1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là trung tâm của mọi sự phát triển. Con người vừa là mục
tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Là mục tiêu bởi mọi sự
phát triển đều vì con người, là động lực vì mọi sự phát triển đều do con người
tạo ra. Đó là cơ sở của quan điểm phát triển nội sinh do con người và vì con
người. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta ln đặt con người ở vị trí
hàng đầu. Do đó, phát triển con người cả về thể chất và trí tuệ được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trước tiên, để phát triển con người tồn diện thì
cần phải có một sức khỏe tốt, nếu mỗi người khơng có được một thể lực khỏe
mạnh thì khó phát huy hết năng lực của mình trong học tập, lao động và công
tác. Sức khỏe là vốn quý, sức khỏe là cơ sở quan trọng để mỗi các cá nhân tạo
ra nhiều của cải cho xã hội, thúc đẩy đất nước phát triển. Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề chăm sóc sức khỏe cho các tầng lớp nhân
dân, bản thân Người là một tấm gương trong việc rèn luyện sức khỏe. Người
cho rằng: “Mỗi người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt. Mỗi người dân mạnh
khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Dân cường thì nước thịnh” [49, tr.160].
Tại hội nghị quốc tế về chăm sóc sức khỏe ban đầu họp tại Alma Ata,
Kazakhstan ngày 12/9/1978, Tổ chức y tế thế giới đã định nghĩa ''Sức khoẻ là
một trạng thái thoải mái, đầy đủ về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ khơng
chỉ là khơng có bệnh hay khơng có tật" [24, tr.13]. Như vậy, sức khoẻ phải
được hiểu theo nghĩa tổng hợp gồm tất cả vấn đề có liên quan đến con người,
đến môi trường sống, sức khoẻ của một con người luôn luôn gắn với sức khoẻ
của một cộng đồng xã hội, môi trường mà con người đó sinh sống. Sức khỏe
lại ln ln ở trạng thái biến động, vì một mặt sức khoẻ biến động theo thời
gian, theo sự cân bằng giữa các yếu tố có lợi và có hại cho sức khoẻ và theo
khả năng đối phó của con người đối với các yếu tố sinh học, kinh tế, chính trị,
xã hội ln ln tác động đến con người. Theo tuyên ngôn Alma-Ata: Chăm
2
sóc sức khoẻ ban đầu là những sự chăm sóc thiết yếu, xây dựng trên những cơ
sở và phương pháp thực hành khoa học và chấp nhận được về mặt xã hội, có
thể phổ biến rộng rãi cho tất cả các cá nhân và các gia đình trong cộng đồng
cùng tham gia đầy đủ, với một giá thành mà cộng đồng và nước đó có thể
chấp nhận được ở mọi giai đoạn phát triển và theo một tinh thần tự nguyện, tự
giác. Chăm sóc sức khỏe ban đầu là tuyến đầu tiên tiếp xúc của hệ thống y tế
quốc gia với cá nhân, gia đình và cộng đồng đem dịch vụ y tế gần nhất đến
những nơi con người sống và làm việc. Chăm sóc sức khoẻ ban đầu là một bộ
phận cấu thành bản lề và trung tâm của hệ thống y tế quốc gia. Như vậy, chăm
sóc sức khoẻ cộng đồng là chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở cơ sở nhằm giải
quyết các vấn đề sức khoẻ chính của cộng đồng, theo chủ trương "của cộng
đồng, do cộng đồng, vì cộng đồng" [16, tr.19].
Xã hội càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
càng được nâng lên thì vấn đề chăm sóc sức khỏe ngày càng trở thành mối
quan tâm hàng đầu của mỗi cá nhân, gia đình và của tồn xã hội. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ rõ: “Sự cường tráng về thể
chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản
trí tuệ và vật chất cho xã hội. Chăm lo cho con người về thể chất là trách
nhiệm của toàn xã hội” [37, tr.30].
Tiếp tục thực hiện chủ trương bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân
(CSSKND), tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) Đảng xác
định: Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân
dân, nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát
triển giống nòi. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế, đặc biệt là mạng
lưới y tế cơ sở. Xây dựng một số Trung tâm Y tế chuyên sâu. Đẩy mạnh sản
xuất dược phẩm, bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đến mọi địa bàn dân cư.
Thực hiện cơng bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe; đổi mới cơ chế và
chính sách viện phí; có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người
3
nghèo, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Nhà nước ban hành chính sách quốc
gia về y học cổ truyền. Kết hợp chặt chẽ y học hiện đại với y học cổ truyền
từ khâu đào tạo đến khâu khám và điều trị [38, tr.107].
Phát triển thêm một bước quan điểm về cơng tác chăm sóc sức khỏe
nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: Phát
triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế
tồn dân. Phát triển hệ thống y tế cơng bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người
dân được chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để nâng
cấp các cơ sở y tế, y tế dự phịng, xây dựng và hồn thiện chính sách trợ cấp
và bảo hiểm y tế cho người hưởng chính sách xã hội và người nghèo trong
khám, chữa bệnh. Phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao và ngồi cơng lập.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Có chiến
lược, quy hoạch và cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển hệ thống sản xuất,
lưu thông, phân phối thuốc chữa bệnh; phát triển mạnh các ngành công
nghiệp dược, thiết bị y tế đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Kết hợp y
học hiện đại với y học cổ truyền.
Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người
Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi [40, tr.101-102].
Đặc biệt, ngày 23 - 2- 2005, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị
quyết số 46-NQ/TW về cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ: Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi
con người và của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu
của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện
bản chất tốt đẹp của chế độ. [49, tr.1].
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, trong
những năm (2000 - 2010) công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở nước ta
4
đã đạt được kết quả quan trọng. Tuổi thọ của người dân ngày một tăng, hệ
thống cơ sở khám chữa bệnh từ tuyến cơ sở đến tuyến Trung ương được nâng
cấp và đầu tư xây dựng mới. Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền,
các đồn thể và tồn dân về vai trị, tầm quan trọng của cơng tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân được nâng lên, nhiều phong trào thực tiễn nhằm tuyên truyền,
giáo dục toàn dân nâng cao thể lực, giữ gìn vệ sinh mơi trường sống... được
phát động, bước đầu được kết quả tốt. Bên cạnh kết quả đạt được, trong tình
hình hiện nay, sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân vẫn cịn
nhiều yếu kém và bất cập: tình trạng q tải trong điều trị bệnh của các cơ sở
khám chữa bệnh ở tuyến Trung ương; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế của
mạng lưới y tế cơ sở còn nhiều thiếu thốn; vấn đề xuống cấp về y đức của một
bộ phận không nhỏ cán bộ y tế; sự buông lỏng quản lý đối với thị trường
thuốc tân dược...
Hà Giang là một tỉnh miền núi thuộc điểm cực Bắc của Tổ quốc. Thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà
Giang đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng
lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân
dân được các cấp ủy đảng, chính quyền đặc biệt quan tâm. Nhờ vậy, mạng
lưới y tế từ tuyến cơ sở đến tuyến tỉnh không ngừng được mở rộng, chất
lượng khám chữa bệnh được nâng lên; sức khỏe thể lực của các tầng lớp nhân
dân được nâng lên một bước, góp phần quan trọng vào q trình phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu của thực tiễn, sự
nghiệp y tế nói chung, cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tỉnh Hà Giang
còn nhiều hạn chế về quy mô các bệnh viện, chất lượng và đội ngũ cán bộ y,
bác sĩ... Thực tế đó địi hỏi phải nhận thức đúng và tổ chức chỉ đạo thực hiện
có hiệu quả hơn nữa chủ trương của Đảng về công tác y tế, CSSKND, vận
dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Với ý nghĩa ấy, việc
5
nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo cơng tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân từ năm 2000 đến năm 2010 nhằm đánh giá đúng những thành
tựu và hạn chế, đồng thời đúc rút ra những kinh nghiệm làm cơ sở cho việc
lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sự nghiệp y tế nói chung, CSSKND của tỉnh trong
những năm tiếp theo là một việc cần thiết. Do đó, tơi chọn vấn đề: “Đảng bộ
tỉnh Hà Giang lãnh đạo cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân từ năm
2000 đến năm 2010” làm đề tài luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển sự nghiệp y tế nói chung, chăm sóc sức khỏe nhân dân được
Đảng xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về
vấn đề này. Đã có nhiều cơng trình khoa học, các tổ chức và cá nhân nghiên
cứu về cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân như:
Nhóm các tổ chức quốc tế và các nhà nghiên cứu nước ngoài nghiên
cứu về y học bao gồm các tổ chức:
Tổ chức UNICEF: Giám sát đánh giá hoạt động truyền thông giáo dục
sức khỏe, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, xuất bản năm 2010 đã đề cập
đến các kỹ năng chăm sóc sức khỏe, trẻ em, trong đó nhấn mạnh những kỹ
năng để phát triển các thói quen và các chuẩn mực tăng cường sức khỏe;
Những điều cần cho cuộc sống, do tổ chức UNICEF xuất bản lần thứ 3 năm
2002. Cuốn sách chỉ rõ vấn đề sức khỏe là tài sản quý giá của mỗi người và
của quốc gia. Có nhiều nhân tố liên quan mật thiết với nhau tác động ảnh
hưởng đến sức khỏe con người. Mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và quốc
gia ngày càng có vai trị quan trọng trong việc cùng tham gia vào cơng tác
chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Hành động vì sức khỏe có thể bắt đầu từ
những ngày tháng đầu tiên của cuộc sống và có tác động ảnh hưởng đến
suốt cả cuộc đời.
6
Tập tài liệu giáo dục sức khỏe, của Tổ chức Y tế thế giới xuất bản năm
2006 đã cho rằng: chăm sóc sức khỏe ban đầu địi hỏi các nhân viên y tế phải
có quan niệm về một cách nhìn mới, khơng những phải quan tâm đến việc dự
phịng, khống chế bệnh, mà còn phải quan tâm đến việc nâng cao và chăm sóc
sức khỏe mọi người. Các cơng nghệ về y tế của chúng ta phải dựa trên những
gì mà chính người dạy muốn và cần nó. Nói cách khác, nhân viên y tế trước
hết cần học và trên tất cả phải hành động như một người “tạo thuận lợi” cho
các hoạt động của cá nhân, gia đình và cộng đồng.
EWLES và SIMNETT với cuốn sách, Nâng cao sức khỏe, nhà xuất bản Y
học, Hà Nội, xuất bản năm 1998. Hai tác giả cho rằng: theo công chúng một con
người khỏe mạnh chỉ là con người không ốm đau. Sức khỏe là điều tất nhiên chỉ
được coi như ốm đau hay có vấn đề về sức khỏe can thiệp đến cuộc sống của con
người. Các tác giả cho rằng “Anh thường không nghĩ tới sức khỏe của anh cho tới
khi anh khơng cịn khỏe”.
Nhóm những cơng trình, bài viết khoa học của tập thể và cá nhân đã
công bố liên quan tiêu biểu:
Cuốn sách Cần làm gì để sống khỏe mạnh của Bộ Y tế, xuất bản năm
1996. Cuốn sách đã bàn đến sự hiểu biết dân gian về bệnh tật, phịng bệnh và
điều trị cũng có thể là thế mạnh trong việc định hướng quan điểm về sức khỏe
của nhân dân.
Cuốn Thực hành truyền thông giáo dục sức khỏe về chăm sóc sức khỏe
bà mẹ và trẻ em tại cộng đồng do Bộ Y tế, xuất bản năm 2000. Cuốn sách cho
rằng chăm sóc tốt trẻ em, các bậc cha mẹ sẽ rất có lợi: khi bọn trẻ khỏe mạnh
lớn lên, chúng có thể chăm nom cha mẹ lúc về già.
Cuốn sách Nghiên cứu hệ thống Y tế phương pháp nghiên cứu Y học
của tập thể tác giả GS. Phạm Song, GS. Đào Ngọc Phong, Ths. Ngơ Văn
Tồn, nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2001. Các tác giả cho rằng: nghiên cứu hệ
thống y tế không chỉ là nghiên cứu hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà
7
nghiên cứu hệ thống y tế theo tổ chức Y tế thế giới có một phạm vi rất rộng.
Tất cả những nghiên cứu không thuộc phạm vi nghiên cứu cơ bản như phát
hiện ra những bệnh mới, những loại vắcxin mới, các loại vi sinh vật mới hoặc
các men, các chất mới trong cơ thể...đều được coi như là nghiên cứu hệ thống
y tế. Đây còn là vấn đề mà nhiều nhà khoa học thường cho rằng nghiên cứu
hệ thống y tế chỉ là nghiên cứu hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe, là cơng
việc của các nhà tổ chức y tế.
Cuốn Tâm lý học Y học của tác giả Nguyễn Văn Nhận, nhà xuất bản
Y học, Hà Nội, 2001. Tác giả viết: từ xa xưa người ta đã quan tâm đến vấn
đề tâm lý người bệnh và tâm lý người thầy thuốc. Những năm gần đây, nhờ
sự phát triển của tâm lý học và y học hiện đại mà nhiều ngành khoa học
mới đã ra đời để nghiên cứu sâu thêm vấn đề này trong số những khoa học
đó có tâm lý y học.
Cuốn Y học cổ truyền phục vụ y tế cộng đồng của các tác giả GS. Trần
Thúy, TS. Đỗ Thị Phương, Ths. Trần Quốc Hùng, nhà xuất bản Y học, Hà Nội
2002. Các tác giả chỉ ra rằng: nền y học cổ truyền dân tộc gồm những kiến
thức tư duy tổng hợp và nhiều kinh nghiệm phịng chữa bệnh của cha ơng ta
với nguồn dược liệu phong phú và phương pháp không dùng thuốc dày dạn
kết hợp với những kinh nghiệm chữa bệnh của nền y học cổ truyền của nhân
dân các nước (Campuchia, Lào, Trung Quốc...) được áp dụng sáng tạo vào
các điều kiện sức khỏe bệnh tật của nhân dân ta.
Cuốn sách Đáp ứng Y tế khẩn cấp trong thảm họa thiên tai của GS,
TSKH. Lê Thế Trung, nhà xuất bản Y học, Hà Nội 2003. Tác giả đề cập đến việc
xây dựng mạng lưới y tế thường xuyên đáp ứng yêu cầu nếu có thảm họa xảy ra.
Theo dõi, giám sát, dự báo, triển khai tổ chức, huy động lực lượng, tổ chức cứu
nạn cứu trợ, phân loại chọn lọc, xử trí khẩn cấp nguy kịch chuyển thương, chi
viện, phòng chống dịch bệnh thực hiện chính sách xã hội, huy động viện trợ và
sử dụng phân phối viện trợ đến tận đối tượng bị nạn.
8
Bộ Y tế với cuốn sách Các chính sách và giải pháp thực hiện chăm sóc
sức khỏe ban đầu, xuất bản năm 2002. Cuốn sách đề cập đến những quan điểm
chỉ đạo cơ bản xuyên suốt quá trình phát triển của nền y tế Việt Nam.
Cuốn sách các kỹ năng truyền thông giáo dục sức khỏe, do Bộ Y tế Trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe xuất bản năm 2007. Cuốn sách đã
chỉ rõ những kỹ năng giúp cho cán bộ y tế trong việc tuyên truyền giáo dục
sức khỏe.
Tác giả GS, TSKH. Phạm Mạnh Hùng có bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chăm sóc sức khỏe nhân dân” đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 6 - 32012. Tác giả đã đề cập những luận điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân dân; mối quan hệ giữa y lý, y thuật và y
đạo trong tư tưởng của Người; vị trí của cơng tác CSSKND; mối quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng trong việc chăm sóc sức khỏe.
Nhóm những cơng trình khoa học, bài viết về chăm sóc sức khỏe tỉnh
Hà Giang:
Sở Y tế Hà Giang với đề tài nghiên cứu khoa học: Vai trò của gia đình
trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng đã hồn thành vào năm 2003. Vai trị của
gia đình trong giáo dục sức khỏe và hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở trong
chăm sóc sức khỏe cộng đồng được đề cập tới.
Tác giả Nguyễn Thị Bình và Phan Thị Hải Yến: Thực trạng tổ chức và
hoạt động y tế thôn bản huyện Bắc Quang - Hà Giang năm 2013, đề tài khoa
học cấp ngành. Tác giả chủ yếu đề cập đến các nội dung truyền thông giáo
dục sức khỏe của nhân viên y tế thôn bản về công tác vệ sinh môi trường,
công tác trồng và sử dụng cây thuốc nam, công tác sơ cấp cứu ban đầu.
Trịnh Thúy Nga, Kiến thức, thái độ, thực hành về sức khỏe sinh sản vị
thành niên của học sinh trung học cơ sở người Mông huyện Đồng Văn - Hà
Giang, luận án chuyên khoa cấp II. Tác giả đề cập đến các yếu tố liên quan đến
hành vi sức khỏe sinh sản của vị thành niên và các phong tục tập quán của người
Mơng có liên quan đến sức khỏe sinh sản.
9
Tổng hợp các cơng trình đã cơng bố nói trên cho thấy: Phần lớn các
cơng trình nghiên cứu đường lối, chính sách CSSKND hoặc đã đề cập đến
một khía cạnh nào đó trong cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu của nhân
dân. Qua nghiên cứu, cho thấy, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống về quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Giang trong
cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Những kết quả nghiên cứu trên có giá trị tham khảo tốt và là nguồn tài
liệu tham khảo quan trọng trong q trình thực hiện đề tài luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo thực hiện
cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh từ năm 2000 đến năm
2010, từ đó đúc rút một số kinh nghiệm, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận và thực tiễn lãnh đạo cơng cuộc đổi mới của Đảng nói chung, trong
lĩnh vực y tế nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Hà
Giang tác động đến việc thực hiện công tác CSSKND ở địa phương.
- Phân tích một cách hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và
Đảng bộ tỉnh Hà Giang đối với cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân ở tỉnh Hà
Giang từ năm 2000 đến năm 2010.
- Đánh giá những kết quả và hạn chế, từ đó đúc rút những kinh nghiệm
trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Giang đối với công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân trong thời gian tiếp theo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu về quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Giang lãnh đạo sự
nghiệp phát triển y tế, trọng tâm là cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân từ
năm 2000 đến năm 2010.
10
4.2. Phạm vi
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu q trình lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân của Đảng bộ tỉnh Hà
Giang từ năm 2000 đến năm 2010.
- Không gian: trên địa bàn tỉnh Hà Giang
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của
Đảng, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang về chăm sóc sức khỏe
nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ
yếu; đồng thời kết hợp phương pháp khác như: phân tích, so sánh, thống kê,
tổng hợp để hồn thành luận văn.
5.3. Nguồn tư liệu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tham khảo, sử dụng các nguồn tư
liệu chủ yếu sau:
- Các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của Đảng,
các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị về lĩnh vực y tế, chăm sóc
sức khỏe nhân dân.
- Các chỉ thị, nghị quyết, nghị định của Chính phủ về lĩnh vực y tế, CSSKND.
- Các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang; các nghị quyết, chỉ thị
của Tỉnh ủy Hà Giang về phát triển sự nghiệp y tế; các văn bản của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Sở Y tế Hà Giang; sách chuyên khảo có liên quan
đến đề tài luận văn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ và cung cấp thêm những luận cứ quan
trọng trong việc thực hiện chủ trương CSSKND ở tỉnh Hà Giang, qua đó góp
11
phần khẳng định tính đúng đắn của đường lối, chủ trương CSSKND của Đảng
và Nhà nước trong tình hình hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong việc nghiên cứu và tuyên truyền giáo dục chăm sóc sức khỏe
ban đầu của nhân dân trong toàn tỉnh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tỉnh Hà Giang có ý
nghĩa hết sức sâu sắc trong giai đoạn hiện nay. Qua việc thực hiện đề tài này
sẽ cho chúng ta cái nhìn tồn diện, tổng thể về thực trạng cơng tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân cả nước nói chung, tỉnh Hà Giang nói riêng. Từ đó rút ra
những kinh nghiệm, đề ra nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao việc thực
hiện chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn được chia làm 3 chương, 7 tiết.
12
Chương 1
Q TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CƠNG TÁC CHĂM SÓC
SỨC KHỎE NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN CƠNG TÁC CHĂM SÓC SỨC KHỎE NHÂN DÂN CỦA TỈNH HÀ GIANG
TRƯỚC NĂM 2000
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến việc thực
hiện cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
- Về vị trí địa lý:
Hà Giang là tỉnh miền núi cao nằm ở cực Bắc Tổ quốc, phía Bắc giáp
các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây - Trung Quốc, phía Nam giáp tỉnh Tun
Quang, phía Đơng giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào
Cai. Diện tích tự nhiên là 7.884,37 km². Về tổ chức hành chính, hiện nay tỉnh
Hà Giang có 1 thành phố tỉnh lỵ (Hà Giang) và 10 huyện với 195 xã, phường,
thị trấn [78, tr.26].
- Về điều kiện tự nhiên:
Hà Giang với dải núi cao Tây Côn Lĩnh và cao nguyên Đồng Văn đã
tạo nên địa hình cao dần về phía Tây Bắc, thấp dần về phía Đơng Nam. Địa
hình chia cắt thành các tiểu vùng mang đặc điểm khác nhau về độ cao, thời
tiết khí hậu. Có thể chia thành 3 vùng lớn:
Vùng I là vùng cao núi đá gồm các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên
Minh, Quản Bạ và một số xã phía bắc huyện Vị Xuyên. Độ cao trung bình từ
1.000 - 1.600 m, gồm nhiều khu vực núi đá vơi nằm sát với chí tuyến bắc có
độ dốc khá lớn, thung lũng và sơng suối bị chia cắt nhiều. Vùng này có vùng
trũng Yên Minh, chủ yếu là đồi núi thấp có độ cao trung bình 500 - 700 m.
Vùng II là vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sơng
Chảy, gồm các huyện: Xín Mần, Hồng Su Phì, và một số xã của huyện Vị
13
Xuyên và Bắc Quang, thuộc dãy Tây Côn Lĩnh. Độ cao trung bình của vùng
từ 900 - 1.000 m, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và sông suối hẹp.
Vùng III là vùng núi thấp, vùng đồi núi, thung lũng sông Lô gồm thành
phố Hà Giang, huyện Bắc Mê và một số xã của huyện Vị Xuyên và huyện
Bắc Quang. Độ cao trung bình từ 50 - 100 m. Địa hình ở đây là đồi núi thấp,
thung lũng sơng Lơ càng xuống phía Nam càng được mở rộng.
Hà Giang mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng
của khí hậu lục địa Bắc Á Trung Hoa, có hai mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm,
mưa nhiều và mùa đơng lạnh, khơ hạn. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt thành
3 vùng nên khí hậu Hà Giang cũng hình thành 3 tiểu vùng khí hậu. Vùng cao
núi đá và vùng cao núi đất mang nhiều sắc thái của khí hậu ơn đới [78, tr.28].
- Về đặc điểm văn hóa, dân cư, dân tộc:
Với 23 tộc người cư trú, có những dân tộc ít người chỉ ở Hà Giang mới
có hoặc có nhiều hơn các tỉnh khác như dân tộc Pà Thẻn, Lơ Lơ, La Chí, Pu
Péo, Bố Y, Phù Lá... các dân tộc đều có nét văn hố truyền thống hết sức độc
đáo, vừa có bản sắc riêng nhưng lại có cái chung của cộng đồng các dân tộc.
Hà Giang là mảnh đất có truyền thống văn hố lâu đời, nơi giao thoa và cũng
là nơi hội tụ, kết tinh bản sắc văn hoá của các dân tộc tạo nên sắc thái văn hoá
riêng của Hà Giang - một bộ phận cấu thành bản sắc văn hoá Việt Nam đa
dạng mà thống nhất. Qua các cứ liệu khảo cổ học, các nhà khoa học đã xác
định Hà Giang là một trong những địa điểm lưu giữ những dấu vết văn hoá
thời tiền sử. Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã phát hiện 5 di chỉ có
dấu vết của người nguyên thuỷ thuộc thời đại Đá cũ, đó là các địa điểm: Đồi
Thơng, Lị Gạch II (thành phố Hà Giang), Cán Tỷ (Quản Bạ), Bó Khiếu và
Phó Bảng (Đồng Văn). Đặc biệt tại Hà Giang đã phát hiện 2 di tích hang động
là nơi cư trú của người Việt cổ, phát hiện răng của người vượn ở Đán Cúm và
Nà Chảo (huyện Bắc Mê). Trên những nét cơ bản của các di chỉ này có thể
khẳng định nơi đây chính là những điểm cư trú của người xưa. Những cư dân
14
cổ xưa ấy đã cư trú cả trên 2 loại địa hình khác nhau, điều kiện khác nhau: địa
hình đồi gị, thềm sơng, ngồi trời và địa hình núi đá vôi, hang động, mái đá...
Hà Giang được thiên nhiên ưu đãi với nền văn hoá lâu đời thuộc niên
đại đồ đồng Đơng Sơn, có các di tích người tiền sử ở Bắc Mê, Mèo Vạc. Đây
cũng là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thuộc vùng Đông Bắc sinh sống, có
nhiều phong tục tập qn, văn hố truyền thống và những lễ hội rất sinh
động cho phép Hà Giang trở thành nơi hấp dẫn du khách đến tham quan.
Bên cạnh đó, Hà Giang có cảnh quan mơi trường độc đáo của một tỉnh miền
núi với những dãy núi cao đá tai mèo ở phía Bắc và những cánh rừng bạt
ngàn ở phía Nam. Mạng lưới sơng suối luồn lách qua những đồi núi thấp
hình thành những hồ lớn vào mùa mưa tạo ra những điểm du lịch hấp dẫn
như hồ Noong. Do có nhiều núi đá vơi, nên ở đây có nhiều suối nước nóng
là những địa điểm lý tưởng cho khách du lịch đến tham quan. Hà Giang có
nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh mà ít nơi có được như Suối tiên,
Cổng trời, thác nước Quảng Ngần, khu Nậm má, khu Chum vàng, Chum bạc
và di tích nhà họ Vương…[79, tr.64-65].
- Về kinh tế - xã hội:
Thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, cùng với sự đổi mới của đất
nước, nền kinh tế của tỉnh Hà Giang đã đạt kết quả quan trọng. Kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao. Trong 5 năm (2005 - 2010), tốc độ tăng trưởng (GDP)
bình quân đạt 12,7%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đến
năm 2010, dịch vụ chiếm 39%; công nghiệp - xây dựng 29%; nông lâm
nghiệp 32%. Tiềm năng, lợi thế của từng vùng được khai thác hiệu quả, từng
bước gắn kết được sản xuất với chế biến, xây dựng thương hiệu sản phẩm và
thị trường tiêu thụ [79, tr.66].
Sản xuất công nghiệp bước đầu đã phát huy được một số tiềm năng. Nhiều
dự án thủy điện đã hoàn thành và phát điện lên lưới điện quốc gia như: thủy điện
Nho Quế 3; thủy điện Sông Chảy 5; thủy điện Sông Miện…
15
Cùng với công nghiệp, sản xuất nông nghiệp ở Hà Giang cũng có
chuyển biến. Tính đến năm 2010, tổng diện tích gieo trồng đạt 169.023,5 ha,
tổng sản lượng lương thực đạt 386,02 nghìn tấn. Chăn ni là một trong
những ngành sản xuất chính trong nơng nghiệp, đàn gia súc, gia cầm phát
triển. Việc quản lý con giống để nâng cao chất lượng và cải tạo cơ cấu đàn gia
súc, gia cầm được chú trọng [79, tr.75].
Lĩnh vực tài chính, thương mại - dịch vụ được đầu tư phát triển. Các
chợ biên giới từng bước được đầu tư xây dựng, do đó việc trao đổi hàng hóa
của dân cư vùng biên được thuận lợi hơn. Tỉnh Hà Giang đã quan tâm chỉ đạo
thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hóa, hàng hóa xuất nhập
khẩu qua các cửa khẩu đều tăng qua các năm.
Tài chính - tín dụng đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, đảm bảo huy
động các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và giải quyết tốt các
vấn đề an sinh xã hội.
Văn hóa - xã hội có bước phát triển. Hệ thống văn hóa thơng tin ngày
càng được đầu tư phát triển. Đã có 11/11 huyện, thành phố của tỉnh có trạm
thu phát lại truyền hình và đài truyền thanh FM. Tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt
98%, truyền hình đạt 92%, tỷ lệ được xem truyền hình đạt 84%, tỷ lệ số hộ có
ti vi đạt 62% [79, tr.93].
Sự nghiệp giáo dục đạt kết quả đáng kể. Năm 2010, Hà Giang đã
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Công tác xây dựng trường chuẩn
quốc gia được quan tâm chỉ đạo. Toàn tỉnh có 78 trường đạt chuẩn quốc gia
(trong đó: mầm non 26 trường, tiểu học 33 trường, trung học cơ sở 19
trường) [79, tr.97].
Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, 100% số xã có đường nhựa hoặc
đường bê tông đến trung tâm, trụ sở xã và trạm xá xã. Nhiều nơi đã xây dựng
nhiều bể treo chứa nước và bể nước gia đình phục vụ sinh hoạt cho đồng bào
ở các huyện vùng cao.
16
Tỷ lệ hộ đói nghèo trong tồn tỉnh giảm rõ rệt: nếu năm 1996, tỷ lệ số
hộ nghèo đói chiếm 35%, năm 2000, giảm xuống còn 30% và đến năm 2011
cịn 27,3% [79, tr.102].
Đó là những yếu tố thuận lợi góp phần vào những thành tựu to lớn về
mọi mặt của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang.
1.1.2. Tình hình thực hiện cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
của Đảng bộ Hà Giang trước năm 2000
Thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, trong lĩnh vực y tế, CSSNND
của tỉnh Hà Giang bước đầu đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Với
phương châm “đưa giường bệnh xuống cơ sở”, Tỉnh ủy chỉ đạo ngành Y tế Hà
Giang thực hiện tốt hơn việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Tỉnh chỉ
đạo ngành Y tế tổ chức sản xuất thuốc và mở rộng mạng lưới bán thuốc chữa
bệnh tại địa phương; đồng thời tích cực thực hiện tốt cơng tác y tế dự phịng.
Đến tháng 10/1990, tồn tỉnh có 71,5% số trẻ nhỏ trong độ tuổi được tiêm phòng
đủ 6 loại vắcxin phòng bệnh; đã tổ chức phun thuốc DDT phòng chống sốt rét ở
16 huyện, thị, điều trị sốt rét cho 3.973 người [78, tr.226].
Cùng với việc CSSKND, ngành Y tế Hà Giang cũng thực hiện tốt
chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Ngày 12/8/1991, tỉnh Hà Giang được tái lập sau 15 năm hợp nhất với
tỉnh Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên từ năm 1976 đến năm 1991. Sau khi
tái lập, Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ tốt hơn nữa việc CSSKND. Mạng lưới y tế từ tỉnh đến xã được củng
cố một bước, các cơ sở khám chữa bệnh từ bệnh viện tỉnh đến huyện được
xây dựng và trang cấp các trang thiết bị y tế.
Từ năm 1996 đến năm 2000, hệ thống tổ chức y tế của tỉnh Hà Giang
đã cơ bản được kiện toàn từ tỉnh đến thơn bản. Tồn tỉnh có 10 trung tâm y
tế huyện, thị xã, 9 bệnh viện huyện, 1 bệnh viện tỉnh, 21 phòng khám đa
khoa khu vực, 171 trạm y tế xã. Đội ngũ cán bộ - công chức y tế là 1.600
17
người trong đó có 227 bác sĩ. Các trạm y tế xã đều có nữ hộ sinh trung cấp
hoặc y sĩ sản nhi, 100% thơn bản có nhân viên y tế cộng đồng, 17 trạm y tế
xã có bác sĩ.
Mạng lưới khám chữa bệnh được triển khai ở cả ba tuyến (tỉnh, huyện,
xã) với 199 cơ sở, bao gồm 1.761 giường bệnh. Ngồi ra, tỉnh cịn có 70 cơ sở
hành nghề y dược tư nhân, 17 cơ sở khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền, 24
nhà thuốc.
Ngành Y tế đã tổ chức được các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ ở 130 xã và 20 phòng khám bệnh. Triển khai thực hiện
10 nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân và các chương trình y
tế quốc gia. Hơn 90% trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng. Các dịch bệnh
sốt rét, bướu cổ được khống chế. Dịch não mô cầu xảy ra tại 11/16 xã của
huyện Mèo Vạc được dập tắt kịp thời [78, tr.383].
Cán bộ ngành Y tế chủ động kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền
dân tộc để khám và chữa bệnh, tuyên truyền vệ sinh ăn, ở, phòng bệnh trong
nhân dân. Từ năm 1996 đến năm 2000, hệ thống tổ chức y tế của tỉnh Hà
Giang đã cơ bản được kiện toàn từ tỉnh đến thôn bản.
Để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, các cơ sở y tế từ tuyến tỉnh
đến các trung tâm y tế huyện, thị xã được xây dựng khang trang, sạch đẹp.
Các bệnh viện tỉnh, huyện đều được trang bị dụng, các thiết bị y tế kỹ thuật
cao như máy chụp chiếu X-Quang, máy siêu âm, điện tim, điện não đồ.
Lĩnh vực bảo hiểm y tế hoạt động ngày càng có hiệu quả. Việc khai
thác, phát hành thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) đã hỗ trợ được một phần kinh phí
cho hoạt động khám chữa bệnh của nhân dân.
Cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được đặc biệt quan tâm. Hoạt
động của mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình ngày càng phát triển. Đến
cuối năm 1995, tỉnh Hà Giang đã có 100% số xã, phường có Ban chỉ đạo thực
hiện cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình. Tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ
18
tuổi sinh đẻ thực hiện kế hoạch hóa gia đình ngày càng tăng, góp phần hạ tỷ lệ
tăng dân số từ 2,5% (1995) xuống còn 1,92% (2000) [78, tr.384].
Cùng với những kết quả đạt được, công tác CSSKND của Đảng bộ Hà
Giang trước năm 2000 vẫn còn một số hạn chế, yếu kém.
Cơng tác phịng, chống dịch bệnh chưa đáp ứng được yêu cầu, do nhận
thức của đồng bào còn hạn chế bởi phong tục, tập quán lạc hậu. Đội ngũ làm
cơng tác y tế dự phịng và chăm sóc sức khỏe ban đầu còn mỏng, vẫn tập
trung ưu tiên cho dự phòng bệnh truyền nhiễm và dịch bệnh nguy hiểm, chưa
chú trọng nhiều đến việc dự phòng các bệnh không lây nhiễm.
Hà Giang là một tỉnh miền núi, địa hình hiểm trở và có nhiều dịch bệnh
lưu hành như: sốt rét; bướu cổ, phong, lao, não mô cầu, suy dinh dưỡng và
các bệnh dịch theo mùa. Đặc biệt là tỷ lệ mắc các bệnh không lây nhiễm lại
gia tăng như: bệnh lý tim mạch, đột qụy, ung thư, đái tháo đường, bệnh phổi
mạn tính. Với diễn biến phức tạp của mơ hình bệnh tật, đã làm gia tăng đáng
kể nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế mà đặc biệt
là tại các bệnh viện nên đã dẫn đến tình trạng quá tải tại các bệnh viện. Việc
khám chữa, bệnh vượt tuyến vẫn ở mức độ cao do tâm lý của người bệnh ln
coi trọng uy tín, chun mơn, kỹ thuật của tuyến, chưa tin tưởng vào chuyên
môn, kỹ thuật của các y, bác sĩ tuyến cơ sở.
Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế còn thiếu và chưa đồng bộ, điển hình
là trang thiết bị một số bệnh viện khơng đầy đủ, hoặc chưa được thay thế, bổ
sung kịp thời, nên chưa đáp ứng được yêu cầu của tuyến điều trị.
Đội ngũ cán bộ y tế tuyến cơ sở, đặc biệt là tuyến huyện, số cán bộ có
trình độ chun sâu là người địa phương còn thiếu trầm trọng. Việc đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực y tế gặp nhiều bất cập, thậm chí có huyện khơng có
bác sĩ (huyện Xín Mần). Đời sống, thu nhập của bác sĩ tuyến cơ sở cịn nhiều
khó khăn; chế độ chính sách đối với cán bộ y tế tuyến cơ sở còn chưa hợp lý.
Do đó nhiều cán bộ y tế tuyến cơ sở xin chuyển côn tác lên tuyến trên hoặc bỏ
ra khu vực bệnh viện tư nhân làm việc.
19
Việc khám, chữa bệnh bằng BHYT còn nhiều yếu kém, đáng chú ý, do
thiếu thơng tin về chính sách Bảo hiểm y tế, nên tần suất khám, chữa bệnh bằng
Bảo hiểm y tế của người dân vùng cao, vùng sâu của Hà Giang còn thấp...
1.2. ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG VẬN DỤNG SÁNG TẠO QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC CHĂM SÓC SỨC KHỎE NHÂN DÂN (2000 - 2005)
1.2.1. Quan điểm của Đảng về chăm sóc sức khỏe nhân dân
Trong q trình đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đảng ta ln quan tâm đến chăm sóc sức khỏe nhân dân và gắn với
phát triển kinh tế với phát triển con người. Để nâng cao thể lực, sức khỏe
con người, tiếp tục thực hiện chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân
dân, nhằm giảm tỷ mắc bệnh. Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) xác định:
Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân
dân, nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và
phát triển giống nịi. Củng cố và hồn thiện mạng lưới y tế, đặc biệt
là mạng lưới y tế cơ sở. Xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu.
Đẩy mạnh sản xuất dược phẩm, bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đến
mọi địa bàn dân cư. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức
khoẻ; đổi mới cơ chế và chính sách viện phí; có chính sách trợ cấp và
bảo hiểm y tế cho người nghèo, tiến tới bảo hiểm y tế tồn dân. Nhà
nước ban hành chính sách quốc gia về y học cổ truyền. Kết hợp chặt
chẽ y học hiện đại với y học cổ truyền từ khâu đào tạo đến khâu khám
bệnh và điều trị. Phát động phong trào toàn dân tập luyện thể dục, thể
thao, nâng cao sức khoẻ và tầm vóc người Việt Nam; phổ biến rộng
rãi kiến thức về tự bảo vệ sức khoẻ [38, tr.107].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, ngày 19/6/2001, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 35-TTg phê duyệt chiến lược chăm sóc sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2010, trong đó nêu rõ mục tiêu: Phấn đấu để mọi
người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện
tiếp cận và sử đụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống
20
trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ
mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Chiến lược
đề ra mục tiêu cụ thể: đến năm 2010 tuổi thọ trung bình là 71 tuổi; giảm tỷ
suất chết mẹ xuống còn 70/100.000 trẻ đẻ sống; tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi
hạ xuống dưới 25% trẻ đẻ sống; tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 32%;
tỷ lệ trẻ mới đẻ có trọng lượng dưới 2.500g giảm xuống dưới 6%; tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 20%; có 4,5 bác sĩ và 1 dược
sĩ đại học/10.000 dân [68, tr.2].
Giảm tỷ lệ mắc và tử vong các bệnh truyền nhiễm gây dịch. Không
để dịch lớn xảy ra. Khống chế tới mức thấp nhất tỷ lệ mắc và chết của các
bệnh tả, thương hàn, sốt xuất huyết, sốt rét, dịch hạch, viêm gan B và viêm
não Nhật Bản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục... bệnh bại liệt tiếp
tục được thanh toán, bệnh uốn ván sơ sinh được loại trừ. Tốc độ gia tăng tỷ
lệ nhiễm bệnh Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV/AIDS) được
hạn chế.
Phòng chống và quản lý các bệnh không nhiễm trùng như bệnh tim
mạch, ung thư, tai nạn và thương tích, đái tháo đường, bệnh tâm thần, ngộ
độc, các bệnh do lối sống không lành mạnh mang lại (nghiện ma tuý, nghiện
rượu, béo phì...). Nâng cao tính cơng bằng trong việc tiếp cận và sử dụng các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt là các dịch vụ khám chữa bệnh. Nâng cao
chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở tất cả các tuyến y tế, trong các lĩnh
vực phòng bệnh, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng và nâng cao sức khoẻ.
Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để ngành y tế nước ta phát triển kịp
trình độ các nước tiên tiến trong khu vực.
Tiếp theo, ngày 07/12/2001, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
186/QĐ-TTg về phát triển kinh tế xã hội ở sáu tỉnh đặc biệt khó khăn miền
núi phía Bắc giai đoạn 2001-2005. Quyết định nêu rõ: Tiếp tục nâng cấp, cải
tạo và xây dựng các bệnh viện tuyến tỉnh như: Bắc Kạn, Lai Châu, Sơn La,
21
Hà Giang, nâng cấp bệnh viện tuyến huyện, các phòng khám đa khoa khu
vực, xây dựng trung tâm y tế vùng Tây Bắc; bổ sung thiết bị cho một số bệnh
viện, kiên cố hoá và chuẩn hoá 100% trạm y tế xã, cơ sở y tế ở Trung tâm
cụm xã và phòng khám đa khoa khu vực. Nhà nước đầu tư ngân sách thực
hiện miễn phí tồn bộ tiền khám, chữa bệnh tại các trạm y tế, trung tâm y tế,
bệnh viện cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với các hộ đói nghèo là đồng
bào dân tộc ở các xã vùng III, từ năm 2002 được khám, chữa bệnh miễn phí;
các cơ sở y tế sẽ thực thanh thực chi từ nguồn quỹ khám chữa bệnh cho người
nghèo do các tỉnh thành lập và Sở Y tế quản lý thực hiện. Mở lớp đào tạo bác
sĩ hệ chính quy cho đối tượng là người dân tộc thiếu số vùng II, vùng III. Có
chế độ phụ cấp phù hợp và thực hiện chính sách nhà ở cho cán bộ y tế cơng
tác tại các xã đặc biệt khó khăn trong vùng [69, tr.9].
Tiếp đó ngày 15/10/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 139/QĐ-TTg về khám chữa bệnh cho người nghèo: Theo quyết định này
các cơ sở khám, chữa bệnh nhà nước từ trạm y tế xã đến bệnh viện và viện có
giường bệnh tuyến Trung ương thực hiện chế độ khám, chữa bệnh cho người
nghèo. Đối tượng được hưởng chế độ khám, chữa bệnh gồm: người nghèo
theo quy định hiện hành về chuẩn hộ nghèo quy định tại Quyết định số
1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Trong đó có nhân dân các xã có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998
của Thủ tướng Chính phủ. Và nhân dân các dân tộc thiểu số tại 6 tỉnh đặc biệt
khó khăn của miền núi phía Bắc theo Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg ngày
07/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ [70, tr.4].
Để hồn thiện mạng lưới y tế đến cơ sở phục vụ công tác CSSKND ngày
22-1-2002, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 06-CT/TƯ về củng cố và hoàn
thiện mạng lưới y tế cơ sở. Chỉ thị nêu rõ những thành tựu và hạn chế của công
tác CSSKND từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII): Mạng lưới y
22
tế cơ sở từng bước được củng cố và phát triển. 100% số xã trong tồn quốc đã có
cán bộ y tế hoạt động; trên 50% trạm y tế xã có bác sĩ; trên 70% thơn, bản có
nhân viên y tế. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình mới, mạng lưới y tế cơ sở,
nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế: cơ sở vật chất thiếu
thốn, việc chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho nhân dân hết sức khó
khăn. Nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ vai trò và tầm
quan trọng của y tế cơ sở, chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức và đầu tư
chưa thỏa đáng để củng cố và phát triển mạng lưới y tế cơ sở [1, tr.1].
Trước tình hình đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu các cấp ủy
Đảng, các ngành, các đoàn thể quán triệt và thực hiện tốt những việc sau đây:
Một là, nhận thức đầy đủ về vai trò của y tế cơ sở và trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền.
Mạng lưới y tế cơ sở (gồm y tế thôn, bản, xã, phường, quận, huyện, thị
xã) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân được
chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện cơng bằng xã
hội, xố đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hố, trật tự an toàn xã hội,
tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các cấp uỷ đảng và chính quyền cần quán triệt, nhận thức rõ tầm quan
trọng đặc biệt của mạng lưới y tế cơ sở; có kế hoạch thiết thực để tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo việc củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở tại địa phương mình.
Hai là, củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất
lượng và hiệu quả của mạng lưới y tế cơ sở.
Củng cố tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của ban chăm
sóc sức khoẻ nhân dân ở cơ sở; tăng cường phối hợp liên ngành, lồng ghép
các chương trình, mục tiêu, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông - giáo
dục sức khoẻ; huy động cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động vệ sinh,
phịng bệnh, chăm sóc sức khoẻ, rèn luyện thân thể, tạo ra phong trào toàn
dân vì sức khoẻ.
23
Xây dựng và ban hành chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ nhân dân
miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào các dân tộc thiểu
số, nhằm cải thiện rõ rệt chất lượng chăm sóc sức khoẻ, góp phần nâng cao
đời sống nhân dân trong vùng.
Ngành Y tế có trách nhiệm phối hợp với các ngành liên quan xây dựng
chuẩn quốc gia về y tế cơ sở; nâng cao năng lực chuyên môn và y đức của các
cán bộ y tế; tăng cường các hoạt động giám sát và hỗ trợ kỹ thuật của y tế
tuyến trên đối với tuyến cơ sở, bảo đảm cho trung tâm y tế huyện, trạm y tế
xã, phường có đủ khả năng phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh theo tuyến
kỹ thuật, góp phần giảm tình trạng quá tải của các bệnh viện tuyến trên; phát
huy khả năng của y tế các lực lượng vũ trang trong việc kết hợp quân - dân y
để chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở cơ sở, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng
sâu, vùng xa, hải đảo; tổ chức tốt việc quản lý và phát huy vai trò của lực
lượng y tế ngồi cơng lập.
Ba là, tăng cường cán bộ và trang bị kỹ thuật cho mạng lưới y tế cơ sở.
Mở rộng các hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán
bộ y tế cơ sở, ưu tiên đào tạo cán bộ người dân tộc tại chỗ. Bảo đảm đủ chức
danh cán bộ cho trạm y tế, chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ y dược học cổ truyền. Phấn đấu đến năm 2010, 80% trạm y tế xã có bác sĩ,
100% thơn, bản có nhân viên y tế với trình độ sơ học trở lên. Có chính sách
đãi ngộ thích hợp để khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại trạm y tế xã,
phường, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; tăng cường trang thiết bị y
tế thích hợp cho y tế cơ sở.
Bốn là, có chính sách đầu tư thích hợp để củng cố và hồn thiện mạng
lưới y tế cơ sở.
Cần có kế hoạch điều chỉnh phân bổ ngân sách và huy động viện trợ
quốc tế để tăng đầu tư cho mạng lưới y tế cơ sở. Ðảm bảo kinh phí cho hoạt
động thường xuyên của trạm y tế xã, phường. Ưu tiên dành ngân sách để nâng
24
cấp y tế cơ sở ở các vùng khó khăn, nhất là các vùng trước đây là căn cứ cách
mạng. Tiến hành tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để đề ra các chính sách hỗ trợ
tài chính nhằm phát triển bảo hiểm y tế ở nông thôn, đặc biệt là bảo hiểm y tế
cho người nghèo, những người thuộc diện chính sách, trợ cấp xã hội và nơng
dân.
Năm là, nâng cao trách nhiệm của các ngành, đoàn thể trong việc củng
cố và hồn thiện mạng lưới y tế cơ sở.
Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân xây dựng và thực hiện kế hoạch củng cố mạng
lưới y tế cơ sở trong toàn quốc; xây dựng các văn bản pháp luật và chính sách
liên quan trình các cấp có thẩm quyền quyết định; có chính sách và biện pháp
cụ thể để hỗ trợ các địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn,
đồng bào các dân tộc thiểu số; tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện và
giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện, nâng cao
hiệu quả đầu tư [1, tr.1-3].
Tiếp đó tại Hội nghị lần thứ chín BCH Trung ương khóa IX (1/2004),
Đảng chủ trương làm tốt hơn nữa việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân
dân. Nghị quyết chỉ rõ:
Nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh việc phòng chống dịch bệnh, đặc
biệt là các dịch bệnh mới phát sinh; tiếp tục phát triển và hoàn thiện
hệ thống khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân (các
cơ sở y tế của Nhà nước và ngoài nhà nước), hệ thống bảo hiểm y
tế; hoàn thiện cơ chế, chính sách khám, chữa bệnh cho các đối
tượng, đặc biệt là đối tượng chính sách và bệnh nhân nghèo. Tăng
cường đầu tư để bảo đảm tự sản xuất được thuốc thiết yếu cho
phòng, chữa bệnh. Nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở
khám, chữa bệnh và y đức của các y, bác sĩ và nhân viên y tế. Đẩy
mạnh thực hiện xã hội hóa các hoạt động y tế [4, tr.203].
25
Tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của công tác CSSKND, ngày 23-22005, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 46-NQ/TƯ về cơng tác bảo vệ chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ 5 quan
điểm chỉ đạo đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân:
Một là, sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của tồn xã hội.
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực
tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một
trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho
lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ.
Hai là, đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu
quả và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Phát triển bảo hiểm y tế tồn dân, nhằm từng bước đạt tới cơng bằng trong
chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người
giầu với người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già; công
bằng trong đãi ngộ đối với cán bộ y tế.
Ba là, thực hiện CSSK tồn diện: gắn phịng bệnh với chữa bệnh, phục
hồi chức năng và tập luyện thể dục thể thao nâng cao sức khoẻ. Phát triển y tế
phổ cập và y tế chuyên sâu; kết hợp đông y và tây y.
Bốn là, xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe gắn với tăng cường
đầu tư của Nhà nước; thực hiện tốt việc trợ giúp cho các đối tượng chính sách và
người nghèo trong chăm sóc và nâng cao sức khỏe.
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân,
mỗi gia đình và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y
tế giữ vai trị nịng cốt về chun mơn và kỹ thuật. Khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu tư phát triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khỏe.