Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất lúa ở tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.05 KB, 98 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã là thành quả của nền văn minh nhân loại, được khởi nguồn
và xuất phát từ mong muốn, ước mơ về một xã hội dân chủ, công bằng, một
cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người dân lao
động ở nông thôn. Sự tồn tại và phát triển của hợp tác xã là một tất yếu kinh
tế, là nền văn minh của nhân loại. Điều này đã được Lênin chỉ ra “Hợp tác xã
chính là một chủ nghĩa xã hội thu nhỏ”.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế thừa và phát triển một
cách sáng tạo tư tưởng về hợp tác xã của thế giới vào điều kiện lịch sử cụ thể của
Việt Nam. Trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển cách mạng xã hội chủ
nghĩa, hợp tác xã luôn được coi là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt quan
trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, được Đảng và Nhà
nước quan tâm phát triển trong các giai đoạn cách mạng.
Đảng ta đã xác định trong giai đoạn hiện nay chúng ta tiếp tục phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã cùng với kinh tế nhà
nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đảng ta đề ra mục
tiêu chiến lược đó là “… phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện
cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại” [21, tr.15]. Trong lĩnh vực nông nghiệp và
nông thôn, để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi các hợp tác xã phải vươn lên làm
tốt các khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất nơng nghiệp, có như vậy
mới có thể giải quyết việc làm cho người dân, giữ ổn định xã hội và góp phần
vào sự phát triển chung của đất nước.
Trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, hoạt động hợp tác xã dịch vụ sản xuất
gắn với tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp mặc dù đã đạt được những thành


2


tựu đáng khích lệ song vẫn cịn những bất cập cần tiếp tục nghiên cứu giải
quyết như: Cơ chế chính sách hỗ trợ cho hoạt động dịch vụ hợp tác xã còn
thiếu, hợp tác xã chưa phát huy vai trò của mình trên thực tế, phần lớn các
hợp tác xã, tổ hợp tác chậm được đổi mới về nội dung, phương thức hoạt
động, các hợp tác xã chỉ tập trung vào một số dịch vụ đầu vào như tưới tiêu,
làm đất mà chưa tập trung vào khâu dịch vụ đầu ra cho sản phẩm nông
nghiệp, nên hiệu quả hoạt động của hợp tác xã chưa cao, phần lớn nông dân
phải tự tìm thương lái để tiêu thụ. Hoạt động dịch vụ của hợp tác xã chưa hỗ
trợ thiết thực, hiệu quả cho sản xuất của nông dân ở tỉnh Đồng Tháp, đặc biệt
là hoạt động dịch vụ cho sản xuất lúa - một loại cây trồng chính của Tỉnh.
Từ thực tế đó, học viên lựa chọn đề tài “Hợp tác xã dịch vụ cho sản
xuất lúa ở tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế
chính trị, hy vọng đề xuất được một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hoạt
động dịch vụ của hợp tác xã cho sản xuất lúa ở tỉnh Đồng Tháp đến 2020.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hợp tác xã nói chung, hợp tác xã dịch vụ nói riêng trong
q trình đổi mới kinh tế ở nước ta đã được nhiều nhà lãnh đạo, các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu quan tâm ở những góc độ, phạm vi khác nhau và đã có
nhiều bài viết được đăng trên một số báo, tạp chí; cùng với một số cơng trình
khoa học, đề tài tiến sĩ, thạc sĩ viết về kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác và hợp
tác xã. Trong đó đáng chú ý là:
Các cơng trình đã cơng bố trên sách báo và tạp chí chuyên ngành như:
- Nguyễn Văn Bính, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001): “Kinh tế
hợp tác - hợp tác xã ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội. Các tác giả đã hệ thống hóa q trình hình thành, phát
triển các loại hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã trên thế giới và ở Việt Nam với
những thành công và tồn tại, từ đó xây dựng những định hướng và phát triển
phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ.



3
- Giáo sư, tiến sĩ Hồ Văn Vĩnh (2004): ‘‘Cơ sở lý luận và thực tiễn của
mơ hình phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta’’. Đề tài khoa học cấp
Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; “Phát
triển hợp tác xã nơng nghiệp trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta”, Tạp chí Cộng sản, số 8, 2005. Ở hai bài viết này, tác giả đã bàn tới
cách thức chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông
nghiệp kiểu mới trên cơ sở quán triệt đường lối đổi mới hợp tác xã nông
nghiệp của Đảng. Tác giả cũng nêu lên mối quan hệ tác động qua lại giữa hợp
tác xã nông nghiệp với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời nêu ra
nguyên nhân của những khó khăn khi phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong
thời kỳ đổi mới và những giải pháp để tháo gỡ những khó khăn này.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003) “Kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các
tác giả đã tập trung phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp
tác, hợp tác xã; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mơ hình kinh tế hợp
tác, hợp tác xã phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế nông nghiệp, nông
thôn nước ta. Từ đó đề xuất các giải pháp phát triển mơ hình kinh tế hợp tác,
hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay.
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (2001) “Đổi mới tổ chức và
quản lý hợp tác xã nông nghiệp, nông thôn” Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Trong cơng trình này, các tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để
phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam; khái quát
quá trình phát triển các hình thức tổ chức và quản lý hợp tác xã giai đoạn
trước 1986 và từ năm 1986 đến nay. Từ thực trạng phát triển mơ hình tổ
chức quản lý các hợp tác xã ở nông thôn của một số địa phương Miền Bắc
tiêu biểu, các tác giả cũng đã đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ
thể để xây dựng mơ hình tổ chức và quản lý có hiệu quả các hợp tác xã phù
hợp tình hình thực tiễn đặt ra.



4
Các đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đã bảo vệ như:
- Nguyễn Thanh Hà (2000) “Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
- Lưu Văn Tiền (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp
kiểu mới ở tỉnh Vĩnh Long”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đặng Hùng Anh “Phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
Các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ trên đã đề cập đến vấn đề hợp tác
xã với những nội dung chủ yếu như:
- Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác, hợp tác xã trước
và sau đổi mới nói chung và sau khi thực hiện chuyển đổi hợp tác xã kiểu mới
nói riêng, đánh giá việc thực hiện Luật Hợp tác xã của một số địa phương.
- Phân tích những đặc trưng của mơ hình hợp tác xã kiểu mới, trình bày
những kinh nghiệm hoạt động và những kiến nghị, giải pháp, chính sách cụ
thể về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt hợp tác xã.
- Dự báo sự vận động, phát triển hợp tác xã trong hai thập niên đầu
thế kỷ XXI.
Nhìn chung, các cơng trình kể trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của
hợp tác xã; trong đó, các cơng trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi
vào làm rõ những yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ, luận giải sự cần
thiết, thực trạng chuyển đổi mơ hình hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã (1996),
sửa đổi, bổ sung năm 2003; các cơng trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng
về nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ IX.



5
Tuy có nhiều cơng trình nghiên cứu về kinh tế hợp tác, hợp tác xã,
nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về “Hợp tác xã dịch vụ cho sản
xuất lúa ở tỉnh Đồng Tháp”. Vì vậy, đề tài mà học viên lựa chọn khơng trùng lặp
với các trình khoa học đã nghiên cứu. Thực hiện đề tài này, học viên có kế thừa
những thành quả nghiên cứu của các cơng trình có liên quan trên, cùng với q
trình hoạt động thực tế của bản thân trên địa bàn để giải quyết những vấn đề đặt
ra trong luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến phát triển hợp tác
xã nói chung, hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất lúa nói riêng; phân tích, đánh
giá thực trạng hoạt động dịch vụ của các hợp tác xã cho sản xuất lúa ở tỉnh
Đồng Tháp. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hồn thiện các hợp tác xã dịch vụ
cho sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh đến 2020.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa lý luận về hợp tác xã và hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất
lúa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của hợp tác xã dịch vụ cho
sản xuất lúa ở tỉnh Đồng Tháp, rút ra được những thành tựu và hạn chế cùng
nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện các hợp tác xã
dịch vụ cho sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đến 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động của hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất
lúa ở tỉnh Đồng Tháp.
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động của hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất
lúa trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp từ 2008 - 2013.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý


6
luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước, tham khảo và kế thừa có
chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã được cơng bố của các nhà khoa học có
liên quan đến luận văn.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin,
lý luận gắn liền với thực tiễn, kết hợp lơgíc với lịch sử và đặc biệt coi trọng việc
phân tích và tổng hợp để giải quyết các văn đề đặt ra trong luận văn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về hợp tác xã và hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất
lúa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của hợp tác xã dịch vụ cho
sản xuất lúa ở tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2008 - 2013, rút ra những thành tựu
và hạn chế cùng nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hợp tác xã dịch
vụ cho sản xuất lúa ở tỉnh Đồng Tháp.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm căn cứ để Ủy ban nhân
dân Tỉnh tham khảo trong việc đề ra chính sách phù hợp với yêu cầu phát
triển hoạt động của hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất lúa trong điều kiện hiện
nay ở tỉnh Đồng Tháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ thêm hệ thống lý luận về hợp tác xã và hợp tác xã dịch vụ cho sản
xuất lúa.
- Nói lên thực trạng hoạt động của hợp tác xã dịch vụ cho sản xuất lúa
ở tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2008 - 2013, phân tích, đánh giá rút ra những
thành tựu và hạn chế cùng nguyên nhân của chúng.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hợp tác xã dịch
vụ cho sản xuất lúa ở tỉnh Đồng Tháp.
8. Kết cấu của luận văn


7
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỢP TÁC XÃ
DỊCH VỤ SẢN XUẤT LÚA
1.1. HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ SẢN XUẤT LÚA

1.1.1. Khái niệm về hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa
Hợp tác xã là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến của kinh tế
tập thể trong nền kinh tế nước ta nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng. Khái
niệm về hợp tác xã, bản chất, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của hợp
tác xã được thể hiện toàn diện trong các quy định của Luật Hợp tác xã năm
2012. Cụ thể là:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương
trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm
nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.
Khi hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các
doanh nghiệp của hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác xã hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp [46, tr.1-2].
Như vậy, hợp tác xã là một trong những hình thái tổ chức kinh tế biểu
hiện cụ thể và điển hình của kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay.
Từ khái niệm về hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, có thể khái quát khái

niệm về hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa như sau:
Hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là tổ chức kinh tế tập thể do những
nông dân trồng lúa (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung,
tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật Hợp tác xã để phát


8
huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, liên kết cùng giúp
nhau thực hiện có hiệu quả chuỗi giá trị từ đầu vào đến đầu ra cho sản xuất
lúa, nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, nâng cao chất lượng sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho
xã viên hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa để góp phần phát triển kinh tế - xã hội
chung của đất nước.
1.1.2. Đặc điểm của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa
Hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa có những đặc điểm sau đây:
Một là, hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là một tổ chức kinh tế hoạt động
dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất lúa.
- Được thành lập để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và thực
hiện chuỗi giá trị từ đầu vào đến đầu ra cho xã viên trong sản xuất lúa.
- Việc thành lập hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa dựa trên cơ sở hoàn toàn
tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu, lợi ích chung; các thành viên liên kết lại với
nhau để phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp đở nhau thực hiện có hiệu quả
chuỗi giá trị từ đầu vào đến đầu ra cho sản xuất lúa nhằm giảm chi phí sản
xuất, tăng lợi nhuận, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị
trường, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho xã viên hợp tác xã dịch vụ
sản xuất lúa.
- Là một tổ chức kinh tế của người trồng lúa, có đặc trưng gắn với hộ
nông dân trồng lúa.
Hai là, hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là một tổ chức kinh tế
mang tính xã hội cao.

- Hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa trước hết là để đáp ứng các nhu cầu và
nguyện vọng của xã viên về hoạt động sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm từ lúa;
- Nông dân trồng lúa gia nhập hợp tác xã vì họ cần được hợp tác xã phục
vụ, trợ giúp những việc mà họ khơng thể tự làm hoặc làm một mình khơng có
hiệu quả, khắc phục được những nhượt điểm và hạn chế khi sản xuất đơn lẽ;


9
- Hoạt động dịch vụ của các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là công cụ
nhằm làm tăng thêm lợi ích, hiệu quả sản xuất của xã viên;
- Mục tiêu của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là phục vụ nhu cầu, lợi ích
chung của xã viên, khơng phải vì lợi nhuận. Như vậy, hợp tác xã dịch vụ sản
xuất lúa là một tổ chức kinh tế mang tính hợp tác có tính xã hội sâu sắc, hỗ trợ
các hộ nông dân trồng lúa tăng cạnh tranh trong kinh tế thị trường;
- Hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là một tổ chức dân chủ, xã hội cao của
nơng dân trồng lúa, trong đó các thành viên được bình đẳng, phát huy vai trị của
cộng đồng trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ.
Ba là, đối tượng tham gia hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa bao gồm tất cả
những người nông dân, hộ nông dân trồng lúa và pháp nhân.
- Khi tham gia hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa, các xã viên phải góp vốn.
- Hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa có tư cách pháp nhân và chỉ chịu trách
nhiệm trả nợ trong giới hạn vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của
hợp tác xã tại thời điểm tuyên bố phá sản theo Luật Hợp tác xã. Xã viên cũng
chịu trách nhiệm các khoản nợ trong phạm vi vốn góp của mình.
1.1.3. Vai trị của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội
Nhận thức rõ vai trò của kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã nói
chung và hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa nói riêng Đảng ta đã xác định cần:
Phát triển mạnh kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến
khích phát triển mạnh kinh tế tư nhân, loại hình doanh nghiệp sở hữu

hỗn hợp theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Thu hút đầu tư
nước ngồi có cơng nghệ hiện đại, thân thiện môi trường [21, tr.34].
Với tư cách là tổ chức kinh tế, hợp tác, tương trợ giúp đở lẫn nhau của
những người nông dân, hộ nông dân trồng lúa, các hợp tác xã dịch vụ sản xuất
lúa đóng vai trị thiết thực, quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và cải thiện
đời sống của người trồng lúa, cũng như sự phát triển chung về kinh tế, xã hội


10
của địa phương và của cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn. Cụ thể như sau:
1.1.3.1. Các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa đóng vai trị “bà đỡ” cho
xã viên phát triển kinh tế, đồng thời có những đóng góp trực tiếp, quan
trọng vào sự tăng trưởng, phát triển chung của nền kinh tế
Hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa được những người trồng lúa tự nguyện
thành lập nhằm giải quyết những vấn đề mà từng thành viên khơng thể tự
mình giải quyết hoặc giải quyết một mình khơng hiệu quả. Vì vậy, các hợp tác
xã dịch vụ sản xuất lúa có vai trị to lớn trong việc hỗ trợ xã viên trong việc phát
triển sản xuất - tiêu thụ sản phẩm từ lúa. Vai trị đó thể hiện qua hoạt động dịch
vụ của các hợp tác xã đối với các khâu của quá trính sản xuất lúa một cách kịp
thời, đúng với quy trình sản xuất lúa như: nạo vét thủy lợi, bơm tưới, làm đất,
bảo vệ thực vật, cung ứng vật tư, phân bón, khuyến nơng, tổ chức sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm, hỗ trợ xã viên chuyển giao khoa học - kỷ thuật vào sản xuất,
chuyển đổi giống theo hướng sản xuất có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là
một tất yếu khách quan. Vì những hộ nơng dân trồng lúa cá thể khơng thể dự
báo hay ứng phó được những diễn biến phức tạp, bất ngờ của điều kiện tự
nhiên; trước sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực cung ứng vật
tư, kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm,… Sự liên kết tự nhiên đó đã gắn bó những
người sản xuất nhỏ, manh mún lại thành một tổ chức theo yêu cầu sản xuất,

kinh doanh của họ.
Việc thực hiện vai trò “bà đỡ” là căn cứ đặc biệt quan trọng và chủ yếu
để đánh giá tính chất và hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ sản
xuất lúa.
Với chức năng là một tổ chức đại diện cho người sản xuất lúa, hợp tác
xã dịch vụ sản xuất lúa là nơi tiếp cận thị trường để thu thập và phân tích các
thơng tin thị trường, từ đó đưa ra các dự báo thời gian, số lượng, giá cả và xu


11
hướng vận động của thị trường, để định hướng sản xuất sát với nhu cầu thị
trường nhằm cung ứng hàng hóa với hiệu quả cao nhất.
Nơi trồng lúa thường xa thị trường trường tiêu thụ, lúc này các hợp tác
xã dịch vụ sản xuất lúa với vai trò là đầu mối đảm nhận khâu thu mua và đưa
hàng hóa đến các thị trường hay là đầu mối ký kết hợp đồng với doanh nghiệp
để tiêu thụ sản phẩm, từ đó sẽ tiết kiệm được chi phí lưu thơng, hạn chế được
sự ép giá của thương lái, từ đó lợi nhuận mang lại cho người sản xuất lúa sẽ
cao hơn.
Với vai trò là trung gian trong sản xuất, các hợp tác xã dịch vụ sản xuất
lúa có đủ tư cách pháp nhân, sự am hiểu pháp luật, tiềm lực tài chính để xây
dựng và bảo vệ thương hiệu hàng nông sản. Đồng thời, các hợp tác xã dịch vụ
sản xuất lúa còn là tổ chức đứng ra bảo đảm ổn định được các nguồn cung ứng
nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến trên cơ sở quan hệ cùng có lợi.
Là tổ chức đầu mối nên các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa tập trung
được một khối lượng lúa hàng hóa lớn đáp ứng được nhu cầu sản lượng cho
thị trường. Theo quy luật giá trị ai là người cung ứng đại bộ phận hàng hóa
trên thị trường thì người đó có quyền định giá thị trường. Mặt khác, khi có
một khối lượng lúa hàng hóa lớn trong tay, các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa
có tiềm lực vật chất đủ mạnh để giành chiến thắng trong cạnh tranh.
Làm tốt vai trò “bà đỡ” các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa sẽ hỗ trợ

đắc lực cho các xã viên phát triển kinh tế, đồng thời có những đóng góp trực
tiếp, quan trọng vào sự tăng trưởng, phát triển chung của nền kinh tế.
1.1.3.2. Tham gia giải quyết các vấn đề xã hội như: tạo việc làm,
giảm nghèo cho xã viên và người lao động
Thông qua hoạt động dịch vụ và sản xuất của mình, các hợp tác xã dịch
vụ sản xuất lúa tạo việc làm cho xã viên và người lao động. Các việc làm này
thường gắn với địa bàn sinh sống của người lao động, địi hỏi trình độ chun
mơn, kỷ thuật khơng q cao, có thời gian làm việc linh hoạt. Đây là điều có ý


12
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết việc làm ở các vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, những người lao động khơng có việc làm,… Thơng
qua việc làm được tạo ra, xã viên và người lao động trong các hợp tác xã có
được nguồn thu nhập nhất định.
Mặc khác, phần lớn xã viên và người lao động trong hợp tác xã dịch vụ
sản xuất lúa là những người sản xuất nhỏ và có hồn cảnh khó khăn. Do vậy,
hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa có vai trị quan trọng trong cơng cuộc xóa đói,
giảm nghèo ở nước ta. Vai trị đó được thể hiện thơng qua việc hợp tác xã
cung cấp hay hợp tác xã ký hợp đồng với doanh nghiệp cung cấp cho xã viên
và người lao động trong hợp tác xã những điều kiện thiết yếu để tổ chức sản
xuất như: hỗ trợ vốn, tư vấn và hướng dẫn kỷ thuật, cung cấp thơng tin, tổ
chức tiêu thụ sản phẩm,... từ đó tạo cơ hội việc làm, sản xuất ổn định để tăng
thu nhập, nhằm giúp họ phát triển kinh tế gia đình, vươn lên khá giàu.
1.1.3.3. Tham gia xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các khu
dân cư, đặc biệt là ở khu vực nơng thơn, góp phần quan trọng vào thực
hiện cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn
Để đảm bảo cho việc sản xuất không bị ngặp nước trong mùa lũ và giữ
nước trong mùa khô, vận chuyển phương tiện sản xuất, tiêu thụ, nhu cầu đi lại
của người trồng lúa, Nhà nước cùng với hợp tác xã và những người trồng lúa

đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng như: hệ thống giao thông kết
hợp với bờ bao bảo vệ lúa, hệ thống thủy lợi, điện phục vụ sản xuất và sinh
hoạt,... tạo điều kiện thuận lợi đưa điện khí hóa, cơ giới hóa vào sản xuất lúa.
Vì vậy, các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa đã góp phần quan trọng vào sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
1.1.3.4. Góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, đặc
biệt là ở khu vực nơng thơn
Với tinh thần đồn kết, liên kết cùng nhau trong sản xuất theo hướng
các bên cùng có lợi, các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa đã góp phần hình


13
thành ý thức cộng đồng trong mỗi xã viên cũng như trong mỗi cư dân nơng
thơn nói chung. Việc tham gia các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa góp phần
hình thành ở người nơng dân trồng lúa vốn nặng đầu óc tư hữu có ý thức đồn
kết, sống hịa mình vào tập thể, vì lợi ích chung. Đồng thời, góp phần tăng
cường dân chủ ở nơng thơn. Trở thành xã viên hợp tác xã dịch vụ sản xuất
lúa, các xã viên có quyền bàn bạc về mục tiêu phát triển của hợp tác xã, biện
pháp làm ăn có lợi nhất, hiệu quả nhất; tự nguyện góp vốn, góp sức phát triển
kinh tế của mình và của hợp tác xã; thảo luận với nhau về cách phân chia kết
quả lao động một cách công bằng, hợp lý, được quyền tự lựa chọn người lãnh
đạo,… Điều đó đóng góp đáng kể vào việc tăng cường dân chủ trên địa bàn.
Các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa cịn có vai trị quan trọng trong
việc cung cấp thơng tin, kiến thức về sản xuất và thị trường, do đó đã góp
phần nâng cao dân trí ở khu vực nơng thơn. Ngày nay, trong điều kiện khoa
học, kỹ thuật phát triển các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa càng làm tốt hơn
vai trị cung cấp thơng tin về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3.5. Góp phần bảo đảm sự thành cơng của các chương trình, dự
án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thông qua việc tham gia xây
dựng các chương trình, dự án này

Các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa mang tính liên kết và tổ chức cộng
đồng cao trong sản xuất, gắn kết chặt chẽ với địa bàn dân cư. Vì vậy, sự phát
triển của các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa sẽ góp phần quan trọng bảo đảm
sự thành cơng của các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn thông qua việc tham gia xây dựng các chương trình, dự án này.
Do vậy, sự tham gia của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là yếu tố hết
sức quan trọng thực hiện thắng lợi Nghị quyết 26/NQ-TW Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nơng nghiệp, nơng dân và nơng
thơn và Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
1.1.4. Cơ chế vận hành hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa


14
Hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa vận hành theo nguyên tắc được quy
định trong Luật Hợp tác xã năm 2012 như sau:
Thứ nhất, cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia
nhập, ra khỏi hợp tác xã. Hợp tác xã tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi
liên hiệp hợp tác xã.
Nguyên tắc này thể hiện: tuyệt đối không được cưỡng ép người nào,
bất kỳ dưới hình thức nào, mà phải để mỗi người tự suy nghĩ thấy những lợi
ích thiết thực của mình mà tự nguyện hợp tác với nhau. Ph.Ăngghen từng nêu
luận điểm:
Cần để cho nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ và ông đã
khẳng định cương quyết rằng khi giai cấp vơ sản giành được chính
quyền thì tuyệt đối khơng được tước đoạt những người tiểu nông dù
bất kỳ dưới hình thức nào. Nhà nước vơ sản phải bằng những biện
pháp hết sức tỷ mỷ khuyến khích họ [37, tr.69].
Bằng hoạt động thực tiễn của mình, với nhãn quan khoa học V.I.Lênin
có những đóng góp quan trọng về kinh tế hợp tác, về con đường đưa những
người tiểu nông, những người sản xuất nhỏ đi theo chủ nghĩa xã hội trong thời

kỳ quá độ. Người rất coi trọng nguyên tắc tự nguyện, kiên quyết phản đối
dùng biện pháp hành chính trong việc hợp tác hóa nơng nơng dân [27, tr.274].
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc tự nguyện, người luôn
nhắc nhở chúng ta: “... không được cưỡng ép ai hết. Phải tun truyền, giải
thích cho nơng dân thấy lợi ích của tổ đổi cơng; ai muốn vào thì vào, tuyệt đối
khơng được ép buộc ai” [41, tr.465].
Thực hiện nguyên tắc tự nguyện nhưng lại biết tổ chức, giáo dục, biết
đấu tranh, đặc biệt là biết tổng kết những điển hình tiên tiến để cho nơng dân
noi theo, học tập; tự nguyện khơng có nghĩa là bng xi, bỏ mặc mà khơng
có tác động gì của Nhà nước, của chúng ta, nhưng cũng không chạy theo


15
thành tích, nơn nóng, “hợp tác xã cả làng” như trước đây, mà phải coi trọng
lợi ích thiết thực của xã viên.
Thứ hai, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên,
hợp tác xã thành viên.
Thứ ba, thành viên, hợp tác xã thành viên có quyền bình đẳng, biểu
quyết ngang nhau khơng phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức,
quản lý và hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp
thơng tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài
chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.
Bởi vì, hợp tác xã là tổ chức của dân, do dân tự tổ chức, quản lý, phục
vụ nhu cầu chung của xã viên, mang lại lợi ích hết thảy cho xã viên, là tổ
chức mà xã viên vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng sản phẩm, dịch vụ
của hợp tác xã hoặc là người lao động trong hợp tác xã.
Nguyên tắc bình đẳng trong hợp tác xã khác với các loại hình doanh
nghiệp khác, trong doanh nghiệp tư nhân tư bản, quyền quyết định thuộc về
chủ sở hữu nào chiếm cổ phần chi phối hay còn gọi là cổ phần khống chế.
Trong hội đồng quản trị của các doanh nghiệp cổ phần, làm việc theo nguyên

tắc thiểu số phục tùng đa số. Trong kinh tế hợp tác xã, hội đồng quản trị cũng
làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nhưng trên hội đồng quản
trị cịn có đại hội xã viên. Đại hội xã viên có quyền lực cao nhất. Đại hội xã
viên khác với đại hội cổ đông của các xí nghiệp. Ở đại hội cổ đơng người có
quyền quyết định là người có sở hữu số cổ phần chi phối. Nhưng trong kinh tế
hợp tác xã, mọi xã viên đều bình đẳng về quyền biểu quyết, khơng kể xã viên
đó góp nhiều hay ít vốn cho hợp tác xã. Đây là sự biểu quyết theo nguyên tắc
đối nhân chứ khơng phải theo ngun tắc đối vốn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý hợp tác xã được thể hiện qua khái
niệm làm chủ của xã viên hợp tác xã: “Các hợp tác xã phải làm thế nào để các
xã viên đều thấy rằng mình là người chủ tập thể của hợp tác xã, có quyền bàn


16
bạc và quyết định những công việc của hợp tác xã. Có như thế thì xã viên sẽ
đồn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và hợp tác xã sẽ tiến bộ không ngừng”
[44, tr.260]; mỗi xã viên phải làm chủ, “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ” [43,
tr.181]. Đồng thời, người nhấn mạnh “Quản lý phải dân chủ, tài chính phải
cơng khai - Sổ sách phải minh bạch” [42, tr.443].
Thứ tư, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ra đời, hoạt động nhằm đáp ứng một
cách hiệu quả nhu cầu sản xuất của xã viên, do đó hợp tác xã và liên hiệp hợp
tác xã không phải là một tổ chức xã hội, hoặc từ thiện. Vì vậy, hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã phải nêu cao tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt
động của mình trước pháp luật.
Thứ năm, thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy
định của điều lệ.
Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu

theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên
hoặc theo cơng sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã. Do
đó, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động vì lợi ích của xã viên và mọi lợi
ích của hợp tác xã là do xã viên tạo ra. Vì vậy, để đảm bảo hài hịa các lợi ích
thì thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có
trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của
điều lệ đã đặt ra.
Thứ sáu, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng cho thành viên, hợp tác xã thành viên, cán bộ quản lý, người lao
động trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích
của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Thứ bảy, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững


17
cộng đồng thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển
phong trào hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.
1.1.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của hợp tác xã dịch
vụ sản xuất lúa
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động và phát triển các hợp tác xã dịch
vụ sản xuất lúa chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Dưới đây là một số yếu tố
cơ bản:
1.1.5.1. Các văn bản pháp lý
Các văn bản pháp lý là căn cứ quan trọng nhất để các hợp tác xã dựa
vào đó hoạt động. Các văn bản pháp lý bao gồm: Luật Hợp tác xã, các chính
sách, văn bản liên quan và điều lệ hợp tác xã. Luật Hợp tác xã là văn kiện có
tính chất cơ bản và quan trọng của Nhà nước nhằm tạo điều kiện pháp lý để
hợp tác xã hình thành, hoạt động và phát triển. Nội dung cơ bản của Luật Hợp
tác xã bao gồm: khái niệm về hợp tác xã; bảo đảm của Nhà nước đối với hợp
tác xã; chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước; các nguyên tắc tổ chức, hoạt

động của hợp tác xã; quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã; chế độ lưu giữ tài liệu
của hợp tác xã; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong hợp tác xã; các hành vi bị cấm; điều kiện trở thành thành
viên, hợp tác xã thành viên; quyền, nghĩa vụ, tư cách; góp vốn điều lệ, trả lãi,
thừa kế vốn góp; thành lập và đăng ký hợp tác xã; tổ chức quản lý hợp tác xã;
tài sản, tài chính hợp tác xã; chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản hợp
tác xã; tổ chức đại diện của hợp tác xã; quản lý nhà nước đối với hợp tác xã. Các
chính sách và văn bản liên quan đến hợp tác xã đều hướng vào mục đích hỗ trợ,
hướng dẫn và quản lý hợp tác xã hoạt động có hiệu quả theo luật định.
Điều lệ Hợp tác xã có những quy định cụ thể về các điều khoản đối với
việc thành lập, hoạt động kinh tế, xã hội, tổ chức, quản lý,... phù hợp với đặc
thù của cơ sở.
Các văn bản pháp lý là điều kiện tiên quyết đối với sự hình thành và


18
phát triển hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa trong điều kiện sản xuất hàng hóa và
kinh tế thị trường. Luật, các chính sách, văn bản liên quan và điều lệ hợp tác
xã ln được bổ sung, hồn thiện để phù hợp với điều kiện phát triển chung
của nền kinh tế - xã hội đất nước và riêng của hợp tác xã. Qua đó sẽ xuất hiện
những mơ hình hợp tác xã dịch vụ mới phù hợp hơn.
1.1.5.2. Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế bao gồm: trình độ phát triển, tiềm lực vật chất, năng
lực quản lý... của chủ thể tham gia hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa; trình độ
phát triển sản xuất lúa hàng hóa; cơ chế vận hành của nền kinh tế; trình độ
phát triển kinh tế của quốc gia và thế giới, khủng hoảng kinh tế, cơ hội kinh
tế, thuế, giá cả, tỷ giá, cạnh tranh trong kinh tế, lợi thế kinh doanh, đối thủ và
đối tác trong kinh doanh,... Các yếu tố kinh tế này sẽ tác động rất lớn đến hoạt
động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa. Điều quan trọng là từng hợp tác xã
dịch vụ sản xuất lúa cần có nguồn lực, kịp thời nắm bắt thơng tin, dự báo tình
hình cung cầu lúa gạo, lựa chọn những giống lúa, gạo thị trường cần, linh hoạt

tránh né những nhân tố bất lợi ảnh hưởng đến hoạt động của hợp tác xã và sản
xuất của xã viên.
Các yếu tố kinh tế khách quan này nằm ngoài tầm tay quản lý của hợp
tác xã dịch vụ sản xuất lúa, vì vậy địi hỏi phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ và điều
tiết kịp thời ở tầm vĩ mô của Nhà nước.
1.1.5.3. Yếu tố khoa học, công nghệ
Yếu tố khoa học, công nghệ là điều kiện quyết định trình độ phát
triển của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa về năng lực quản lý, sản xuất,
năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh lúa, gạo trên thị trường. Bản thân
các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa cần chú trọng đầu tư về khoa học kỹ
thuật nông nghiệp, quản lý kinh doanh và công nghệ sinh học. Nhà nước
ln có vai trị rất lớn trong việc hướng dẫn, đào tạo cán bộ quản lý hợp tác
xã, bồi dưỡng kiến thức cho xã viên về áp dụng khoa học - công nghệ tiên


19
tiến lên đồng ruộng thông qua các hoạt động của các cơ quan chức năng
với nhiều hình thức phù hợp.
1.1.5.4. ́u tố văn hóa
Trình độ văn hố của xã viên thấp sẽ luôn là vật cản lớn đối với mọi
yêu cầu và hoạt động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa và xã viên. Điều
kiện văn hoá là cơ sở để nhận thức và vận dụng các nhân tố khác tác động đến
hoạt động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa và sản xuất của xã viên. Yếu tố
văn hóa khơng dừng lại ở cách hiểu thơng thường về trình độ học vấn, mà cịn
là hiểu biết về bản chất của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa và năng lực hoạt
động của những người sáng lập, nghĩa là khả năng của những xã viên trong
việc hợp tác cùng nhau để phát triển hợp tác xã của họ. Văn hóa hợp tác xã là
văn hóa cộng đồng, văn hóa cùng chia sẻ lợi ích và trách nhiệm một cách tự
nguyện, bình đẳng, là văn hóa “mỗi người vì mọi người và mọi người vì mỗi
người”... Để có được văn hóa này cần có một quá trình giáo dục cơng phu,

thường xun và lâu dài. Khơng có văn hóa cộng đồng thì cho dù trình độ học
vấn có cao bao nhiêu đi nữa cũng khó mà phát triển được hợp tác xã theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.5.5. Yếu tố tâm lý, xã hội và chính trị
Yếu tố tâm lý - xã hội thể hiện ở các khía cạnh: tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng...; dân tộc; giai cấp; tầng lớp; thế hệ, họ hàng; quan hệ đồng
nghiệp, bạn bè, làng bản, cộng đồng; an ninh xã hội; nghèo đói, việc làm,...
Các yếu tố về mặt tâm lý - xã hội luôn ảnh hưởng đến thái độ, cách làm, kết
quả, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các thành viên trong các hợp tác xã
dịch vụ sản xuất lúa, cũng như nói lên tính chất, đặc trưng của mơ hình hợp
tác xã dịch vụ sản xuất lúa.
Yếu tố chính trị thường biểu hiện qua: tư duy chính trị và quản lý của
Nhà nước. Mọi biểu hiện của yếu tố về chính trị đều tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến các yếu tố luật pháp, yếu tố kinh tế, văn hóa, khoa học - cơng


20
nghệ, yếu tố tâm lý - xã hội và cả trong quá trình hoạt động và phát triển các
hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa và đối tượng khác trong xã hội.
1.1.5.6. Yếu tố môi trường
Yếu tố môi trường có ảnh hưởng lớn đến hoạt động dịch vụ của hợp tác
xã dịch vụ sản xuất lúa. Trong đó, bao gồm cả môi trường quốc tế và môi
trường sinh thái.
Trong thời đại hội nhập và phát triển, phân công và hiệp tác quốc tế
ngày càng sâu rộng, vì vậy sự tác động của môi trường quốc tế đối với hoạt
động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là rất nhanh nhạy và to lớn. Đó là sự
tác động về chính trị, kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, môi trường sinh
thái ở mọi quốc gia, điều đó làm cho việc xây dựng và phát triển vừa có
những cơ hội thuận lợi, đồng thời cũng tạo ra những thách thức khó lường khi
Việt Nam gần hết thời gian phải thực hiện các cam kết giàng buộc về thuế

quan đối với Tổ chức thương mại thế giới.
Môi trường sinh thái có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hiệu quả
hoạt động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa. Vì vậy, việc bảo vệ mơi sinh
cũng như phòng tránh những yếu tố tự nhiên bất lợi đến việc sản xuất và hoạt
động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa, việc xây dựng và phát triển ngành
nông nghiệp bền vững là nhiệm vụ tất yếu, quan trọng và thường xuyên đối
với hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa.
Trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập và phát triển, xu hướng tăng
trưởng, cạnh tranh và phát triển kinh tế bền vững đều không thể khơng tính
đến yếu tố mơi trường. Vì vậy, mơi trường quốc tế và môi trường sinh thái
vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu của mọi hoạt động trong xã hội nói chung và
của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa nói riêng.
1.1.5.7. Năng lực nội tại của hợp tác xã
Năng lực nội tại của hợp tác xã bao gồm các điều kiện về trình độ của
người lao động, vốn, đất đai, cơ sở vật chất - kỹ thuật, các dịch vụ đầu vào,


21
đầu ra trong quá trình hoạt động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa và sản
xuất của xã viên.
- Trình độ của của người lao động ảnh hưởng lớn đến nâng cao chất
lượng và sản lượng lúa. Trình độ của người lao động ở hợp tác xã dịch vụ sản
xuất lúa thường có điểm xuất phát thấp, nên phải bằng mọi cách nâng cao
công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đối tượng này. Đối với cán bộ quản lý
hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa và xã viên cần phải hiểu về khoa học quản lý.
Hiện nay quản lý được xem là một yếu tố "đầu vào" hết sức quan trọng của quá
trình sản xuất - kinh doanh. Hiệu quả của quản lý phụ thuộc vào năng lực và
phẩm chất của cán bộ và các xã viên cốt cán ở hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa.
Thực tế ở nuớc ta đã chứng minh điều đó, nhiều hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa
hoạt động tốt, đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao thu nhập của xã viên và

cộng đồng chủ yếu là do cán bộ chủ chốt ở đó ln năng động, sáng tạo trong
cơng tác quản lý. Vì vậy, vấn đề nâng cao trình độ của người lao động nói chung
và nâng cao năng lực quản lý của cán bộ và xã viên nịng cốt nói riêng là điều
kiện có tính quyết định đối với hoạt động của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa.
- Vốn của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa quyết định đến đầu tư, thực
hiện các dịch vụ, quy mô sản xuất và hoạt động,... Vì vậy, nguồn vốn có vai
trị quan trọng cho hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa tham gia trực tiếp thực hiện
việc đầu tư, các dịch vụ, quy mô hoạt động,... hay trung gian đứng ra ký kết
với bên ngoài để thực hiện các nhiệm vụ trên. Tuy nhiên, trên thực tế các hợp
tác xã dịch vụ sản xuất lúa thường nguồn vốn đóng góp ban đầu của xã viên
khơng nhiều, vì vậy các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa không thể trực tiếp
thực hiện hết các dịch vụ đầu vào và đầu ra cho xã viên hợp tác xã. Nhà nước
cần ưu tiên đầu tư hỗ trợ nguồn vốn cho hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa hoạt
động. Mặc khác, tạo cơ chế để các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa huy động
thêm từ nhiều nguồn khác.
Để việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, một mặt hợp tác xã dịch


22
vụ sản xuất lúa phải có chiến lược hoạt động phù hợp với thị trường, mặt khác
phải chú ý nâng cao chất lượng đội ngũ nghiệp vụ kế toán của hợp tác xã.
- Đất đai của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa là do xã viên đóng góp,
ngồi ra hợp hợp tác xã có thể thuê của người khác. Đất đai là tư liệu sản xuất
cơ bản và đặc trưng của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa. Diện tích đất thể hiện
lợi thế so sánh trong sản xuất của các hợp tác xã sản xuất lúa. Độ màu mỡ của
đất đai và giá trị sản xuất/ha phụ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên, kỹ thuật,
quản lý, khoa học công nghệ.
Để phát triển sản xuất lúa hàng hóa, xóa bỏ tình trạng sản xuất tự cung,
tự cấp, manh mún, hiệu quả thấp, chưa khai thác tốt tiềm năng đất đai, hợp tác
xã dịch vụ sản xuất lúa phải vươn lên về mọi mặt và phải nâng cao năng lực

của kinh tế hộ, năng lực quản lý, hoạt động của mình bằng cách tập trung đất
đai và chuyển đổi cơ cấu giống theo hướng sản xuất hàng hố với quy mơ lớn
và sản xuất theo nhu cầu thị trường.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa như:
trình độ của công cụ sản xuất, các phương tiện dịch vụ, kết cấu hạ tầng là điều
kiện quan trọng để tăng năng xuất, chất lượng sản phẩm, hợp tác, cạnh tranh
của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa. Hiện tại cơ sở vật chất - kỹ thuật của hợp
tác xã dịch vụ sản xuất lúa ở nước ta còn lạc hậu, do đó, để nâng cấp cơ sở vật
chất - kỹ thuật các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa cần kêu gọi đầu tư từ nhiều
nguồn, hợp tác, liên kết và gắn với quy hoạch phát triển nông thôn.
Năng lực nội tại của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa và sự quản lý có
hiệu lực của Nhà nước là những điều kiện chủ yếu cho sự phát triển vững
chắc của hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa trong giai đoạn hiện nay và tương lai.
1.2. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ SẢN XUẤT
LÚA Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

1.2.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hậu Giang
Trong thời gian qua, phong trào hợp tác xã ở Hậu Giang có sự chuyển


23
biến tích cực. Đến nay, tồn tỉnh có 190 hợp tác xã nơng nghiệp, trong đó có
125 hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa, diện tích thực hiện dịch vụ trên 11.000ha,
với tổng số vốn điều lệ tới trên 58 tỷ đồng, thu hút trên 3.641 xã viên và giải
quyết việc làm cho hơn 7.711 lao động.
Để đạt được thành tựu nói trên, tỉnh Hậu Giang thực hiện một số biện
pháp sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về kinh tế hợp tác và hợp tác xã dịch
vụ sản xuất lúa. Công tác tuyên truyền vận động được xác định là nhiệm vụ
trọng tâm trong xây dựng và phát triển các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa

trên địa bàn và được chú trọng đổi mới cả về nội dung và hình thức. Liên
minh Hợp tác xã của tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương và các ban,
ngành, đoàn thể thực hiện việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Trung
ương và của địa phương liên quan đến phát triển hợp tác xã dịch vụ sản xuất
lúa cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cốt cán từ cấp
tỉnh đến xã, phường, thị trấn và cho đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã, giám
đốc, phó giám đốc các hợp tác xã, tổ trưởng, trưởng nhóm các tổ, các nhóm
sản xuất; cho cán bộ hội viên của các đồn thể và các tầng lớp dân cư. Từ đó
làm thay đổi nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về hợp
tác xã dịch vụ sản xuất lúa, về sự cần thiết và lợi ích của việc liên kết hợp tác
trong sản xuất.
- Xây dựng mơ hình hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa phù hợp, từ thấp
đến cao (tổ hợp tác, tổ liên kết, tổ hùn vốn, câu lạc bộ sản xuất - kinh doanh),
từ đơn dịch vụ đến đa dịch vụ, không mặc “áo đồng phục” mà phải gắn liền
với điều kiện thực tế ở từng địa phương và chỉ thành lập khi thực sự có nhu
cầu để làm cơ sở cho việc hình thành nên các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa
hoạt động hiệu quả.
- Tăng cường các biện pháp tư vấn, hướng dẫn hoạt động đối với các
hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa. Chỉ tính trong 06 tháng đầu năm 2013, Liên


24
minh Hợp tác xã tỉnh đã hướng dẫn cho 14 hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa
củng cố nhân sự, xây dựng điều lệ, xây dựng phương án sản xuất - kinh
doanh, quyết tốn tài chính; giúp 02 hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa về trình
tự thành lập hợp tác xã. Tư vấn, hỗ trợ cho nhiều hợp tác xã dịch vụ sản xuất
lúa về chương trình và nội dung tổ chức đại hội xã viên, về thủ tục đăng ký
đào tạo, bồi dưỡng cho xã viên và người lao động, về tiếp cận nguồn vốn kích
cầu của Chính phủ,…
- Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hợp tác xã dịch vụ sản xuất

lúa về nghiệp vụ chuyên môn và quản lý.
- Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa tiếp
cận các nguồn vốn ưu đãi, nguồn vốn tín dụng,…
- Cùng với việc vận động thành lập mới các hợp tác xã dịch vụ sản xuất
lúa đã hội đủ các điều kiện theo Luật Hợp tác xã năm 2012, tỉnh còn mạnh
dạn giải thể những hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa hoạt động kém hiệu quả. Từ
đó các hợp tác xã dịch vụ sản xuất lúa hoạt động kém hiệu quả cũng giảm dần.
1.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai
Hiện nay Đồng Nai có 72 hợp tác xã nông nghiệp và dịch vụ nông
nghiệp, 02 liên hiệp hợp tác xã, 1.757 xã viên, giải quyết thường xuyên cho
hơn 1.1.09 lao động. Trong đó có 30 hợp tác xã thuộc loại hình dịch vụ nơng
nghiệp, 29 hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp và 03 hợp tác xã
chuyên ngành, với tổng vốn điều lệ đăng ký là 237.519 triệu đồng, bình quân
3.298,88 triệu đồng/hợp tác xã, 40 hợp tác xã có trụ sở làm việc chiếm 55,56%,
trong đó có 24 hợp tác xã được chính quyền địa phương cho mượn trụ sở và 11
hợp tác xã nông nghiệp được cấp 5.290m2 đất làm văn phòng [48].
Số lượng thành viên hội đồng quản trị là 130 người, trong đó có 43
người có trình độ đại học, 29 cao đẳng và 32 trung cấp; 30 kế tốn, trong đó
có 07 người có trình độ đại học; 03 cao đẳng và 20 trung cấp [48].
Năm 2013, tổng doanh thu của 27 hợp tác xã nông nghiệp đạt


25
73.566,9 triệu đồng, bình quân 2.724,7 triệu đồng/hợp tác xã. Như vậy, ngồi
15 hợp tác xã nơng nghiệp mới thành lập năm 2012 và 2013 chưa có doanh
thu, cịn 30 hợp tác xã nông ghiệp chưa báo cáo doanh thu là những hợp tác
xã chưa lập sổ sách chứng từ hoặc kinh doanh khơng hiệu quả nên khơng có
báo cáo [48].
Lương cán bộ quản lý của hợp tác xã nông nghiệp bình qn 9,13 triệu
đồng/người/năm (26 hợp tác xã nơng nghiệp có báo cáo). Lương lao động

thường xun bình qn 12,4 triệu đồng/người/năm (22 hợp tác xã nơng
nghiệp có báo cáo) [48].
Năm 2013, trong số 72 hợp tác xã nông nghiệp có 22 hợp tác xã xếp
loại khá, 21 hợp tác xã xếp loại trung bình, 11 hợp tác xã xếp loại yếu, 05 hợp
tác xã ngưng hoạt động chờ giải thể và 13 hợp tác xã mới thành lập chưa đi
vào hoạt động [48].
* Các chính sách hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp
- Đã tổ chức tuyên truyền Luật Hợp tác xã năm 2003, năm 2012, các
văn bản dưới luật và các chính sách hỗ trợ hợp tác xã cho tất cả thành viên hội
đồng quản trị và xã viên hợp tác xã nơng nghiệp trên tồn tỉnh. Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh phối hợp với ủy ban nhân dân các huyện,
thị xã và thành phố tổ chức tập huấn ngắn hạn được 05 lớp quản lý hợp tác xã
cho 256 cán bộ chủ chốt trong hội đồng quản trị, ban kiểm soát, 02 lớp kế
toán cho 116 kế toán của các hợp tác xã nông nghiệp, 03 lớp bồi dưỡng nâng
cao công tác quản lý và nghiệp vụ chuyên môn cho 03 chức danh: hội đồng
quản trị, ban kiểm soát và kế toán của 60 hợp tác xã nơng nghiệp, ngồi ra
cịn cử cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp đi tập huấn ngắn hạn tại
Trường Cán bộ quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn II và Liên minh
Hợp tác xã Trung ương tổ chức. Ngoài ra, Liên minh Hợp tác xã tỉnh, Sở
Công Thương, Sở Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân các cấp, các đơn vị
thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các trường, trung


×