Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Kinh tế tư nhân ở tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.74 KB, 98 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta đã trải qua gần 3 thập niên, đã
giành được những thắng lợi về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, an ninh
quốc phịng, tạo thế vững chắc để nước ta vững bước trên con đường xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của
nhân dân. Trong thắng lợi to lớn có tính chiến lược đó phải kể đến tác động
của chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và quan điểm,
chính sách đối với kinh tế tư nhân nói riêng, từ đó tạo nền tảng và căn cứ để
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm đổi mới vừa qua, kinh tế tư nhân là
một vấn đề vẫn còn gây tranh luận nhiều, liên quan đến những vấn đề chính
trị - xã hội như định hướng xã hội chủ nghĩa, bóc lột và bị bóc lột, phân hóa
giàu nghèo, v.v.. Tuy nhiên, với sự nhất quán trong đường lối đổi mới của
Đảng, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tơn trọng sự thật, nói đúng
sự thật, cùng với sự nỗ lực của các nhà lý luận, các nhà quản lý và sự hưởng
ứng của toàn dân, cho tới nay, kinh tế tư nhân đã phát triển và trở thành một
lực lượng kinh tế quan trọng, góp phần vào cơng cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong những năm trở lại đây, nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương
5 (khóa IX) ngày 18/3/2002 về “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, kinh tế tư nhân của Việt
Nam đã có nhiều bứt phá rất đáng ghi nhận. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh
kéo theo hàng loạt những động thái tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội
như: thúc đẩy đầu tư tài chính, mang đến nguồn vốn con người và khả năng
sáng tạo cho các doanh nhân; tạo ra nhiều việc làm và những cơ hội mới; tăng
thu nhập xã hội, tạo nên thị trường sơi động và có sức cạnh tranh hơn...


2


Cùng xu hướng phát triển đó, trong thời gian qua kinh tế Kiên Giang đã
có những thay đổi nhanh chóng: cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ
theo xu hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng ngành nông nghiệp; các cụm cơng nghiệp liên tiếp được hình thành; mơi
trường đầu tư khơng ngừng được quan tâm; đặc biệt cùng với chính sách
chung của cả nước, tỉnh Kiên Giang rất quan tâm đến sự phát triển của kinh tế
tư nhân và trên thực tế, kinh tế tư nhân đã khẳng định được vai trị của nó và
có những đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của tỉnh.
Tuy nhiên, không chỉ thấy mặt tích cực của kinh tế tư nhân mà khơng
thấy mặt hạn chế, tiêu cực của nó, đó là năng lực kinh tế cịn nhỏ bé, trình độ
cơng nghệ và quản lý kinh doanh phần lớn còn yếu kém, sức cạnh tranh còn
yếu, còn nhiều tiêu cực trong kinh doanh.
Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế
tư nhân chưa được làm rõ để có sự thống nhất cao. Một số cơ chế,
chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư
nhân đại bộ phận có quy mơ nhỏ và vừa; quản lý có phần bng
lỏng và có nhiều sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát
triển đúng hướng [7, tr.56].
Trước tình hình đó, rất cần thiết phải nghiên cứu thực trạng “Kinh tế
tư nhân ở tỉnh Kiên Giang”, đánh giá đúng sự phát triển và những đóng góp
to lớn của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như
những hạn chế của nó. Để trên cơ sở đó tìm ra giải pháp phù hợp thúc đẩy
kinh tế của tỉnh phát triển là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhìn một cách khái quát, phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong quá
trình đổi mới kinh tế ở nước ta được nhiều nhà khoa học quan tâm, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết đăng tải trên nhiều tạp chí, sách, báo.
Các văn kiện của Đảng, Nhà nước nói đến rất nhiều trong đường lối phát triển
kinh tế nhiều thành phần, cụ thể như sau:



3
PGS, TSKH Trần Nguyễn Tuyên, Đảng viên làm kinh tế tư nhân thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2010. Tham khảo tài liệu
này ta thấy nhóm tác giả đã phân tích cơ sở khoa học của vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân. Phân tích thực trạng đảng viên làm kinh tế tư nhân ở Việt Nam
hiện nay. Trên cơ sở đó đã đưa ra định hướng những giải pháp mang tính định
hướng cho việc đảng viên làm kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
TS Vũ Thị Bạch Tuyết, Con đường nào cho kinh tế tư nhân của Việt Nam
hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Tài chính, 2003. Tác giả đánh giá thực trạng kinh
tế tư nhân, từ đó đề xuất giải pháp tháo gỡ vướng mắc cho nền kinh tế.
PGS, TS Trịnh Thị Hoa Mai, Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình
hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2005. Tác giả đề cập đến vấn đề phát triển
kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập, các loại hình doanh nhiệp tư nhân,
vốn thực tế của doanh nghiệp tư nhân như thế nào, số lượng doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam hiện nay...
PGS, TS Hồ Văn Vĩnh, Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân ở nước ta, Đề tài cấp Bộ, 2001. Tác giả đã khẳng định vai trò
to lớn của kinh tế tư nhân, nêu ra những định hướng phát triển kinh tế tư nhân
và những định hướng về chính sách, pháp luật, tổ chức để khuyến khích kinh
tế tư nhân phát triển.
Trần Ngọc Bút, Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002. Trong đó tác giả trình bày các ý kiến
cần thảo luận, cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế nhiều thành phần,
quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam đến những năm đầu đổi mới
và tình hình kinh tế tư nhân hiện nay, vai trò cũng như hạn chế của kinh tế tư
nhân và phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trần Thị Mộng Trinh, Kinh tế cá thể, tiểu chủ trên địa bàn quận 10,
thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2010. Tác giả hệ thống hoá những vấn đề lý



4
luận và thực tiễn liên quan đến phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ; phân tích
thực trạng và đánh giá quá trình phát triển kinh tế tại quận 10; và đề xuất, kiến
nghị hệ thống giải pháp để phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trên địa bàn đến
năm 2015.
Lê Anh Dũng, Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện
Kim Thành, tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ Kinh tế nông nghiệp, Đại học
Nông nghiệp Hà Nội, 2008. Tác giả đánh giá tình hình và kết quả phát triển
kinh tế tư nhân ở huyện Kim Thành, nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển
của thành phần kinh tế này, từ đó đề xuất giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
trên địa bàn huyện trong những năm tới.
Võ Thị Xinh, Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy
sản ở Kiên Giang, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh 2000. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
vai trò kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang. Đánh giá thực
trạng kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang trong quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta. Tìm ra những vấn đề cần giải quyết để kinh tế tư nhân
phát huy năng lực của nó. Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy
năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang.
Và cịn khá nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan. Tuy nhiên, những
cơng trình nghiên cứu ở phạm vi và mức độ khác nhau khi phân tích vai trị và
thực trạng của kinh tế tư nhân để tìm ra những giải pháp hữu hiệu. Song chưa
có cơng trình nào nghiên cứu kinh tế tư nhân ở tỉnh Kiên Giang dưới góc độ
kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn phân tích, khẳng định rõ hơn vai trị kinh tế tư nhân, làm luận
cứ khoa học cho việc đề xuất những phương hướng giải pháp phát huy năng lực

của nó trong phát triển kinh tế ở tỉnh Kiên Giang.


5
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế tư nhân.
- Đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân ở Kiên Giang trong thời gian qua.
Tìm ra những vấn đề cần giải quyết để kinh tế tư nhân phát huy năng lực của nó.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy năng lực kinh tế tư
nhân ở Kiên Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là kinh tế tư nhân với tư cách là
một thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt nam, hoạt động trên địa bàn cấp tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Kinh tế tư nhân vận động và phát triển trên phạm vi rộng dưới nhiều
hình thức. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của các cơ
sở kinh tế tư nhân có đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch đầu tư của tỉnh
Kiên Giang.
Về thời gian: phân tích thực trạng giai đoạn từ năm 2005 đến 2012 và
đề xuất giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin;
đường lối, quan điểm cùng những tổng kết kinh nghiệm của Đảng về chính
sách kinh tế nhiều thành phần; các cơng trình nghiên cứu khoa học khác có
nội dung gần gũi với đề tài làm cơ sở lý luận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng những phương pháp của bộ mơn kinh tế chính trị Mác Lênin. Đó là phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgic với lịch sử,



6
kết hợp lý luận với thực tiễn, đồng thời khảo sát thực tế, phân tích tổng hợp,
so sánh, khái quát hóa...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để phát triển kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Luận văn vận dụng những lý luận chung vào việc giải quyết một vấn
đề cụ thể và địa bàn cụ thể là làm rõ vai trò của thành phần kinh tế tư nhân ở
Kiên Giang.
- Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp để phát huy năng lực kinh tế
tư nhân ở Kiên Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách, và quản lý của Nhà nước để phát huy vai trò và năng lực của kinh tế
tư nhân trong phát triển kinh tế ở Kiên Giang, cũng có thể dùng làm tài liệu
nghiên cứu, tham khảo trong cơng tác giảng dạy, học tập ở trường chính trị tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. KINH TẾ TƯ NHÂN, BẢN CHẤT, VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN

1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế tư nhân.

Kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh tế tư nhân
với tư cách là biểu hiện cụ thể của sở hữu tư nhân trong điều kiện là quan hệ
sản xuất thống trị.
Chế độ tư hữu với tư cách là đối lập với chế độ sở hữu công cộng,
tập thể, chỉ tồn tại ở nơi nào mà tư liệu lao động và những điều kiện
bên ngoài của lao động thuộc về tư nhân. Nhưng tuỳ theo những tư
nhân đó là người lao động hay là người khơng lao động mà tính chất
của chế độ tư hữu cũng thay đổi [20, tr.1057].
Ở đây C.Mác đã phân biệt rõ ràng hai loại chế độ tư hữu rất khác nhau
mà khoa Kinh tế chính trị đương thời hay lẫn lộn đó là: Sở hữu tư nhân dựa
vào lao động của bản thân chủ sở hữu và sở hữu tư nhân của người không lao
động - sở hữu tư bản chủ nghĩa. C.Mác viết:
Khoa kinh tế chính trị lẫn lộn về nguyên tắc hai loại chế độ tư hữu
rất khác nhau, trong đó một loại dựa trên lao động của bản thân
người sản xuất, cịn một loại thì dựa trên sự bóc lột lao động của
người khác. Nó quên rằng loại thứ hai này không những là cái đối
lập trực tiếp với loại thứ nhất, mà còn chỉ mọc trên nấm mồ của loại
thứ nhất mà thôi [20, tr.1061].
Loại thứ nhất: sở hữu tư nhân dựa vào lao động của bản thân chủ sở
hữu, tức là
Quyền tư hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất của mình
là cơ sở của nền sản xuất nhỏ… Phương thức sản xuất đó địi hỏi sự


8
xé lẻ ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác… Nó chỉ thích hợp với
những giới hạn tự nhiên chật hẹp của sản xuất và của xã hội mà
thôi… Đến một trình độ nhất định thì phương thức sản xuất đó lại
đẻ ra những phương tiện vật chất để thủ tiêu bản thân nó [20, tr.57].

Với trình độ này, những người cộng sản khơng cần phải xóa bỏ, bởi
chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của nền đại cơng nghiệp cơ
khí đã hàng ngày, hàng giờ xóa bỏ nó rồi, Mác nói “cái mà người cơng nhân
chiếm hữu được bằng lao động của mình cũng chỉ đủ để tái sản xuất ra đời
sống đã bị hạ xuống đến mức thấp mà thôi” và “chúng tôi tuyệt nhiên khơng
muốn xóa bỏ sự chiếm hữu cá nhân ấy về những sản phẩm cần thiết để tái sản
xuất ra sự sống ngày mai. Vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một quyền lực chi
phối lao động của người khác” [19, tr.168].
Loại thứ hai, dựa trên sự bóc lột lao động của người khác đó là sở hữu
tư nhân của người không lao động - sở hữu tư bản chủ nghĩa.
Việc tước đoạt những người sản xuất trực tiếp được thực hiện với
một sự phá phách tàn nhẫn nhất và dưới sự thúc đẩy của những dục
vọng thấp hèn nhất, bẩn thiểu nhất, nhỏ nhen nhất và điên rồ nhất.
Chế độ tài sản tư hữu có được nhờ lao động của bản thân, có thể nói
là dựa trên sự gắn liền người lao động cá thể, độc lập, với những
điều kiện lao động của người đó, đã bị thay thế bằng chế độ tư hữu
tư bản chủ nghĩa dựa trên sự bóc lột lao động của người khác,
nhưng về hình thức là một lao động tự do [20, tr.1058].
Vì vậy ơng khẳng định: “Điều chúng tơi muốn là xóa bỏ tính chất bi
thảm của cái phương thức chiếm hữu nó khiến cho người cơng nhân chỉ sống
để làm tăng thêm tư bản và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của
giai cấp thống trị địi hỏi” [19, tr.618]. Đồng thời các ông cũng khẳng định:
không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được, cũng như không thể làm
cho lực lượng sản xuất tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng


9
một nền kinh tế cơng hữu, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân là do quy luật khách
quan trong q trình phát triển của xã hội lồi người quyết định. C.Mác viết:
Dĩ nhiên, việc biến chế độ tư hữu phân tán dựa trên cơ sở lao động

của bản thân và các cá nhân thành chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là
một quá trình lâu dài, gian khổ và đau đớn hơn nhiều so với việc biến
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thực tế đã dựa trên một quá trình sản
xuất xã hội, thành chế độ sở hữu xã hội. Ở kia là một số ít kẻ tiếm đoạt
đi tước đoạt quần chúng nhân dân, còn ở đây là quần chúng nhân dân
đi tước đoạt một số ít những kẻ tiếm đoạt [20, tr.1060].
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong điều kiện vừa
mới giành được chính quyền, đặc biệt là ngay khi nội chiến chấm dứt vào
năm 1921, V.I.Lênin đã chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần và là người đầu tiên đề cập tới kinh tế tư nhân với tư cách là một trong
những thành phần kinh tế cấu thành của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội và việc sử dụng kinh tế tư nhân thơng qua thực hiện chính
sách kinh tế mới (NEP).
Từ buổi đầu thi hành chính sách kinh tế mới Lênin đã kêu gọi chính
quyền Xơ viết cần sử dụng mọi biện pháp làm sống động sự giao lưu giữa
công nghiệp với nông nghiệp theo phương thức lưu thông, trao đổi hàng hoá.
Lênin nhấn mạnh:
Trong lĩnh vực này, người nào thu được nhiều kết quả nhất, dù là
bằng con đường kinh tế tư bản tư nhân, thậm chí khơng phải bằng
con đường hợp tác xã, không trực tiếp biến chủ nghĩa tư bản ấy
thành chủ nghĩa tư bản nhà nước, thì người đó sẽ giúp ích cho cơng
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong toàn bộ nước Nga nhiều hơn
những kẻ chỉ ngồi “lo lắng” đến sự thuần tuý của chủ nghĩa cộng
sản [17, tr.280-281].
Ông cho rằng: ở một mức độ nào đó chủ nghĩa tư bản là khơng thể
tránh khỏi và tương ứng với nó vẫn cịn sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân.


10
“Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt

so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình
trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên” [17, tr.276]. Trong tình
trạng kinh tế - xã hội nước Nga lúc đó có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư
nhân để xúc tiến chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng một khi chủ nghĩa tư bản
phục hồi mà “tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự
trao đổi tư nhân…là một sự dại dột và tự sát…đảng nào định thi hành một
chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản” [17, tr.267]. Ơng cịn nhấn mạnh:
Một khi chủ nghĩa tư bản phục hồi và phát triển thì chính sách hợp lý, đúng
đắn nhất “khơng tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà
nước” [17, tr.267-268].
Theo Lênin các thành phần thuộc kết cấu kinh tế - xã hội thời đó bao
gồm: "Nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;
Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nơng dân bán lúa mỳ);
Chủ nghĩa tư bản tư nhân; Chủ nghĩa tư bản nhà nước; Chủ nghĩa xã hội” [17,
tr.284]. Trong đó nơng dân cũng như những người sản xuất nhỏ nói chung,
vừa là người lao động, vừa là người tiểu tư hữu, vừa là người đầu cơ, còn
thành phần kinh tế tư bản tư nhân có đặc trưng cơ bản là dựa trên quan hệ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sử dụng sức lao động làm thuê. Nhà tư bản
với tư cách là chủ sở hữu sẽ chiếm đoạt giá trị thặng dư, cịn cơng nhân với tư
cách là chủ sở hữu sức lao động, chỉ được nhận tiền cơng. Đương nhiên trong
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự quản lý của chính quyền Xơ
viết, kinh tế tư nhân khơng hồn tồn giống kinh tế tư nhân dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, nhưng chiếm đoạt giá trị thặng dư vẫn là bản chất cố hữu của
kinh tế tư bản tư nhân. Bởi vì: Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ,..., vì chúng ta chưa có điều
kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội,..., bởi vậy


11

chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu
sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên” và “sử dụng chủ nghĩa tư bản tư
nhân là để xúc tiến cho chủ nghĩa xã hội" [17, tr.281].
Như vậy, bằng phương pháp biện chứng, duy vật về lịch sử các nhà
kinh điển đã phân tích, đánh giá bản chất và vai trò quan trọng của kinh tế tư
nhân cũng như những hạn chế của nó trong q trình phát triển kinh tế - xã
hội, đồng thời các ông cũng chỉ ra sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong một
giai đoạn nhất định là tất yếu khách quan và cần thiết.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân.
Trong báo cáo sửa đổi hiến pháp trước quốc hội, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: trong thời kỳ quá độ nước ta nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất:
- Sở hữu nhà nước tức sở hữu toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của các nhà tư bản.
- Ở đây, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mục tiêu của chế độ ta là thiết lập
"chế độ sở hữu toàn dân và tập thể”, nhưng đó là một q trình lâu dài: “Chủ
nghĩa xã hội không thể làm mau được, mà phải làm dần dần”.
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” Hồ chí Minh viết: “trong chế
độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A. Kinh tế quốc doanh (Thuộc Chủ nghĩa xã hội vì nó là của chung
tồn dân).
B. Cá Hợp tác xã (nó là nữa chủ nghĩa xã hội vì nó sẽ tiến lên chủ
nghĩa xã hội).
C. Kinh tế cá nhân, nông dân và thợ thủ cơng (có thể tiến dần vào
hợp tác xã, tức nửa chủ nghĩa xã hội).
D. Tư bản tư nhân.



12
E. Tư bản nhà nước.
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn
cả. Cho nên kinh tế nước ta phải phát triển theo hướng chủ nghĩa xã
hội chứ không theo hướng tư bản chủ nghĩa [21, tr.248].
Một điều đáng lưu ý trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là người có
quan điểm khách quan, rộng rãi với kinh tế tư bản tư nhân trong nước. “Còn
giai cấp tư sản ở nước ta thì họ có xu hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu
nước…Vì tư sản nước ta họ bị Tây, Nhật áp bức, khinh miệt, họ căm tức tư
sản Nhật, Pháp, cho nên, nếu mình thuyết phục khéo, họ có thể hướng theo
chủ nghĩa xã hội” [22, tr.227]. Trong lời kêu gọi nhân ngày thủ đơ giải phóng,
Người đã nói với ngoại kiều:
Các bạn, người buôn bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, cơng
nhân và trí thức, đã chung sống với nhân dân Việt nam. Các bạn đã
khai cơ lập nghiệp ở Việt nam. Những hoạt động chính đáng về kinh
tế và văn hố của các bạn cũng có lợi cho Việt nam. Vì vậy tơi
khun các bạn: các bạn cứ n lịng làm ăn như thường. Nhân dân
và chính phủ Việt nam sẽ giúp đỡ và bảo hộ các bạn [21, tr.361].
Có thể thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ kinh tế
chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nhằm phát triển
lực lượng sản xuất; “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là xây dựng một
nền tảng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội…phải cải tạo nền kinh tế cũ và
xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Vì
vậy Người đã chủ trương phát triển tất cả các loại hình kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, trong đó bao gồm cả kinh tế tư nhân.
* Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tư nhân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta khẳng định chủ
chương chiến lược sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mơ và trình độ
khác nhau để giải phóng, phát triển sức sản xuất xã hội, trong đó có kinh tế tư



13
nhân. Cụ thể hoá một bước quan trọng tư tưởng cơ bản này, Nghị quyết lần thứ
sáu Ban chấp hành trung ương khố VI đã khẳng định: Chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và thể hiện tinh thần dân chủ kinh tế.
Theo tinh thần đó, tư nhân được phép kinh doanh không hạn chế về quy mô và
địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật khơng cấm.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII (1991) Đảng ta đã khẳng định rõ
quyết tâm thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Tại hội
nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương khố VII, Đảng ta đã thơng qua
nghị quyết về nhiệm vụ và giải pháp ổn định phát triển kinh tế - xã hội. Nhằm
phát huy mạnh mẻ tiềm năng lợi thế của các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế nước ta. Hội nghị đã tập trung bàn về kinh tế ngoài quốc doanh, đưa ra
một số chủ trương, biện pháp lớn để phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, trong
đó đặc biệt nhấn mạnh: Phát triển kinh tế hộ cá thể, tư nhân trong trong nông
nghiệp là một chính sách nhất quán, lâu dài trong thời kỳ quá độ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đường lối phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã được bổ sung thêm bằng những nhận
thức mới của Đảng ta trong việc xác định rõ các thành phần kinh tế cấu thành.
Trong đó, kinh tế tư nhân đã được Đảng ta xác định là thành phần kinh tế có
vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Với quan niệm đó trên thực tế, Đảng và
nhà nước ta cố gắng tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà đầu
tư tư nhân yên tâm làm ăn lâu dài, bảo đảm sự bình đằng về quyền và nghĩa
vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và các nhân không phân biệt thành
phần kinh tế. “Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm
ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định phát
triển kinh tế tư nhân là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài trong nền kinh tế
quốc dân. Trong báo cáo chính trị ghi rõ:



14
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan
trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển…khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân rộng rãi trong những ngành sản
xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân
phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư
ra nước ngoài [5, tr.89].
Đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX (18/3/2002) - Nghị quyết về
tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân đã khẳng định rằng: kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân
là một khu vực kinh tế, là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân và việc phát triển kinh tế tư nhân được coi là vấn
đề chiến lược dài hạn trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc
tế [8, tr.57-58].
Đại hội X, XI Đảng ta tiếp tục chủ trương hoàn thiện cơ chế chính sách để
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.
Như vậy, từ Đại hội VI trở đi, nhận thức của Đảng ta về kinh tế tư nhân
và vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng rõ, phạm vi hoạt động ngày càng
được mở rộng: từ cho phép trong sản xuất quy mô nhỏ, trong lĩnh vực thương
mại, dịch vụ tới không hạn chế về quy mô, lĩnh vực, địa bàn hoạt động… Như
vậy có thể nói kinh tế tư nhân đã thừa nhận là một bộ phận cấu thành hữu cơ
quan trọng của nền kinh tế ở nước ta. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có
tầm chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


15
* Quan niệm của các học giả trong nước và ngồi nước.
Hiện nay trong giới nghiên cứu đang có nhiều cách lý giải khác nhau về
kinh tế tư nhân: Có người cho rằng kinh tế tư nhân đồng nghĩa với kinh tế
tư bản tư nhân. Có người đồng nhất kinh tế tư nhân với kinh tế ngoài quốc
doanh. Như vậy, theo họ một doanh nghiệp hay một công ty sẽ được coi là
ngoài quốc doanh nếu như tư nhân làm chủ trên 50% cổ phần. Niên giám
tổng cục thống kê vẫn thường dùng khái niệm “ngoài quốc doanh”, mặt
khác, niên giám thống kê năm 2008 dùng khái niệm “kinh tế ngồi nhà
nước”. Theo đó tổng cục thống kê đã xếp các loại doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, ngoài nhà nước gồm có: tập thể, tư nhân, cá thể, hỗn hợp. Riêng
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi lại được tách riêng. Quan điểm khác lại
cho kinh tế có 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng nằm trong kinh tế tư nhân
(nếu thuộc sở hữu tư nhân).
Như vậy chưa có sự thống nhất chung nên vẫn có thể hiểu khái niệm
kinh tế tư nhân qua hai cấp độ:
+ Theo cấp độ khái quát nhất: kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm
ngoài quốc doanh (ngoài kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp
trong và ngoài nước, trong đó tư nhân sở hữu trên 50% cổ phần.
+ Theo cấp độ hẹp hơn: Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân.
Ở Trung quốc, khái niệm kinh tế tư nhân được sử dụng theo nhiều
nghĩa, với nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn: khu vực phi nhà nước, khu
vực phi nông nghiệp, khu vực tư nhân, khu vực tư nhân trong nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân…văn kiện Đảng Cộng sản Trung quốc lần thứ XVI, gọi
là kinh tế dân doanh.
Ở nước ta, Hội nghị trung ương 5 (khoá XI) cho rằng: Kinh tế tư nhân

gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình
thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Chúng


16
đều thuộc hình thức sở hữu tư nhân, tương ứng với nó là hình thức kinh doanh
gắn liền trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trên cở sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan niệm của chủ tịch
Hồ Chí Minh, của các học giả trong nước và ngoài nước, cùng với thực tiễn
kinh nghiệm mà Đảng ta đã tổng kết qua các kỳ đại hội, Tác giả luận văn
thống nhất với quan niệm của Đảng ta về nội hàm kinh tế tư nhân. Có thể
định nghĩa như sau: Kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (hoặc vốn) của một hay nhiều chủ. Các chủ
thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh vì lợi ích trực tiếp của cá
nhân, trên cơ sở những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc quyền của họ, bao gồm
nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng và hoạt động theo quy định của
pháp luật.
1.1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân
Bản chất chung của kinh tế tư nhân chính là sở hữu tư nhân. Dù là kinh
tế cá thể, tiểu chủ hay kinh tế tư bản tư nhân thì giữa chúng cũng có điểm
chung là đều dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và về các
nguồn lực sản xuất.
Nghiên cứu bản chất của kinh tế tư nhân được xem xét trên ba mặt của
quan hệ sản xuất: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; Quan hệ tổ chức và
quản lý sản xuất; Quan hệ phân phối.
Thứ nhất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Kinh tế tư nhân dựa trên
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, song mỗi một loại hình kinh tế khác nhau
có mức độ và phạm vi khác nhau.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất, đó là hình thức sở hữu của những người lao động tự do, sản

xuất ra sản phẩm chủ yếu bằng sức lao động của chính mình hoặc các thành
viên trong gia đình, loại hình kinh tế này tồn tại trong nhiều phương thức sản
xuất khác nhau. Cơ sở vật chất để kinh doanh thường dựa vào vốn tự có của


17
người chủ với việc sử dụng lao động của bản thân và gia đình là chủ yếu. Để
đảm bảo quá trình sản xuất, kinh doanh, các hộ cá thể, tiểu chủ trong một số
thời điểm có thể thuê mướn thêm lao động, nhưng thường với số lượng nhỏ,
không ổn định, mang tính thời vụ. Mục tiêu kinh doanh chủ yếu của các hộ cá
thể, tiểu chủ xuất phát từ nhu cầu giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho các
thành viên trong gia đình, họ hàng, vì vậy mục tiêu lợi nhuận chỉ là thứ yếu.
Thực tế cho thấy, nhiều hộ sản xuất kinh doanh vẫn hoạt động kể cả trong
những trường hợp sau khi hạch tốn kinh doanh khơng có lãi hoặc lãi ít để
đảm bảo việc làm cho các thành viên trong gia đình.
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê - xuất hiện quan hệ bóc lột giữa
người chủ tư bản tư nhân với công nhân làm thuê. Như vậy kinh tế tư nhân
vẫn cịn bóc lột ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, khác với kinh tế tư nhân trong
chế độ tư bản chủ nghĩa ở mức độ bóc lột được điều chỉnh cho phù hợp với
yêu cầu, bản chất của chế độ Xã hội chủ nghĩa. Dưới sự quản lý của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tính “bóc lột” khơng cịn gay gắt như trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Động lực làm giàu của tư nhân được
kết hợp với mục tiêu mà xã hội mới lựa chọn và được xác định là làm giàu
chính đáng. Do thể hiện đường lối quan điểm của Đảng cộng sản, nên hệ
thống pháp luật và hoạt động quản lý nhà nước cơ bản phản ánh quan hệ hợp
lý giữa lợi ích của tư nhân và lợi ích của tồn xã hội. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa điều tiết phân phối lại thu nhập một cách hợp lý. Thông qua luật lao
động và các quy chế khác có thể bắt buộc người thuê mướn lao động phải
đảm bảo những quyền lợi cơ bản cho người lao động như tiền lương, giờ lao

động, vệ sinh lao động…
Thứ hai, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ điều hành hay tổ chức, quản lý quá trình sản xuất
kinh doanh đều dựa trên sự điều hành của người chủ trong gia đình hay bản thân


18
chủ thể trực tiếp tham gia, các thành viên khác phục tùng theo sự phân cơng đó.
Dựa trên quyền lực của người chủ trong gia đình, các thành viên trong gia đình
có nghĩa vụ phục tùng sự phân cơng, điều khiển, quản lý của người chủ gia đình
đối với những vấn đề sản xuất kinh doanh. Quan hệ giữa người chủ và các thành
viên trong gia đình khơng phải là quan hệ chủ thợ hay quan hệ bóc lột mà là
quan hệ mang tính chất gia trưởng trong phạm vi gia đình, dịng họ.
Kinh tế tư bản tư nhân, quan hệ tổ chức quản lý đã có sự phân định
rạch rịi giữa một bên là ơng chủ có thể là cá nhân nếu đó là doanh nghiệp một
chủ hay cơng ty tư nhân, có thể là một nhóm nếu đó là cơng ty cổ phần cịn
bên kia là lao động làm th. Khi sức lao động đóng vai trị là hàng hóa thì
người chủ sở hữu sức lao động đó một khi đã đem bán cho người khác sử
dụng thì cũng có nghĩa là anh ta phải phụ thuộc sự điều hành của ơng chủ, đặc
điểm của nó là: Người cơng nhân làm việc dưới sự kiểm sốt của nhà tư bản;
sản phẩm làm ra thuộc sở hữu nhà tư bản chứ không phải của công nhân.
Trong phương thức sản suất tư bản chủ nghĩa sự phục tùng này rất khắt khe
nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho nhà tư bản. Khác với quan hệ phụ thuộc
dưới phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, quan hệ chủ thợ được hình thành dựa trên
sự quản lý và giám sát của nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, quan hệ phân phối.
Kinh tế cá thể, do dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao
động của bản thân là chủ yếu, nên sản phẩm và kết quả lao động chủ yếu thuộc
về chính họ. Ở đây, quan hệ phân phối là sự tự phân phối trong nội bộ gia đình

của các hộ sản xuất kinh doanh, nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của các thành
viên trong gia đình. Nếu có th mướn nhân cơng thì ngồi phân phối kết quả
sản xuất, còn căn cứ vào giá trị sức lao động của lao động làm thuê. Nhờ thực
hiện quan hệ phân phối như vậy nên các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ đã gắn
kết lợi ích vật chất của các thành viên trong hộ với kết quả sản xuất kinh doanh.


19
Mục tiêu của Đảng Cộng sản là xây dựng một chế độ xã hội ấm no,
công bằng, văn minh, không có người bóc lột người. Trước đây, do những
hạn chế về lý luận và nắm bắt thực tiễn, với tư duy đơn giản, chúng ta cứ nghĩ
rằng cứ xóa bỏ tư nhân là xóa được bóc lột, xây dựng kinh tế chỉ có quốc doanh,
tập thể là khơng có bóc lột và như vậy sẽ xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.
Từ khi đổi mới cơ chế kinh tế sang cơ chế thị trường và trong điều kiện nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân, phân phối cho
người lao động theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Như vậy, việc phát
triển kinh tế tư bản tư nhân khơng thể phủ nhận tình trạng bóc lột trong q trình
phân phối kết quả lao động. Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đã có sự điều chỉnh của nhà nước pháp quyền và hệ
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa thì tình trạng bóc lột khơng cịn ngun nghĩa
như trong xã hội tư bản. Các doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế nước ta là
một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, định hướng phát triển theo chủ
nghĩa xã hội, được các chính sách kinh tế vĩ mơ của nhà nước điều chỉnh; quan
hệ chủ thợ đã được cải thiện theo hướng cùng nhau xây dựng và phát triển kinh
tế đất nước, lợi ích các bên được điều chỉnh phù hợp với điều kiện đất nước.
Thực tế cho thấy bộ phận công nhân làm việc trong lĩnh vực tư nhân không chỉ
tăng thu nhập, đời sống của họ được cải thiện nhiều, mà trong q trình làm việc
cơng nhân được học tập kinh nghiệm tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh theo
hướng hiện đại và khoa học, được tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại từ đó

nâng cao trình độ tay nghề, có thể nói, đó là việc hi sinh lợi ích trước mắt nhỏ
hơn, vì lợi ích lâu dài lớn hơn, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
nam hiện nay là rất cần thiết.
1.1.3. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Là một bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư
nhân đã góp phần khai thác các nguồn lực kinh tế. Sự phát triển của kinh tế tư


20
nhân đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế
xã hội, như huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư với số lượng lớn vào sản
xuất kinh doanh, góp phần nâng cao sức sản xuất của xã hội, tạo thêm nhiều
việc làm mới vừa làm tăng của cải vật chất cho xã hội, vừa làm giảm áp lực
giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự hình thành và phát triển
các loại thị trường, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hố sản xuất trong nước,
tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động
sản xuất và kinh doanh, vừa góp phần tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
vừa tham gia giải quyết nhiều vấn đề xã hội... và điều đó được biểu hiện cụ
thể như sau:
1.1.3.1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế
Một là, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp ngày càng
tăng cho ngân sách nhà nước.
Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các doanh
nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể trong nước phát triển nhanh cả về số
lượng và chất lượng, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình.
Đánh giá về vai trị của kinh tế tư nhân, Hội nghị Trung ương 5 khóa
IX khẳng định:
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế

quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài
trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung
tâm là phát triển kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao
nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế [8, tr.57-58].
Văn kiện Hội nghị Trung ương 9 khóa IX cũng đánh giá một cách lạc
quan: “Khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển vượt bậc so với
những năm trước đây, đóng góp nhiều cho việc tạo việc làm mới, tăng thu


21
nhập cho người lao động và cho ngân sách nhà nước” [9, tr.23-24]. Sự phát
triển vượt bậc đó được thể hiện trên các số liệu chủ yếu sau đây: Từ đầu năm
2000, tức là từ khi Luật doanh nghiệp 1999 có hiệu lực thi hành đến tháng 92003 đã có 72.600 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn đăng
ký trên 9,5 tỷ USD, tức là gấp 1,7 lần về số doanh nghiệp và gấp hơn 4 lần
về vốn đăng ký so với giai đoạn 10 năm trước đó (1991-1999). Vốn đầu tư
năm 2005 của khu vực dân doanh đã lên đến 32,4% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội (vốn đầu tư nhà nước chiếm 53,1%, vốn đầu tư nước ngồi 14,5%); Theo
Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XI ngày
20-3-2007 thì vốn đầu tư tồn xã hội năm 2006 đạt 393,5 nghìn tỷ đồng,
bằng 40,4% GDP; trong đó vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước đạt 86,4
nghìn tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đạt 26,3 nghìn tỷ
đồng, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đạt 61,1 nghìn tỷ đồng, vốn
đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân đạt 132,6 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đạt 65,6 nghìn tỷ đồng; các nguồn
vốn khác đạt 21 nghìn tỷ đồng, tức là vốn đầu tư của kinh tế tư nhân đạt 31%
tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, trong khi vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đạt
17,2% so với 14,5% năm 2005. Từ năm 2002 đến năm 2006, có khoảng 170
nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, số doanh nghiệp gia nhập thị
trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 17%. Hiện nay, đầu tư của các doanh

nghiệp dân doanh chiếm gần 34% trong tổng đầu tư xã hội, tạo ra 49% việc
làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Hằng năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã
tiếp nhận hơn 90% số lao động mới. Các doanh nghiệp dân doanh, kinh tế hợp
tác, kinh tế hộ đã tạo ra 45% GDP,và sự đóng góp đó ln tăng dần qua các
năm. Điều đó cho thấy vai trị của kinh tế tư nhân đóng góp vào sự tăng trưởng
kinh tế của đất nước là rất đáng kể.


22
Bảng 1.1: Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 2010 phân theo
thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Nội dung
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
TỔNG SỐ
1588646 1699501 1820667 1923749 2027591 2157828 2292483 2412778
Phân
theo
thành
phần
kinh tế
Kinh tế Nhà

565425 600305 635759 663503 689981 722010 754211 797051
nước
Kinh tế ngoài
781407 822739 872389 923199 984363 1054075 1132479 1188103
Nhà nước
Kinh tế tập thể
98110 101554 104926 108084 111164 114855 118174 121428
Kinh tế tư
132628 152323 176283 195622 214069 232179 248385 263245
nhân
Kinh tế cá thể
550669 568862 591180 619493 659130 707041 765920 803430
Khu vực có
vốn đầu tư nước 241814 276457 312518 337047 353247 381743 405793 427624
ngoài

Nguồn: Website của Tổng Cục Thống kê [49].
Bảng 1.2: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo
thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế
Đơn vị tính: %
Năm
Nội dung
TỔNG SỐ

2005

2006

2007


2008

2009

2010

2011

2012

100.00

100.00

100.00

100.00

100.00

100.00

100.00

100.00

Phân theo thành
phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước


37.62

36.69

35.35

35.07

34.72

33.46

32.68

32.57

Kinh tế ngoài
Nhà nước

47.22

47.24

47.69

47.50

47.97

48.85


49.27

49.35

Kinh tế tập thể

6.65

6.39

6.10

5.91

5.80

5.32

5.16

5.00

Kinh tế tư nhân

8.51

8.98

9.69


10.23

10.46

10.76

10.91

11.14

Kinh tế cá thể

32.06

31.87

31.90

31.36

31.71

32.77

33.20

33.21

Khu vực có vốn

đầu tư nước ngồi

15.16

16.07

16.96

17.43

17.31

17.69

18.05

18.08


23
Nguồn: Website của Tổng Cục Thống kê [49].
Sự phát triển năng động của kinh tế tư nhân khơng chỉ góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tham gia tích cực
vào thị trường xuất nhập khẩu, tạo đà tăng trưởng kinh tế mà cịn đóng góp
khơng nhỏ vào ngân sách nhà nước. Tỷ trọng thu ngân sách từ khu vực kinh tế tư
nhân tăng từ 6,27% (năm 2002) lên trên 12,26% (năm 2011).
Bảng 1.3: Cơ cấu thu ngân sách Nhà nước qua các năm
Đơn vị tính: %
Nội dung


Năm
2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

TỔNG THU
100.0 100.0 100.0 100.00 100.00 100.00 100.00
Thu trong nước
(Không kể thu 51.29 51.67 54.77 52.50 52.03 55.17 55.76
từ dầu thô)
Thu từ doanh
20.24 18.88 16.85 17.12 16.58 15.94 16.68
nghiệp Nhà nước
Thu từ doanh
nghiệp có vốn
5.87
6.53
7.91
8.36
9.25

9.94 10.21
đầu tư nước
ngồi
Thu từ khu vực
cơng, thương
nghiệp, dịch vụ 6.27
6.8
6.95
7.42
7.90
9.87 10.11
ngồi
quốc
doanh

2009

2010

2011

100.00 100.00 100.00
61.59

64.07

61.21

18.48


19.06

18.02

11.17

11.03

10.99

10.53

11.90

12.26

Nguồn: Website của Tổng Cục Thống kê [49].
Hai là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ.
Một trong những nội dung quan trọng của tiến trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố ở Việt Nam là cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tiến bộ về khoa
học và công nghệ nhằm nâng cao nội lực từng bước hội nhập bình đẳng với
hệ thống kinh tế quốc tế. Trong q trình đó có sự tham gia tích cực và có
hiệu quả của kinh tế tư nhân bằng việc xác lập cơ cấu đầu tư cho phù hợp với
tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong từng thời kỳ phát triển. Do ưu
thế nổi trội của các doanh nghiệp tư nhân là năng động nhạy bén, linh hoạt
trong đầu tư kinh doanh và nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường cho nên


24
họ ln tìm kiếm phát hiện ngành, lĩnh vực, mặt hàng mà xã hội đang thiếu để

có thể đầu tư. Theo số liệu thống kê gần đây cho thấy, kinh tế tư nhân chiếm
đại bộ phận của ngành nông, lâm, ngư nghiệp như phân vùng chuyên canh,
ứng dụng công nghệ sinh học, cơ giới hố sản xuất, phát triển cơng nghiệp,
chế biến nơng sản, điện khí hố nơng thơn… Kinh tế tư nhân còn tham gia
đầu tư vào các ngành khác như thương mại dịch vụ và cả trong công nghiệp
như công nghiệp may, thực phẩm, sản phẩm từ cao su, da giày…
Việt Nam là một nước nông nghiệp và đang thực hiện mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa: tỷ
trọng khu vực kinh tế Nông, lâm nghiệp, thủy sản từ 19,56% (năm 2005)
giảm xuống còn 16, 13%% (năm 2011); tỷ trọng khu vực kinh tế công
nghiệp và xây dựng từ 40,17% (năm 2005) tăng lên 41,76%% (năm 2011);
tỷ trọng khu vực kinh tế dịch vụ từ 40,27% (năm 2005) tăng lên 42,06%
(năm 2011). Có được thành quả trên là kết quả tất yếu của sự phát triển các
thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, theo số liệu của Ban chỉ
đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương về kết quả tổng điều tra dân
số và nhà ở Việt Nam năm 2009 cho thấy có sự chuyển dịch lao động rõ nét
giữa các ngành kinh tế trong 10 năm qua: năm 1999: khu vực kinh tế nơng,
lâm, thủy sản từ chiếm 69,4% lao động có việc làm cả nước, đến năm 2009
giảm còn 53,9%; khu vực kinh tế công nghiệp và xây dựng từ chiếm tỷ
trọng 14,9% (năm 1999) tăng lên 20,3% (năm 2009); khu vực kinh tế dịch
vụ từ chiếm tỷ trọng 15,7% (năm 1999) tăng lên 25,8% (năm 2009) và khu
vực này cũng tạo thêm nhiều việc làm nhất trong giai đoạn 1999 - 2009 với
hơn 6,3 triệu việc làm [1, tr.108].
Cơ cấu kinh tế có ý nghĩa thiết thực trong việc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển đa dạng, năng động, phát huy lợi thế tiềm năng về nguồn nhân lực,
vật lực, tài lực. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ln có sự đóng
góp của khu vực kinh tế tư nhân. Sự tham gia của kinh tế tư nhân đã xác lập


25

lại cơ cấu đầu tư theo từng thời kỳ phát triển, góp phần nâng cao tỉ trọng của
các ngành cơng nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Ba là, góp phần thúc đây hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
Với đặc điểm là sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, hoạt động trên
khắp các địa bàn cả nước, cùng với tiềm năng sẵn có, kinh tế tư nhân đã và
đang tỏ rõ là một bộ phận kinh tế quan trọng, cung cấp đầy đủ, kịp thời các
sản phẩm và dịch vụ thiết yếu cho toàn xã hội với khối lượng lớn các sản
phẩm hàng hóa đa dạng, phong phú về chủng loại và mẫu mã, từ các mặt hàng
giản đơn đến những mặt hàng cao cấp, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và
ngoài nước. Với sự phát triển nhanh cả về quy mơ và tốc độ của q trình hội
nhập quốc tế, các phạm trù giao dịch quốc tế ngày càng mở rộng như giao
dịch hàng hố, dịch vụ, thơng tin, đầu tư, tài chính… và Việt Nam đang mở
rộng cửa hợp tác kinh doanh quốc tế theo nguyên tắc đa phương hố, đa dạng
hố. Kinh tế tư nhân cũng góp phần đáng kể trong công cuộc ấy với việc tạo
ra khối lượng lớn về hàng xuất khẩu (nông, lâm, thủy, hải sản, hàng thủ công
mỹ nghệ…), đồng thời mở rộng khả năng đầu tư và là đối tác thu hút các
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, nhập về máy móc thiết bị
cơng nghệ hiện đại để qua đó tận dụng và phát huy mọi nguồn lực cho sự phát
triển kinh tế trong nước. Việt Nam đang trong quá trình mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng
và đầy đủ vào các tổ chức kinh tế thế giới như: AFTA, APEC, WTO,… cho
nên không thể thiếu được vai trò của khu vực kinh tế tư nhân. Với những
thuận lợi vốn có như linh hoạt nhạy bén phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng,
khu vực này đã mang lại một nguồn lợi lớn cho đất nước. Theo số liệu từ tổng
cục Hải quan cho thấy, “kim nghạch xuất khẩu năm 2010 đã đạt 64,5 tỷ USD,
tăng 25% so với cùng kỳ và bằng 105,8% kế hoạch năm, nhập khẩu cùng thời
kỳ đạt trên 75,5 tỷ USD, tăng 20,7% và bằng 102% kế hoạch, nhập siêu cũng
đạt xấp xỉ 11 tỷ USD, tương đương 17% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cùng



×