nghiệp…”. Vào thập kỷ 80,
Chính phủ ra Nghị quyết số 104/CP: “Những xí nghiệp có khoảng 2000 cơng
nhân thợ mỏ trở lên phải thành lập trường dạy nghề…”, chính vì vậy mà thời
gian đó tuy cịn gặp nhiều khó khăn nhưng cơng tác đào tạo nghề vẫn được
duy trì thường xuyên và có hiệu quả.
1.2.2.5. Tiến bộ khoa học kỹ thuật
Cách mạng khoa học kỹ thuật tạo ra bước ngoặt cơ bản trong việc
chuyển đổi toàn bộ yếu tố lực lượng sản xuất, đề ra yêu cầu ngày càng cao đối
với cấu trúc nghề nghiệp, phẩm chất và năng lực của lực lượng lao động địi
hỏi q trình đào tạo nghề phải diễn ra liên tục trong quá trình lao động.
Cách mạng khoa học kỹ thuật làm tăng thêm lượng thông tin khoa học
với tốc độ như vũ bão, dẫn tới sự bùng nổ thông tin, đặt ra cho các nhà giáo
dục yêu cầu khách quan về sự thay đổi phương pháp giáo dục, làm cho nhà
giáo dục đủ sức, kịp thời và hiệu quả trong việc chuyền tải tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào trong thực tiễn sản xuất.
Có nghĩa là: khoa học - kỹ thuật tác động đến nhiều mặt của công tác
đào tạo nghề.
Thứ nhất: khoa học - kỹ thuật làm thay đổi tính chất và nội dung lao
động nghề nghiệp của người lao động.
Nội dung lao động được thể hiện ở mặt số lượng và chất lượng của các
thao tác lao động đặc trưng bởi đối tượng lao động, công cụ lao động, quy
24
trình cơng nghệ và trình độ lành nghề của họ. Một trong những tiêu chí để
đánh giá mức độ nặng nề về lao động trí óc hay chân tay.
Thứ hai: khoa học - kỹ thuật làm thay đổi diện nghề của người lao động.
Ngày nay, cùng với những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công
nghệ đang diễn ra một xu thế là các lĩnh vực khoa học ngày càng tiến lại gần
nhau, một số bộ môn khoa học cũng đang được mở rộng, kết hợp với nhau
thành những lĩnh vực khoa học mới như tốn - tin, cơng nghệ sinh học - công
nghệ thực phẩm…
Trong kỹ thuật cũng vậy, dưới ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ
thuật, nhiều lĩnh vực công nghệ cũng đã được thực hiện bằng sự kết hợp các
lĩnh vực kỹ thuật khác nhau. Ví dụ như chiếc radio hiện đại ngày nay là sự kết
hợp tinh xảo giữa cơ khí, điện, điện tử, tự động hố, vi xử lý….Do đó, diện
nghề của nhiều loại hình lao động được mở rộng như kỹ sư cơ - điện tử, kỹ sư
toán - tin, kỹ sư công nghệ sinh học- công nghệ thực phẩm…
Thứ ba, khoa học kỹ thuật đã từng bước “quốc tế hoá” trong một số
lĩnh vực sản xuất quan trọng.
Đối với một số lĩnh vực sản xuất cần rất nhiều loại công nghệ khác
nhau mà ở trong cùng một nước không thể nào giỏi được đồng đều hay khơng
có đủ những điều kiện cần thiết để thực hiện tất cả các mặt của q trình sản
xuất. Do đó, đã diễn ra q trình hợp tác quốc tế trong sản xuất, làm cho các
quốc gia, các vùng lãnh thổ gần gũi nhau hơn.
Thứ tư, khoa học kỹ thuật dẫn đến việc phải chuyển đổi nghề.
Các mạng công nghệ đã và đang làm cho bao nhiêu nghề mới xuất
hiện, nhiều nghề cũ mất đi, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp bị bào mịn
nhanh chóng. Người ta tính rằng hiện nay cứ trung bình trong vòng từ 7 đến
10 năm, nội dung lao động của các nghề nói chung bị lạc hậu mất 30%, thậm
chí đối với các nghề kỹ thuật điện tới 50%.
Như vậy, với sự tác động vô cùng lớn của khoa học kỹ thuật như vậy
đối với người lao động, quá trình lao động của họ và đối với công tác đào tạo,
25
bồi dưỡng nghề thì cơng tác này cần có những thay đổi sao cho phù hợp với
sự phát triển khoa học kỹ thuật trong tình hình mới.
1.3. YÊU CẦU CẦN PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ
1.3.1. Yêu cầu của đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cho nên
phải nâng cao chất lượng đào tạo nghề
Hiện nay, công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang là một
tất yếu của sự phát triển triển, nó trở thành làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất
cả các nước trên thế giới cũng như mọi mặt của đời sống xã hội. Kinh nghiệm
cũng như thực tiễn đã chỉ ra rằng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có mối quan
hệ chặt chẽ với sự nghiệp đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đặc biệt là nhân lực kỹ thuật có chất lượng cao.
Có thể nói rằng chất lượng nguồn nhân lực hay cụ thể hơn là hệ thống đào
tạo nghề nghiệp là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ cũng như sự
thành công của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vì:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một q trình mà trong đó sử dụng năng
lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo ra và sử dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền
thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng
tới một xã hội văn minh và hiện đại. Chính vì vậy mà cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa địi hỏi phải có một lực lượng lao động có chất lượng cao.
Kinh nghiệm một số nước cho thấy rằng phát triển nguồn lực chính là chìa
khóa cho sự phát triển bền vững, Nhật Bản là một ví dụ. Sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, nước Nhật bị tàn phá, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, kinh tế
kiệt quệ, khoảng 80 vạn người dân thiếu ăn. Nhưng sau đó kinh tế Nhật Bản
lại phục hồi nhanh chóng (1945 -1654) và phát triển với tốc độ thần kỳ (1954
-1973), và có thời gian dài trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới (sau
Mỹ). Đó chính là kết quả của việc phát huy tối đa vai trò nguồn lực trong sự
phát triển đất nước.