Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Đảng bộ thành phố hà nội lãnh đạo công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ địa phương từ năm 2000 đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.08 KB, 93 trang )

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chặng đường lịch sử hơn 80 năm từ khi thành lập, xây
dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến công tác
tư tưởng, lý luận. Một trong những nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận
là tổng kết công tác nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền và giáo dục lịch sử
Đảng. Ngày 24-1-1962, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương trực
thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng được thành lập có nhiệm vụ nghiên
cứu, biên soạn và tổng kết lịch sử toàn Đảng.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đạt được nhiều
kết quả quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trên hành trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn như:
sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, nhân quyền, dân chủ…
nhằm tiến hành “diễn biến hịa bình”, âm mưu gây bạo loạn, lật đổ. Nhiều
luận điệu sai trái, phản động xuyên tạc sự thật lịch sử được tung lên các
phương tiện thông tin đại chúng đã tác động không nhỏ đến tư tưởng cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Trong xã hội, xuất hiện một bộ phận cán bộ,
đảng viên dao động về tư tưởng, thối hóa về đạo đức, lối sống, thậm chí sa
ngã, biến chất và vi phạm pháp luật. Điều đáng báo động là một bộ phận
giới trẻ sống khơng có lý tưởng, lãng qn q khứ và không biết trân
trọng những truyền thống hào hùng, vẻ vang của dân tộc mà biết bao thế hệ
đã hy sinh xương máu qua hàng ngàn năm lịch sử để xây dựng đất nước
như hơm nay.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh công tác tư
tưởng, lý luận, nhất là công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng, để


2


khẳng định “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng và dân tộc ta. Công tác
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng phải được tiến hành một cách tồn
diện, có hệ thống từ Trung ương đến địa phương, nhằm làm rõ các chặng
đường lịch sử, hoạt động đấu tranh cách mạng của các cấp Đảng bộ. Từ
đó, nêu bật những thành tựu, chỉ ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm;
tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng của Đảng, bồi dưỡng lòng
yêu nước cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ Đổi
mới. Nhận thức rõ vị trí, vai trị và tầm quan trọng của công tác nghiên
cứu, biên soạn lịch sử Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, ngày
28/8/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 15 - CT/TW về
“Tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam” [3, tr.1].
Lịch sử Đảng bộ địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử toàn
Đảng, là biểu hiện sinh động và cụ thể của lịch sử toàn Đảng, minh chứng
cho lịch sử toàn Đảng bằng những sự kiện diễn ra trong quá trình phát triển
lịch sử ở địa phương. “Những bài học kinh nghiệm của lịch sử Đảng bộ địa
phương bổ sung vào kho tàng bài học kinh nghiệm chung của lịch sử toàn
Đảng” [69, tr.27]. Nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng bộ, ngoài việc đáp
ứng nhiệm vụ cách mạng của địa phương, còn làm sáng tỏ việc các Đảng
bộ địa phương vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ trương, đường lối của
Trung ương Đảng phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
mỗi địa phương. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc khẳng định đường
lối cách mạng của Đảng đúng đắn và khoa học. Công tác nghiên cứu, biên
soạn lịch sử Đảng bộ địa phương bao gồm công tác nghiên cứu, biên soạn,
xuất bản, tuyên truyền, giáo dục lịch sử các Đảng bộ; lịch sử truyền thống
các ban, ngành, đoàn thể.


3

Đối với Thành phố Hà Nội, việc nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng
bộ địa phương được hình thành đến nay đã được hơn 50 năm (1962 - 2014).
Trong thời kỳ đổi mới, nhất là sau khi có Chỉ thị số 15 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (năm 2002), Đảng bộ Hà Nội đã quan tâm lãnh đạo
đẩy mạnh công tác nghiên cứu, biên soạn và tuyên truyền lịch sử Đảng bộ
địa phương. Thực hiện sự lãnh đạo của Thành ủy và các cấp ủy, chính
quyền địa phương, cơng tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ trên địa
bàn Thành phố đạt được những kết quả quan trọng, song cũng chưa đáp
ứng thật tốt với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Nội dung biên soạn, phương pháp
triển khai, quy chế thẩm định, phối hợp xuất bản… cần được xem xét, đánh
giá một cách khách quan, toàn diện nhằm đưa ra những biện pháp hợp lý hơn
để góp phần nâng cao chất lượng công tác lịch sử Đảng trong thời gian tới.
Tổng kết sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội đối với công tác nghiên
cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương là việc làm cần thiết nhằm
khẳng định những thành tựu, chỉ ra hạn chế. Qua đó, kịp thời đề ra chủ
trương, giải pháp hợp lý nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, biên soạn
lịch sử Đảng bộ, thiết thực góp phần vào việc tổng kết cơng tác lịch sử
Đảng tồn quốc.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ Thành phố Hà
Nội lãnh đạo công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ địa
phương từ năm 2000 đến năm 2012” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác nghiên cứu, biên soạn và tuyên truyền lịch sử Đảng, lịch
sử Đảng bộ địa phương đã có một số tác giả và cơng trình nghiên cứu, đề
cập ở các khía cạnh khác nhau:
Bài viết, bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước:
- Trường Chinh (1963), Bài nói chuyện tại Hội nghị nghiên cứu



4
Lịch sử Đảng, ngày 27/12/1963, lưu trữ tại Viện Lịch sử Đảng.
- Trường Chinh(1985), Về công tác nghiên cứu Lịch sử Đảng (Một
số bài nói và viết, Viện lịch sử Đảng, lưu hành nội bộ.
- Trần Đình Hoan (2002), “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam là nhiệm vụ nặng nề, khó khăn nhưng rất vẻ vang”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (12).
- Trương Tấn Sang (2008), “Cần tạo ra những bước tiến mới trong
nghiên cứu, tuyên truyền, giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (3)…
Những bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
là những ý kiến chỉ đạo chung về công tác biên soạn lịch sử tồn Đảng.
Các cơng trình về cơng tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam và lịch sử Đảng bộ địa phương:
- Khổng Đức Thiêm (1999), Đổi mới công tác nghiên cứu, biên
soạn lịch sử Đảng bộ địa phương trong điều kiện hiện nay , đề tài nghiên
cứu khoa học cấp cơ sở, Viện Lịch sử Đảng, Học Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Tĩnh Khảm (2007), “Về đội ngũ cán nộ làm công tác lịch
sử Đảng ở địa phương”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).
- Phạm Đức Kiên (2008), Quan điểm và sự chỉ đạo của Đnảg đối
với công tác nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, đề
tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử Đảng (2008), Về phương pháp
nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam , Nhà
xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Hồng Thị Kim Thanh (2009), Khảo sát công tác nghiên cứu, biên
soạn lịch sử Đảng bộ các tỉnh, thành phố Nam bộ sau khi có chỉ thị 15



5
ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (2002 - 2008), đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Những cơng trình, bài viết của các tác giả chủ yếu xoay quanh vấn
đề viết lịch sử Đảng bộ địa phương, thực trạng tổ chức, đội ngũ cán bộ,
cơng tác nghiên cứu, biên soạn…Từ đó, đưa ra quy trình nghiên cứu, biên
soạn một cơng trình lịch sử Đảng bộ địa phương.
Một số bài viết, cơng trình nghiên cứu về công tác Lịch sử Đảng ở
các tỉnh, thành phố trong cả nước:
- Vũ Tiến Tuynh (2008), “Công tác chỉ đạo nghiên cứu, biên soạn
lịch sử Đảng ở thành phố Hà Nội”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7).
- Nguyễn Kim Chiến (2010), Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo đổi
mới công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương từ năm
1997 đến năm 2010, Luận văn thạc sỹ ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thành Tài (2010), Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận từ năm 1992 đến năm 2010, Luận văn thạc sỹ
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Huỳnh Văn Tới (2009), “Công tác biên soạn, xuất bản lịch sử ở
tỉnh Đồng Nai”, Tạp chí lịch sử Đảng, (6)...
Những cơng trình, bài viết bước đầu đề cập đến cơng tác nghiên
cứu, biên soạn lịch sử Đảng và sự lãnh đạo của các Đảng bộ các tỉnh, thành
trong việc chỉ đạo cơng tác lịch sử Đảng bộ địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác

nghiên cứu, biên soạn, xuất bản và tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng bộ,


6
lịch sử truyền thống địa phương.
- Tổng kết kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà
Nội trong việc lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, biên
soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống địa phương.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa các văn kiện, nghị quyết của Đảng và của Đảng bộ
Thành phố Hà Nội về công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ.
- Trình bày quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo công tác
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống các cấp.
- Khẳng định những kết quả, chỉ ra những hạn chế trong công tác
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống.
- Bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm của Đảng bộ Thành phố Hà
Nội trong việc lãnh đạo công tác nghiên cứu, biên soạn Lịch sử Đảng bộ,
lịch sử truyền thống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Luận văn tập trung nghiên cứu chủ trương của Trung ương Đảng,
Đảng bộ Thành phố Hà Nội về công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng
bộ địa phương.
- Quá trình chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền từ Thành phố đến cơ
sở nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu vấn đề trong phạm vi Thành phố Hà Nội, từ
năm 2000 đến năm 2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn

Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam


7
trong lĩnh vực nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ.
Ngoài ra, luận văn cũng dựa trên các văn bản liên quan đến công tác
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương, của Trung ương Đảng,
Nhà nước; các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo của thành phố Hà Nội đối với
công tác nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic; đồng
thời có sự kết hợp các phương pháp: đối chiếu, so sánh, thống kê tổng
hợp… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề cần đề cập.
Luận văn chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu các văn kiện Đại hội Đảng
cộng sản Việt Nam; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố; các chương
trình, kế hoạch; quyết định; báo cáo hàng năm của Thành ủy và các cơng
trình về nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ có liên quan.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn đã góp phần tập hợp và hệ thống hóa các chủ trương,
quan điểm của Trung ương Đảng và Đảng bộ Thành phố Hà Nội về công
tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương từ năm 2000 đến
năm 2012.
- Luận văn góp phần làm rõ hơn về nội dung, phương pháp và quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nâng cao chất lượng công tác
nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng ở Thành phố Hà Nội. Đồng thời,
phân tích đánh giá một cách khách quan, khoa học những thành tựu, hạn
chế và đúc kết một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố
Hà Nội chỉ đạo công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ địa
phương từ năm 2000 đến năm 2012. Từ đó góp phần làm sáng tỏ việc
thực hiện Chỉ thị số 15 CT/TW của Trung ương Đảng, của Đảng bộ

Thành phố Hà Nội, là cơ sở khoa học cho việc hoạch định phát triển
công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội


8
những năm tiếp theo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy lịch
sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống tại một số cơ sở đào tạo của Thành phố
Hà Nội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 9 tiết.


9
Chương 1
CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU, BIÊN SOẠN LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2007
1.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1.1. Vị trí địa lý, dân số và địa danh lịch sử
Hà Nội là vùng đất địa linh nhân kiệt, có bề dầy lịch sử nghìn năm văn
hiến. Nhân dân Hà Nội u chuộng hồ bình, thiết tha với độc lập tự do.
Ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Một tháng sau sự kiện vĩ
đại đó, ngày 17/3/1930, Đảng bộ Hà Nội được thành lập. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đảng bộ và nhân dân Hà Nội
nêu cao truyền thống đồn kết, phấn đấu khơng ngừng nghỉ trong cao trào
giải phóng dân tộc, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược góp phần giữ vững
non sơng bờ cõi, xây dựng phát triển Thủ đô.

Thực hiện Nghị quyết số 15 NQ/QH của Quốc hội, từ ngày 1-8-2008,
địa giới hành chính thành phố Hà Nội được mở rộng bao gồm tồn bộ diện
tích và dân số của tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã
Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung, Đơng Xn của huyện Lương Sơn, tỉnh
Hồ Bình. Với địa giới hành chính mới, khơng chỉ tiềm năng về đất đai,
con người mà còn những giá trị truyền thống của Thủ đô Hà Nội ngày càng
được phát huy trong công cuộc đổi mới [14, tr.8].
Hà Nội sau khi mở rộng địa giới hành chính, có tổng diện tích tự nhiên
là 3.344,60 km. Phía đơng thành phố Hà Nội là hai tỉnh Bắc Ninh và Hưng
Yên. Phía tây và tây bắc giáp tỉnh Hồ Bình và tỉnh Phú Thọ. Phía bắc là
tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Thái Nguyên. Phía nam giáp tỉnh Hà Nam. Dân số
của Hà Nội sau năm mở rộng địa giới hành chính là 6.537,9 ngàn người, cư
trú ở 10 quận nội thành: Ba Đình, Hồn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng,


10
Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Hoàng Mai, Long Biên, Hà Đông và 19
huyện, thị ngoại thành là: Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đơng Anh, Sóc
Sơn, Thường Tín, Phú Xuyên, Thanh Oai, Thạch Thất, Chương Mỹ, Ứng
Hoà, Mỹ Đức, Quốc Oai, Đan Phượng, Hồi Đức, Phúc Thọ, Ba Vì và thị
xã Sơn Tây [14, tr.12].
Hiện nay, địa bàn thành phố Hà Nội giữ vị trí phía tây vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Địa bàn thành phố thấp dần theo hướng tây bắc - đông nam và từ
tây sang đông. Hà Nội sau mở rộng là cầu nối trực tiếp với các vùng Tây
Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc và các tỉnh phía nam, có sơng Đà ở phía tây, sơng
Cầu, sơng Cà Lồ, sơng Cơng ở phía bắc. Sơng Hồng chảy qua địa bàn
thành phố mà phía bắc và phía đơng của dịng sơng có các huyện Mê Linh,
Sóc Sơn, Đơng Anh, Gia Lâm và quận Long Biên. Sông Tô Lịch, sông
Nhuệ, sông Đáy chảy qua giữa địa bàn thành phố. Các tuyến giao thông
đường bộ trước khi mở rộng địa bàn, như đường sắt Bắc Nam, đường quốc

lộ số 1, số 2, số 3, số 5, số 6, đường 11a (nay là đường 32) và hiện đang có
thêm các tuyến đường cao tốc, các tuyến đường vành đai, cùng các cây cầu
bắc qua sông Hồng... đã đưa Hà Nội vươn tới mọi miền của đất nước. Cảng
hàng không Quốc tế Nội Bài không chỉ đáp ứng yêu cầu bay trong nước mà
còn bay đến nhiều nước trên thế giới của thời mở cửa.
Trên địa bàn thành phố, với hai khu vực nội thành và ngoại thành. Khu
nội thành gồm 10 quận, đây là nơi mật độ dân số đông, là trung tâm chính
trị - hành chính của đất nước, với các cơ quan ban ngành của Trung ương
và thành phố, các cơ quan ngoại giao đóng trên địa bàn, là nơi kinh tế
thương mại - dịch vụ sầm uất [14, tr.20].
Khu vực ngoại thành gồm 19 huyện thị rộng lớn, đó là vùng núi đồi
trung du và vùng đồng bằng trù phú gồm các huyện: Mỹ Đức, Chương Mỹ,
Quốc Oai, Thạch Thất, thị xã Sơn Tây, Ba Vì, Mê Linh, Sóc Sơn thuộc


11
vùng trung du. Đây là các huyện cửa ngõ, liền kề với vùng rừng núi Tây
Bắc, Việt Bắc và Đông Bắc. Địa bàn các huyện này có cả núi đá, rừng, đồi
gò xen lẫn ruộng bậc thang và cả những cánh đồng trải rộng. Các huyện
phía bắc sơng Hồng gồm Mê Linh, Sóc Sơn là bậc thềm của vùng núi Tam
Đảo…[14, tr.20]. Các huyện, thị xã ngoại thành có các thế mạnh về sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp, du lịch… Sự kết hợp giữa
các quận nội thành và các huyện, thị ngoại thành Hà Nội tạo nên sức
mạnh tổng hợp về kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phịng của Thủ
đơ Hà Nội.
1.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Trong thời thực dân Pháp thống trị, Thi hành chính sách “chia để trị”,
thực dân Pháp chia nước ta làm 3 xứ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, sáp nhập
hai xứ Ai Lao và Cao Miên thành Liên bang Đơng Dương thuộc Pháp. Mỗi
xứ có thủ phủ riêng, có chế độ cai trị riêng. Thành phố Hà Nội là thủ phủ

của xứ Bắc kỳ [14, tr.40].
Q trình khai thác, bóc lột các nước thuộc địa Đông Dương, thực dân
Pháp đã biến Hà Nội từ một đô thị phong kiến, vốn là kinh đô của quốc gia
phong kiến Việt Nam độc lập trở thành một thành phố thuộc địa, không chỉ
là thủ phủ của xứ Bắc kỳ mà cịn là thủ phủ của tồn Liên bang Đông
Dương thuộc Pháp. Do vậy dưới chế độ thực dân phong kiến, trên vùng đất
Hà Nội mở rộng hiện nay, bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở thành phố và
bộ máy cai trị, bóc lột ở các tỉnh: Hà Đông - Sơn Tây - Phúc Yên - Bắc
Ninh lúc đó có những đặc điểm khác nhau.
Cùng với thiết lập bộ máy hành chính, q trình xây dựng bộ máy
thống trị ở Thành phố Hà Nội, thực dân Pháp tăng cường xây dựng hệ
thống chun chính như: Tịa án, lực lượng cảnh sát, mật thám, quân đội,
nhà tù... Tháng 12-1891, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định thành lập


12
lực lượng cảnh sát thành phố Hà Nội, bố trí ở hai khu: Hàng Đậu và Hàng
Trống do người Pháp đứng đầu. Lực lượng cảnh sát ở thành phố ngày một
tăng, đến năm 1938 lên tới 368 tên [14, tr.42].
Về quân sự, để bảo vệ Hà Nội, bên cạnh cơ quan chỉ huy tối cao của
chúng ở Đông Dương, thực dân Pháp thường xun có một lữ đồn lính
khố xanh do các sĩ quan Pháp chỉ huy để làm công cụ đàn áp.
Để bảo đảm cho sự cai trị, bóc lột và hệ thống thương nghiệp hoạt
động, chính quyền đã xây dựng Hà Nội thành một đầu mối giao thông, gồm
đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không và một đầu mối thông
tin liên lạc tới các địa phương, trong đó các tuyến đường 1, đường 5, đường
6, đường số 2, số 3 là rất quan trọng [14, tr.43].
Về công nghiệp, trên địa bàn thành phố, thực dân Pháp chỉ chú trọng
xây dựng một số nhà máy phục vụ sinh hoạt như: nhà máy điện Bờ Hồ,
điện Yên Phụ, nhà máy Rượu, nhà máy Bia, nhà máy Nước Đá, nhà máy

Nước, nhà máy Diêm; một số nhà máy cơ khí lắp ráp và sửa chữa chủ yếu
phục vụ giao thơng vận tải; một số xí nghiệp chế biến nhằm khai thác
nguyên liệu và nhân công tại chỗ, sản xuất những mặt hàng tiêu dùng
không cạnh tranh được với hàng hóa của nước Pháp. Cơng nghiệp bị kìm
hãm khơng phát triển được.
Trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, chúng duy trì phương thức
sản xuất phong kiến lạc hậu và hình thức bóc lột tiền tư bản chủ nghĩa
nhằm thu được nhiều lợi nhuận về những sản vật nông nghiệp và những
mặt hàng thủ cơng mỹ nghệ có giá trị, để chúng xuất khẩu kiếm được nhiều
lợi nhuận.
Cơ cấu kinh tế của Hà Nội mang tính chất chung của nền kinh tế
thuộc địa, một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sơ khai. Với cơ cấu kinh tế đó,
mục đích chủ yếu của thực dân Pháp là nhằm khai thác “của cải sẵn có của


13
Việt Nam”, dẫn đến tình trạng đất nước ta, nhân dân ta ngày càng xơ xác,
kiệt quệ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, từ 1954 - 1975, thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng, nền kinh tế có 2 thành phần chính là kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể. Từ 1965 đến 1975, là thời kỳ cả nước có chiến tranh, Hà Nội thực
hiện một nền kinh tế thời chiến, bao cấp. Kinh tế nơng nghiệp, cơng,
thương nghiệp bước đầu có sự phát triển, vừa phục vụ đời sống, vừa phục
vụ chiến đấu.
- Trong giai đoạn 1975 - 1985, thực hiện đường lối chung của Đảng
về cách mạng Xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân Hà Nội khắc
phục hậu quả chiến tranh, xây dựng quan hệ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Do nhiều yếu tố, như ảnh hưởng của chiến tranh, xuất phát điểm quá thấp,
cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, lại duy trì mơ hình kinh tế cũ, quan liêu bao
cấp quá lâu nên cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, nền

kinh tế của đất nước nói chung và kinh tế ở Hà Nội cũng rơi vào khủng
hoảng trầm trọng.
- Từ 1986 đến nay, Thành phố thực hiện chủ trương đổi mới tồn diện
của Đảng, Hà Nội đã có những bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện.
1.1.3. Truyền thống văn hóa, cách mạng
1.1.3.1. Truyền thống văn hóa
Với diện tích 3.344,60 km 2 trên phạm vi 29 quận, huyện, thị xã, địa
bàn thành phố Hà Nội từ xưa đã là nơi sinh tụ của người Việt cổ - những
người sáng tạo ra nền văn minh sông Hồng rực rỡ.
Các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều di tích khảo cổ, minh chứng về cư
dân người Việt lập nghiệp ở hầu khắp các huyện thị thuộc khu vực ngoại
thành Hà Nội. Phía bắc sơng Hồng là các huyện: Mê Linh, Sóc Sơn, Đơng
Anh, vùng hội tụ những di tích của người Việt cổ khi họ xuống vùng đồng


14
bằng Bắc Bộ khai phá sình lầy, lau sậy, góp phần xây dựng nền văn minh
lúa nước sông Hồng… Vào các năm 1972, 1983, 1984, các nhà khảo cổ đã
khai quật phát hiện được nhiều dấu vết văn hoá vật chất thuộc giai đoạn
Đồng Đậu và Gò Mun.
Giai đoạn văn hố Đơng Sơn phát triển rực rỡ ở hầu khắp các huyện
phía hữu ngạn sơng Hồng, phân bố nhiều dọc theo sơng Đáy, sơng Tích.
Đặc trưng của văn hố Đơng Sơn của người Việt cổ trên địa bàn Hà Nội
mở rộng ngày nay là kỹ thuật chế tác đồng mà đỉnh cao là trống đồng,
cùng tập tục mai táng độc đáo “quan tài” được làm bằng thân cây khoét
rỗng, có hình giống chiếc thuyền. Bên cạnh việc phát hiện những ngơi mộ
cổ ở Châu Can (huyện Phú Xun) có niên đại khoảng cuối thế kỷ III đến
thế kỷ II trước Cơng ngun, các nhà khảo cổ cịn phát hiện 26 trống đồng
thời Đông Sơn, như: Trống Phú Xuyên, trống Sơn Tây, trống Hồng Hạ,
trống Phú Duy, trống Miếu Mơn, trống Phương Tú, trống Đồng Trúc,

trống Bình Đà, trống Tùng Lâm... [14, tr.31]. Trống đồng Đơng Sơn tìm
thấy trên địa bàn thành phố Hà Nội đều là trống loại I Heger. Điều đó
chứng tỏ vùng đất Hà Nội mở rộng thời các Vua Hùng là q hương của
nền văn hố Đơng Sơn, nơi cư dân sinh sống đã làm ra và sử dụng rộng
rãi trống đồng.
Bản sắc văn hóa dân tộc ở vùng đất Hà Nội còn thể hiện trong các
bia ký trong những cơng trình kiến trúc cổ ở cả khu vực nội thành và các
làng xã ngoại thành. Đó là những ngơi đình, chùa, qn, miếu, với những
mảng hoa văn trạm trổ, đắp vẽ tinh xảo thể hiện tài hoa nghệ thuật kiến trúc
của cư dân Hà Nội. Ngay ở khu vực hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận,
phủ Phụng Thiên ngày trước, có những ngơi đình, chùa, đền miếu có tiếng
như: Đền Bạch Mã, đền Ngọc Sơn, đền Bà Kiệu, đền vua Lê, đền Hai Bà,
đền Quán Thánh (đền Trấn Vũ), chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa và


15
tháp Báo Thiên, chùa Quán Sứ, chùa Quan Thượng, đình Quảng Văn, đình
Trâu Khê (cịn gọi đền Nội)... Ở các huyện, thị ngoại thành có nhiều ngơi
đình, chùa cổ nổi tiếng như: chùa Báo Ân, chùa Vĩnh Phúc, chùa Phúc
Long... (huyện Mê Linh); đình Chu Quyến và đình Tây Đằng (Ba Vì), chùa
Mía (thị xã Sơn Tây), chùa Trăm Gian, chùa Trầm (Chương Mỹ), chùa
Thầy và đình Ngọc Than (Quốc Oai), chùa Bối Khê (Thanh Oai), chùa Đậu
(Thường Tín)... Câu chuyện về “đẹp đình So - to đình Cấn” từng vang mãi
trong dân gian ở vùng đất Xứ Đoài [14, tr.31]. Nghệ thuật tạo hình cịn thể
hiện ở nhiều làng nghề như gốm Bát Tràng, đúc đồng Ngũ Xá, tiện (Nhị
Khê), đồ thờ và tượng phật ở Sơn Đồng, ở Dân Hòa...
1.1.3.2. Truyền thống chống ngoại xâm
Truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, nhân dân Hà Nội khơng
chỉ có câu chuyện về “chàng Dóng” ở làng Phù Đổng - huyện Gia Lâm
đánh giặc Ân ở đời Hùng Vương thứ 6, mà xét trên thực tế, vùng đất Hà

Nội thực sự tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của dân tộc. Bởi lẽ kinh thành
Thăng Long là mục tiêu đánh chiếm hàng đầu của phong kiến phương Bắc
trong các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Cuộc khởi nghĩa năm 791 do Phùng Hưng, một hào trưởng ở đất
Đường Lâm cùng hai em là Phùng Hãi, Phùng Dĩnh lãnh đạo chống lại ách
đô hộ của nhà Đường vào cuối thế kỷ thứ VIII, là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu
của phong trào đấu tranh giành độc lập thời Bắc thuộc. Cuộc khởi nghĩa
của Ngô Quyền năm 938 với việc trừng trị kẻ phản bội là Kiều Cơng Tiễn,
sau đó làm nên trận thuỷ chiến Bạch Đằng Giang, Ngơ Quyền đã hồn
thành trọn vẹn quá trình giành quyền tự chủ của dân tộc, chấm dứt thời kỳ
nghìn năm Bắc thuộc, mở đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài và phát
triển rực rỡ của đất nước Đại Việt ở kinh thành Thăng Long trên nhiều
phương diện.


16
Đất nước giành quyền tự chủ, truyền thống đoàn kết đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của cư dân người Việt trên vùng đất Hà Nội tiếp tục được
phát huy dưới các triều đại Lý - Trần - Lê. Ở các triều đại này, dưới sự lãnh
đạo của những anh hùng dân tộc, thiên tài chính trị kiệt xuất như Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... cư dân Hà Nội cùng
với nhân dân cả nước đã chiến đấu ngoan cường lập nên những chiến công
hiển hách.
Thế kỷ XV được coi là thời kỳ phát triển thịnh đạt của quốc gia
phong kiến Đại Việt. Nhưng ở thế kỷ XVI và giữa thế kỷ XVIII những
cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế lực phong kiến đã làm cho cuộc
sống của nhân dân cực khổ mọi bề. Vùng đất Thăng Long cũng là mục tiêu
tấn công của nhiều phong trào nông dân nổi dậy chống phong kiến quý tộc
quan liêu. Nhiều địa phương ở khu vực Hà Nội, nhân dân phối hợp với
quân khởi nghĩa của Thân Lợi, Phạm Sư Ôn, Trần Tuân, Trần Cao... đấu

tranh chống các thế lực quan lại hủ bại, thối nát, góp phần làm suy yếu chế
độ phong kiến đã lỗi thời. Đỉnh cao của truyền thống yêu nước của cư dân
vùng đất Hà Nội biểu hiện rực rỡ trong chiến thắng xuân Kỷ Dậu 1789 do
Nguyễn Huệ - lãnh tụ của phong trào nông dân Tây Sơn chỉ huy đã quét
sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi đất nước [14, tr.37].
Đấu tranh chống cường quyền gắn với đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đưa quân đánh chiếm Bắc kỳ. Trong
hai lần đánh chiếm thành phố Hà Nội (1873 và 1882), thực dân Pháp đều
vấp phải sức kháng chiến quyết liệt của nhân dân Hà Nội và bị tổn thất
nặng nề.
Tiếng súng kháng chiến cuối thế kỷ XIX vừa dứt, những năm đầu thế
kỷ XX, nhân dân các dân tộc trên địa bàn thành phố lại tiếp tục hồ nhập
cùng phong trào u nước có tính dân tộc - dân chủ do các nhà nho yêu


17
nước khởi xướng. Phong trào Đông Du và Việt Nam quang phục hội đã ảnh
hưởng mạnh mẽ, có cơ sở ở nhiều vùng. Hai phong trào này có hai khuynh
hướng khác nhau. Việt Nam quang phục hội chủ trương tổ chức lực lượng
đánh đuổi giặc Pháp. Đông kinh nghĩa thục theo hướng cách tân dân chủ
làm cho dân giàu nước mạnh có điều kiện khơi phục nền độc lập.
Trong những năm 1930 - 1945, cùng với việc ra sức củng cố, phát
triển tổ chức, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân Hà Nội đấu tranh ủng hộ Xô
viết Nghệ Tĩnh và phong trào đấu tranh dân chủ 1936 - 1939; phong trào
đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền 1939 - 1945.
Tháng 8 - 1945, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân Hà Nội chớp thời cơ,
cùng nhân dân cả nước, đứng lên đánh đổ chính quyền thực dân, phong
kiến, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), thực hiện
đường lối của Đảng, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng

chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, góp phần cùng quân dân cả nước đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), vận dụng
đường lối của Đảng vào điều kiện cụ thể của Thành phố, Đảng bộ đã lãnh
đạo nhân dân thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam; vừa sản xuất, vừa chiến
đấu, đồng thời tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam. Cùng với việc
tiến hành cải cách ruộng đất (1955 - 1956), cải tạo và phát triển kinh tế văn hóa, xã hội (1958 - 1960), củng cố quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa và xây dựng hợp tác xã nông nghiệp (1961 - 1965), phong trào xây
dựng “3 ngọn cờ hồng”…, Đảng bộ là cái nôi phát động nhiều phong trào
lớn của miền Bắc như: “tay liềm, tay súng”, “tay búa, tay súng”, “Thanh
niên 3 sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “thóc khơng thiếu một cân, qn


18
khơng thiếu một người”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt”… Trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ, Đảng bộ Hà Nội đã động viên sức người, sức của
góp phần to lớn vào thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Từ năm 1975 đến 1986, Đảng bộ Hà Nội đã lãnh đạo nhân dân tiến
hành khôi phục kinh tế sau chiến tranh, từng bước tìm tịi đổi mới, cùng
qn dân cả nước đánh thắng 2 cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và
phía Nam Tổ quốc. Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đản bộ lãnh đạo nhân dân Hà Nội từng bước
xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện chuyển sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thu được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng.
1.1.3.3. Về tơn giáo
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước nên thành
phần dân cư là các dân tộc ít người về sinh sống, làm việc, xây dựng gia
đình ngày một tăng. Theo điều tra của Ban Dân tộc thành phố, năm 2009,

tổng số dân cư thuộc thành phần dân tộc ít người có 58.631 người, thuộc 33
dân tộc anh em chiếm tỷ lệ 0,9% so với dân số tồn thành phố, trong đó
đồng bào Mường đơng nhất, có 44.360 người, chiếm 0,7% so với tổng số
dân cư.
Về tôn giáo, hiện nay trên địa bàn thành phố có 7 tơn giáo được cơng
nhận tư cách pháp nhân, đó là: Phật giáo, Cơng giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi
giáo, đạo Bahai và Minh sư đạo. Trong đó đạo cơng giáo có một Tồ Tổng
Giám mục ở số 40 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, một Toà Giám mục
của Giáo phận Hưng Hoá ở phường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây. Tồn thành phố
có 79 giáo xứ, 362 họ giáo, khoảng trên 170.000 tín đồ [14, tr.29].
Đồng bào các dân tộc và tôn giáo sinh sống trên địa bàn thành phố,
bên cạnh truyền thống văn hóa, những bản sắc riêng cịn có chung truyền


19
thống đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, lao động sản xuất, đặc
biệt là truyền thống đấu tranh chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm, chống
cường quyền áp bức.
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,
Đảng bộ Hà Nội phát triển và lớn mạnh không ngừng, tiếp tục lãnh đạo
nhân dân Thủ đô thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
1.2. LÃNH ĐẠO CƠNG TÁC NGHIÊN CỨU, BIÊN SOẠN LỊCH SỬ
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ TRƯỚC NĂM 2000

1.2.1. Về xây dựng tổ chức bộ máy
Năm 1960, Trung ương Đảng chọn Hà Nội làm điểm để xây dựng cơ
quan nghiên cứu lịch sử Đảng ở địa phương để rút kinh nghiệm mở rộng ra
các tỉnh, thành… Ngày 4/6/1960, tiểu ban nghiên cứu lịch sử Đảng của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội được thành lập, do đồng chí Trưởng ban tuyên

huấn phụ trách, lúc đầu Tiểu ban có hai cán bộ [19, tr.22].
Thực hiện Thông tri số 91-Ttr/TW ngày 18/2/1962 về việc thành
lập Ban nghiên cứu lịch sử Đảng ở các khu, thành, tỉnh. Tháng 3/1964,
Ban thường vụ Thành uỷ Hà Nội ra Nghị quyết số 23-NQ/TU thành lập
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng bộ Hà Nội trực thuộc Thành uỷ Hà Nội,
do đồng chí Trần Sâm, Phó bí thư Thường trực Thành uỷ kiêm trưởng
ban; tiếp đến là đồng chí Nguyễn Bá Đốn, Uỷ viên Ban thường vụ,
Trưởng ban tuyên huấn kiêm Trưởng ban; phó trưởng ban là đồng chí
Nguyễn Quang Tuân. Bộ máy của ban nghiên cứu lịch sử Đảng Hà Nội
được củng cố theo hướng của một cơ quan nghiên cứu khoa học gồm:
Tổ cách mạng dân tộc dân chủ; Tổ cách mạng xã hội chủ nghĩa; Tổ
nghiên cứu Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhân vật lịch sử; Tổ tư liệu và
Văn phòng.


20
Thực hiện Thông tri số 11-TT/TW, ngày 19 - 8 - 1987 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về sắp xếp lại tổ chức bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước
và các đoàn thể; ngày 19/5/1988, Ban thường vụ Thành uỷ Hà Nội ra Quyết
định số 11-QĐ/TU chuyển Ban nghiên cứu lịch sử Đảng thành tổ, đến nay
là phòng nghiên cứu lịch sử Đảng thuộc Ban tuyên giáo Thành uỷ với 7 cán
bộ làm công tác Lịch sử Đảng [19, tr.27].
Phòng lịch sử Đảng là một bộ phận của Ban tun giáo Thành uỷ có
Nhiệm vụ của phịng là: tham mưu giúp Thành uỷ ban hành các văn bản chỉ
đạo về công tác lịch sử Đảng, đồng thời kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn công
tác tổ chức, nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng bộ các cấp, lịch sử
ngành, đồn thể chính trị Thành phố. Ngồi ra phịng còn xác minh, thẩm
định những địa danh, sự kiện, nhân vật lịch sử trong các phong trào cách
mạng ở thủ đơ Hà Nội từ khi có Đảng. Tham mưu, bồi dưỡng nghiệp vụ
công tác nghiên cứu sưu tầm, biên soạn lịch sử Đảng cho cán bộ Ban tuyên

giáo các quận, huyện, Sở, ban, ngành, Mặt trận tổ quốc và các đồn thể
chính trị; thẩm định nội dung, đóng góp ý kiến bản thảo lịch sử Đảng bộ
quận, huyện, ngành đoàn thể trước khi xuất bản. Phối hợp tuyên truyền
công tác giáo dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhất là
thế hệ trẻ. Theo dõi vấn đề liên quan đến lịch sử Đảng và lịch sử Thành phố
Hà Nội; Tham gia đóng góp ý kiến về nội dung, cung cấp tư liệu, phối hợp
trưng bày bảo tàng, nhà lưu niệm, nhà truyền thống các di tích lịch sử cách
mạng kháng chiến của Thành phố.
Xác định bộ máy cán bộ là lực lượng chủ yếu để làm công tác lịch sử
Đảng ở địa phương, Ban Thường vụ Thành ủy, Ban Tun giáo ln có sự chỉ
đạo kiện tồn đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu Lịch sử Đảng ở các
cấp, các ngành, các địa phương, cơ sở trong toàn thành phố, theo hướng tinh
gọn, đủ số lượng. Ở các quận, huyện, thị xã nhất thiết phải có cán bộ chun
trách cơng tác Lịch sử Đảng.


21
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác lịch sử Đảng,
hàng năm thành phố đã gửi cán bộ đi đào tạo chuyên sâu ở các trường đại học
hoặc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, bổ sung cán bộ tốt nghiệp đại
học các trường Khoa học xã hội nhân văn, Sư phạm, lớp Tuyên giáo nguồn
chuyên ngành sử đạt loại khá giỏi về làm công tác lịch sử Đảng. Ban Tuyên
giáo Thành ủy kết hợp với Viện Lịch sử Đảng mở các lớp bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác Lịch sử Đảng ở quận, huyện,
thị xã, MTTQ và các đoàn thể, các sở, ngành của thành phố.
1.2.2. Về công tác nghiên cứu, biên soạn
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần IV, V, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ VI,VII, VIII, IX và Thơng tri
số 91-TT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa III). Ban Nghiên cứu
Lịch sử Đảng Hà Nội tập trung vào các nội dung: Tổ chức và tiến hành sưu

tầm, khai thác, xác minh những tài liệu, văn kiện về lịch sử Đảng bộ địa
phương. Nghiên cứu, biên soạn những vấn đề thuộc về lịch sử địa phương,
tiến tới từng bước biên soạn toàn bộ lịch sử đấu tranh của Đảng bộ địa
phương; Tham gia ý kiến, cung cấp tài liệu; Giúp cấp ủy địa phương tổng
kết những vấn đề cần thiết thuộc về lịch sử Đảng bộ; Phối hợp, giúp đỡ các
cơ quan, đơn vị trong sưu tầm, khai thác, xác minh tài liệu, trao đổi ý kiến
thuộc về lịch sử Đảng bộ địa phương, góp phần nghiên cứu lịch sử chung
của tồn Đảng… Phục vụ tốt việc xây dựng con người mới. Xây dựng các
nhà bảo tàng, giữ gìn và tu sửa các di tích lịch sử. Hồn chỉnh tư liệu đặc
biệt là các tư liệu về thời kỳ kháng chiến chống mỹ; xây dựng một số tượng
- đài kỷ niệm [4, tr.17].
Để nâng cao chất lượng cơng trình nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng
bộ, Đảng bộ thành phố tiến hành đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, đề
ra chủ trương, kế hoạch, nhiệm vụ, chỉ tiêu phù hợp để phấn đấu; nâng cao


22
chất lượng đội ngũ cán bộ, làm tốt công tác khai thác tư liệu và đổi mới công
tác nghiên cứu, biên soạn.
Dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ Hà Nội, từ năm 1964 đến năm 1989,
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Hà Nội, biên soạn và xuất bản các cuốn: Hồi ký
Hà Nội khởi nghĩa (tập 1, 2); Cuộc vận động cách mạng tháng Tám ở Hà Nội;
Bác Hồ với cán bộ và nhân dân Hà Nội; Cuộc kháng chiến chống Thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ ở Hà Nội (1945 - 1954); Phấn đấu trở thành Thủ đô xã
hội chủ nghĩa (1984); Tổ chức Thành uỷ từ ngày thành lập đến năm 1954 và
Các kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1986); Hà Nội tháng 12 năm
1972! Hãy nhớ lấy; Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội năm (1930-1954),
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1954 - 1975), Lịch sử Đảng bộ Thành
phố Hà Nội (1975 - 2000). Cùng với việc biên soạn, Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng đã tham mưu giúp Thành uỷ tổ chức nhiều hội thảo khoa học nhân các

dịp kỷ niệm: 15 năm, 25 năm chiến thắng Điện Biên Phủ trên khơng, 30 năm
giải phóng Thủ đơ, 40, 50 năm cách mạng tháng Tám ở Hà Nội, 40, 50, 60
năm Hà Nội mở đầu toàn quốc kháng chiến, 70 năm cách mạng tháng mười
Nga, 90, 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ đạo giúp các quận,
huyện, ngành, biên soạn, xuất bản lịch sử [26, tr.91].
Công tác tư liệu lịch sử Đảng bộ cũng luôn được Thành ủy quan tâm
chỉ đạo làm tốt. Thực hiện sự chỉ đạo của Thành ủy, đến nay nhiều đơn vị đã
lưu giữ được các nguồn tài liệu phong phú, đã xây dựng được nhiều nội qui
bảo quản tư liệu chặt chẽ. Việc khai thác tư liệu ở các kho lưu trữ ngày càng
khoa học, đảm bảo nguyên tắc, đúng thủ tục. Các tài liệu được phân loại theo
nội dung và cấp độ, như: Tài liệu mật, tài liệu tuyệt mật, tài liệu được công
bố, tài liệu chỉ được đọc, ghi chép, tài liệu được chép in, sao, phô tô…
Công tác quản lý, khai thác tư liệu gắn với công tác lưu trữ được Thành ủy
quan tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn. Ngày càng có nhiều đơn vị, cán bộ chuyên


23
làm công việc lưu trữ, bảo quản tài liệu, phục vụ tốt công tác nghiên cứu,
biên soạn.
Bộ phận tư liệu của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành phố Hà Nội
trước đây nay là Phòng Lịch sử Đảng đã quản lý và đưa vào khai thác với
khối lượng lớn và phong phú tư liệu thành văn, chỉnh lý, dịch thuật và lên
danh mục hàng nghìn trang tài liệu.
Ban Thường vụ Thành ủy cũng đã đề ra quy định cụ thể trong việc
xuất bản sách lịch sử Đảng ở địa phương. Lịch sử Đảng bộ cấp nào do cấp
đó chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn, Phòng lịch sử Đảng sẽ chịu trách
nhiệm thẩm định nội dung trước khi xuất bản.
1.2.3. Công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống
lịch sử cách mạng
Trong những năm qua nhằm giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân

học tập, hiểu rõ truyền thống đấu tranh của Đảng bộ, Thành ủy đã chỉ đạo
Ban Tuyên giáo các quận, huyện, thị xã và các sở, ban, ban ngành của
thành phố đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục. Do đó, đã nâng cao
lịng tin tưởng, niềm tự hào cách mạng, phát huy thắng lợi, khắc phục khó
khăn, chung sức xây dựng Thủ đơ ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Hàng năm các quận, huyện, thị ủy, MTTQ và các đoàn thể tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 15 của Ban Bí thư, tuyên truyền lịch sử Đảng bộ,
lịch sử truyền thống trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và quần
chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ và học sinh trong các trường học nhân
các ngày lễ kỷ niệm lớn; đưa chương trình dạy – học lịch sử địa phương
vào các cấp phổ thông để học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử dân tộc, lịch sử
phát triển Thủ đô Hà nội. Các phương tiện truyền thông như: Báo Hà Nội
mới; Đài phát thanh truyền hình Hà Nội mở các chuyên mục góp phần
tuyên truyền lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống cách mạng nhằm phục
vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo phục vụ các nhiệm vụ chính trị của


24
Thành phố Hà Nội.
Ngành Giáo dục đào tạo của Thành phố Hà Nội có kế hoạch để
đưa nội dung lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống vào giảng dạy trong
nhà trường nhằm tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng cho học
sinh. Việc giáo dục truyền thống lịch sử thường được lồng ghép vào các
ngày lễ kỷ niệm hàng năm với nhiều hình thức, nội dung lịch sử ngắn,
gọn, dễ hiểu để cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và nhất là đồn
viên, thanh niên Thủ đơ hiểu rõ truyền thống văn hiến của Hà Nội.
1.3. CHỦ TRƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC
NGHIÊN CỨU, BIÊN SOẠN LỊCH SỬ ĐẢNG VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ
NỘI LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2007


1.3.1. Khái niệm, mối quan hệ giữa lịch sử Đảng bộ địa phương
và lịch sử toàn Đảng
1.3.1.1. Một số khái niệm
Để tìm hiểu quan hệ giữa lịch sử Đảng bộ địa phương và lịch sử
toàn Đảng, trước hết cần hiểu lịch sử Đảng bộ địa phương, lịch sử tồn
Đảng là gì.
Lịch sử tồn Đảng, được hiểu là “q trình ra đời và phát triển của
Đảng Cộng sản Việt Nam theo những quy luật chung của xã hội loài người
và những quy luật đặc thù của Việt Nam” [69, tr.18]. Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm lịch sử của xã hội Việt Nam, là bộ phận của xã hội Việt
Nam; đồng thời xã hội Việt Nam là môi trường sống và hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Địa phương, trong nghiên cứu lịch sử Đảng bộ địa phương mang một
nội hàm khá rộng, “không chỉ bao gồm các khu vực hành chính mà cả
những đơn vị cơng tác có tính chất ổn định, chuyên ngành” [ 69, tr.203]. Ở
đây, giới hạn khái niệm “địa phương” để chỉ một đơn vị hành chính dưới
cấp trung ương, gồm tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường, xã có địa bàn


25
lãnh thổ hiện tại, được nhà nước hoạch định.
Đảng bộ địa phương, “không đơn thuần là các Đảng bộ theo hệ
thống hành chính mà là các Đảng bộ dưới Trung ương thuộc hệ thống tổ
chức của Đảng” [69, tr.23]. Hệ thống tổ chức của Đảng ta gồm có Trung
ương là đại diện cho toàn Đảng; các Đảng bộ địa phương; một số Đảng bộ
đặc biệt do Điều lệ Đảng hoặc Ban chấp hành Trung ương Đảng quy định
như các Đảng bộ trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, Đảng bộ
các khối công tác (tuyên giáo, công nghiệp, nơng nghiệp, văn hóa…).
Trong lịch sử tồn Đảng, Đảng bộ địa phương chủ yếu là các Đảng bộ Xứ,
Liên khu, khu; tỉnh, thành phố; huyện quận, thị xã; xã, phường, thị trấn.

Lịch sử đảng bộ địa phương, tại Hội nghị nghiên cứu Lịch sử Đảng
năm 1963 ở Hà Nội, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng
Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương phát biểu: “Lịch sử Đảng bộ địa
phương là lịch sử đấu tranh của toàn thể đảng viên trong địa phương dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương” [33, tr.1]. Lịch sử Đảng bộ
địa phương là sự hình thành, phát triển của một tổ chức Đảng ở địa
phương, là bộ phận của lịch sử toàn Đảng.
1.3.1.2. Quan hệ lịch sử toàn Đảng với lịch sử Đảng bộ địa
phương
Quan hệ giữa toàn Đảng và Đảng bộ địa phương là “quan hệ giữa
một tổng thể và những bộ phận cấu thành tổng thể đó” [69, tr.26]. Lịch sử
toàn Đảng quy định phương hướng, nội dung cơ bản của tồn bộ q trình
lịch sử Đảng bộ địa phương. Lịch sử toàn Đảng là lịch sử của quá trình
lãnh đạo cách mạng - cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng
xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Vì vậy, lịch sử của bất kỳ Đảng bộ địa
phương cũng đều là lịch sử của q trình Đảng bộ địa phương đó lãnh đạo
việc tổ chức thực hiện hai cuộc cách mạng trên phạm vi địa bàn hoạt động.


×