Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện cao lãnh, tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.34 KB, 118 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phải là vấn đề mới. Từ năm 1986,
đặc biệt từ năm 1989, nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được thực hiện
song song với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế lúc bấy giờ có nhiều sự
khác biệt so với hiện nay như: nước ta chưa gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), chưa xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trầm trọng như
hiện nay. Mặt khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trước đây trong điều
kiện cơ sở hạ tầng, trình độ khoa học - cơng nghệ, đặc biệt là cơng nghệ thơng
tin cịn thấp kém, kinh tế - xã hội cịn lạc hậu, mơi trường cịn chưa bị ơ
nhiễm nặng. Ngày nay, chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO,
nước ta phải thực hiện cải cách cơ bản nền kinh tế vì chúng ta là một bộ phận
cấu thành của nền kinh tế thế giới, mà nền kinh tế thế giới sẽ phát triển theo
hướng tiết kiệm năng lượng, bảo vệ khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo đảm an
sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế ở nước ta chủ yếu theo số lượng. Việc
tăng trưởng do yếu tố đầu tư vốn chiếm khoảng 57,5%, do yếu tố tăng lao
động khoảng 20%. Cả hai yếu tố chiếm khoảng 77,5%, còn yếu tố năng suất
và hiệu quả chiếm 22,5%, trong lúc đó các nước trong khu vực, yếu tố năng
suất và hiệu quả chiếm 36%-40%. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đã
ảnh hưởng mạnh đến tăng trưởng ở nước ta.
Chính do mơ hình kinh tế tăng trưởng theo số lượng như trên và do
kinh tế thế giới khủng hoảng nghiêm trọng hiện nay làm cho hiệu quả sử dụng
vốn, xuất nhập khẩu giảm, nhập siêu và bội chi tăng. Điều đó cho thấy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là hết sức cần thiết để phát triển và ổn định kinh tế vĩ mô,
hạn chế và khắc phục mơ hình kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo số lượng
trong tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới, thực hiện thành công nhiệm vụ



2
CNH, HĐH đất nước, đáp ứng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
Huyện Cao Lãnh có diện tích tự nhiên là 49.082,42 ha, đứng hàng thứ
hai trong tỉnh, có ưu thế phát triển nền nông nghiệp đa dạng, phong phú về
cây trồng, vật nuôi, trong đó tiềm năng phát triển trên lĩnh vực sản xuất cây ăn
trái, cây công nghiệp ngắn ngày và thủy sản của huyện còn rất lớn. Đây là lợi
thế để xây dựng chương trình phát triển nơng nghiệp theo hướng hiện đại
trong thời gian tới của huyện, đồng thời góp phần chiến lược phát triển nông
nghiệp của tỉnh với mức tăng trưởng cao và bền vững.
Trong những năm qua, song song với việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là những cơng trình thuỷ lợi,
hạ tầng thuỷ sản, điện khí hố nơng thơn, xây dựng trạm bơm điện và cơ giới
hố trong nơng nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể. Song song đó,
việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất thông qua việc triển khai thực
hiện các Chương trình, Đề án, Dự án, Kế hoạch, đặc biệt là Đề án phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững đi vào chiều sâu giai đoạn 2007 - 2010 đã
tạo được bước phát triển tích cực trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập cho nông dân,
tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích và hình thành vùng sản xuất
hàng hóa tập trung như: lúa chất lượng cao, cây ăn trái, thủy sản góp phần vào
tốc độ tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp huyện. Nghị quyết Đại hội
Đại biểu đảng bộ huyện Cao Lãnh lần thứ X nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã chỉ rõ:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm (2005 - 2010) ước
đạt 14,25%, tuy chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, nhưng
là tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và cao hơn tốc độ tăng trưởng
bình quân của 5 năm trước 4,56%. Giá trị tổng sản phẩm nội huyện năm 2010
ước đạt 1.516,8 tỉ đồng, đạt 94% kế hoạch và bằng 1,97 lần năm 2005. GDP
bình quân đầu người 7,56 triệu đồng (giá cố định, tương đương 684 USD), đạt
100,5% kế hoạch và bằng 1,93 lần năm 2005 [7].



3
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng khu vực
nông - lâm - thuỷ sản 53,66%; khu vực công nghiệp - xây dựng 19,17% ; khu
vực thương mại - dịch vụ 27,17%. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch khá
nhanh từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, địa phương đã lãnh đạo, chỉ đạo việc xây
dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Đảng về về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và các đề án của huyện, kết quả hầu hết chỉ tiêu
sản xuất nông nghiệp đạt và vượt kế hoạch; sản xuất nông nghiệp tiếp tục
chuyển dịch nhanh từ cây lúa là chính sang đa dạng hố theo hướng chun
canh cây trồng, vật ni có thế mạnh, một số vùng sản xuất tập trung hình
thành và phát triển, nhiều mơ hình sản xuất hiệu quả được nhân rộng.
Tuy nhiên, kinh tế của huyện 05 năm qua vẫn còn một số tồn tại, hạn
chế: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa vững chắc; chuyển dịch cơ
cấu kinh tế chậm, chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết; chuyển dịch cây trồng, vật
nuôi còn dàn trải; việc đầu tư xây dựng và nhân rộng các mơ hình, dự án sản
xuất nơng nghiệp, xây dựng nhãn hiệu trái cây, thực hiện cơ chế phối hợp “4
nhà” chưa đạt yêu cầu. Hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hố nơng sản
cịn thấp. Việc giải phóng mặt bằng và triển khai các dự án trong các cụm
công nghiệp thực hiện chậm. Khu vực thương mại - dịch vụ - du lịch chưa
được đầu tư đúng mức để trở thành mũi đột phá như Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ huyện đề ra. Kết cấu hạ tầng nơng thơn chưa đồng bộ. Kinh tế tập thể tuy
có phát triển nhưng chất lượng, hiệu quả hoạt động hạn chế; kinh tế tư nhân
cịn nhỏ cả về quy mơ, nguồn vốn, công nghệ lạc hậu. Việc quản lý ngân sách
ở một số xã còn lỏng lẻo, vi phạm nguyên tắc tài chính.
Vì vậy, một trong những mục tiêu phấn đấu của huyện trong giai đoạn
2010 - 2015 là:
Thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, toàn

diện, bền vững trên cơ sở ưu tiên phát triển nông nghiệp theo hướng
hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn theo


4
tiêu chí nơng thơn mới; đẩy mạnh phát triển cơng nghiệp, thương
mại - dịch vụ - du lịch gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo
thêm việc làm, nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực; Phát
triển kinh tế bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của các loại sản phẩm. Đẩy mạnh phát triển nơng nghiệp, nơng
thơn theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Xác định sản xuất
nơng nghiệp vẫn là nền tảng để phát triển kinh tế của Huyện [7].
Là một cán bộ công tác tại huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp, phụ trách
mảng kinh tế, tác giả nhận thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng
nghiệp ở huyện Cao Lãnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế, chưa thực sự đạt
được hiệu quả như mong muốn, nông nghiệp dù có tăng trưởng nhưng chủ
yếu theo chiều rộng, hàm lượng giá trị gia tăng trong các sản phẩm nông
nghiệp, từ khu vực nông nghiệp nông thôn thấp, năng lực cạnh tranh có xu
hướng giảm xuống. Vì vậy, dựa trên tình hình thực tiễn tại địa phương, tác giả
chọn vấn đề “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Kinh tế, chuyên
ngành Kinh tế Chính trị, qua đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp
phần thúc đẩy q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại địa
phương một cách hiệu quả, bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu, có thể kể ra những đề tài nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- PGS,TS. Bùi Tất Thắng (2006): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tác giả Bùi Tất Thắng đã khái quát lý luận về chuyển dịch cơ cấu

ngành kinh tế trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hóa, nêu ra những thực
trạng, quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành ở nước ta
giai đoạn hiện nay.


5
- Nguyễn Thị Bích Hường (2005): “Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở
Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Tác giả đã trình bày những vấn đề có tính lý luận về chuyển đổi cơ
cấu ngành kinh tế, hội nhập khu vực và quốc tế. Phân tích mối quan hệ giữa
hội nhập kinh tế với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Phân tích và đánh giá
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta. Đề ra một số phương hướng và
giải pháp chủ yếu cho việc thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế ở nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm Hùng (2001): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo định
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền Đông Nam Bộ hiện nay, Luận án
tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận án đã nghiên cứu q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực
nông thôn trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên phạm vi tương đối
rộng, bao qt tồn bộ miền Đơng Nam bộ. Q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng thơn đã tác động tích cực đến q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa của các tỉnh Đơng Nam bộ, làm thay đổi bộ mặt của nơng thơn Đơng
Nam bộ. Từ đó, luận án đã đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hợp lý, tiến bộ, nâng cao trình độ
sản xuất của người nông dân.
- Phan Văn Nhung (2008): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở
Tỉnh Vĩnh Long, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích cơ sở lý luận và thực trạng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long là một tỉnh nơng
nghiệp có nhiều điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương đồng với Đồng

Tháp. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận văn tương đối rộng, trên phạm
vi tồn tỉnh nên có những điểm khác biệt lớn so với nghiên cứu trên phạm vi
nhỏ của một huyện nông nghiệp như huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
- Lê Quang Điệp (2008), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh
Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc
gia Hà Nội.


6
Đề tài khái quát hóa một số cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế, kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của
một số địa phương và bài học kinh nghiệm cho Thanh Hóa. Nghiên cứu thực
trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thanh Hóa từ năm 2001-2007,
chỉ rõ quá trình chuyển dịch trên các mặt: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
theo GDP, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế theo vốn
đầu tư và trong nội bộ các ngành kinh tế.
Các cơng trình trên mới chỉ đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trên bình diện cả nước nói chung, một số vùng miền hoặc ở một số tỉnh nói
riêng, chưa có cơng trình nào đi sâu vào nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một huyện thuần nông như huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố và hội nhập nền kinh tế quốc tế như hiện nay. Vì vậy đề tài
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp” là một vấn đề cần nghiên cứu, phân tích và có ý nghĩa thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung phân tích thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên địa bàn huyện Cao Lãnh dưới sự tác động của quá trình hình
thành các khu cơng nghiệp và khu đơ thị mới, chỉ ra những thành tựu đạt
được, những mặt hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất

phương hướng, giải pháp thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện
Cao Lãnh theo hướng bền vững nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh phát
triển hơn nữa kinh tế - xã hội của huyện.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở cấp huyện.
- Phân tích q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện
Cao Lãnh giai đoạn 2010 - 2013.


7
- Đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy nhanh q trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp ở huyện Cao Lãnh nhằm khai thác các tiềm
năng, thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu là từ năm 2010 đến nay và phương
hướng, giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
- Luận văn dựa trên các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
- Luận văn cũng kế thừa có chọn lọc các cơ sở lý luận và thực tiễn
nghiên cứu của các nhà khoa học. Đồng thời sử dụng các tài liệu liên quan
đến tình hình thực tiễn trên địa bàn.
- Trên cơ sở thu thập các tài liệu có liên quan và khảo sát tình hình thực tế
tại một số địa phương trên địa bàn. Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê,
phân tích - tổng hợp và phương pháp so sánh để làm rõ những vấn đề nêu trên.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn tập trung phân tích thực trạng q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp trên địa bàn huyện, chỉ ra những thành tựu đạt được,
những mặt hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng, giải pháp thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
huyện Cao Lãnh theo hướng bền vững.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu cho cơng tác quy
hoạch, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở cấp huyện dưới sự tác động của
quá trình hình thành các khu công nghiệp và khu đô thị mới, nhất là đối với
huyện Cao Lãnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN
1.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NƠNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM

1.1.1. Mợt số khái niệm
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Khái niệm cơ cấu kinh tế
Theo quan điểm duy vật biện chứng, quan điểm hệ thống thì mỗi hiện
tượng hay sự vật là một hệ thống, bao gồm các phần tử liên kết, phối hợp chặt
chẽ với nhau trong thế vận động và phát triển. Trong tiếng Việt, cơ cấu
thường được mô tả cấu trúc, bộ phận cấu thành của một tổng thể nào đó. Vậy

ta có thể hiểu cơ cấu là một thuật ngữ chỉ cấu trúc của một đối tượng bao
gồm các bộ phận hợp thành và mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn định của
đối tượng trong một thời gian nhất định.
Nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng là một thể thống nhất bao gồm
nhiều bộ phận hợp thành, có tỷ lệ và mối quan hệ tương tác với nhau. Vì vậy,
nó cũng có cơ cấu riêng, gọi là cơ cấu kinh tế (CCKT).
Theo giáo trình Kinh tế chính trị của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh thì:
Cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các
thành phần kinh tế... Trong hệ thống các cơ cấu đó, cơ cấu ngành là
quan trọng nhất, bao gồm những ngành giao thông vận tải, xây dựng
cơ bản và các ngành trong lĩnh vực phân phối, lưu thông đủ sức
phục vụ cho công nghiệp, nông nghiệp phát triển thuận lợi [9, tr.85].
Như vậy, có thể hiểu, CCKT là tổng thể hữu cơ các ngành, các vùng,
các thành phần kinh tế và tỷ trọng của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần
kinh tế trong tổng thể nền kinh tế. CCKT thường được tính bằng các chỉ tiêu


9
như tỷ trọng GDP của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế trong
tổng GDP của cả nước; tỷ trọng lao động của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi
thành phần kinh tế trong tổng số lao động xã hội; tỷ trọng vốn đầu tư của mỗi
ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế trong tổng vốn đầu tư của nền kinh
tế; tỷ trọng đóng góp vào ngân sách nhà nước của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi
thành phần kinh tế ...
Hiện nay ở nước ta, người ta phân ra cơ cấu ngành gồm công nghiệp và
xây dựng - nông, lâm, ngư nghiệp - dịch vụ; cơ cấu thành phần kinh tế: 5
thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế: Bắc, Trung, Nam. Trong mỗi vùng
lại có thể phân ra nhiều tiểu vùng khác nhau: vùng đồng bằng, trung du, miền
núi, nông thôn, thành thị, thị trấn, thị tứ ...

Trong CCKT có sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Theo C.Mác, CCKT của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất. Đặc
điểm của CCKT.
Thứ nhất, CCKT mang tính khách quan, phản ánh và chịu sự tác động
của quy luật khách quan. Vai trò của yếu tố chủ quan là thông qua nhận thức
ngày càng sâu sắc những quy luật đó, phân tích đánh giá những xu hướng
phát triển khác nhau, thậm chí mâu thuẩn để tìm ra những phương án thay đổi
cơ cấu cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước, cũng như của
từng địa phương, từng vùng, từng ngành trong qúa trình phát triển kinh tế.
Đối với một quốc gia hay một ngành, một địa phương CCKT được nhận thức
và phản ánh ở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, ở các chương trình, dự
án, kế hoạch phát triển của Nhà nước, của ngành hay của địa phương.
Thứ hai, CCKT mang tính lịch sử xã hội. Thực tế cho thấy, nền kinh tế
chỉ có thể phát triển khi giữa các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội xác
lập được những quan hệ tỷ lệ cân đối nhất định của phân công lao động xã
hội. Giữa các nền sản xuất, những yêu cầu về số lượng, về chất lượng, cách
thức thực hiện, những tỷ lệ cân đối là khác nhau, sự khác nhau ấy là do quy


10
luật kinh tế đặc thù quy định, do điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau qui định.
CCKT gắn liền với sự biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ
phận trong nền kinh tế và những mối quan hệ giữa chúng. Chỉ khi nào giải
quyết tốt, hợp lý những vấn đề đó thì tồn bộ q trình tái sản xuất mới diễn
ra trơi chảy và đem lại hiệu quả cao.
Thứ ba, CCKT luôn luôn vận động và phát triển theo chiều hướng ngày
càng hợp lý, hồn thiện và đạt hiệu quả cao. Đó là sự vận động và phát triển
không ngừng của lực sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng ở trình
độ cao, phạm vi ngày càng mở rộng hơn. Khi những tiến bộ của khoa học, kỹ

thuật và công nghệ tác động làm cho lực lượng sản xuất và cấu trúc của nó có
sự nhảy vọt về chất, tạo điều kiện cho con người có ý thức để thực hiện có
hiệu quả chiến lược phát triển đồng bộ, hợp lý trong quá trình tái sản xuất xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thứ tư, CCKT vận động theo hướng ngày càng tăng cường mở rộng sự
hợp tác, phân công lao động trong nước và quốc tế. Trong nền kinh tế thị
trường, sự vận động khách quan của CCKT theo hướng mở rộng sự hợp tác
và phân công lao động diễn ra không chỉ ở trong phạm vi mỗi ngành, mỗi vùng,
mỗi quốc gia mà còn mở rộng ra các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó,
mỗi quốc gia muốn phát triển nhanh cần xác định được CCKT trên cơ sở lợi thế
của mình gắn với thị trường trong nước và quốc tế, nhằm tạo ra CCKT hợp lý,
thúc đẩy nhanh q trình quốc tế hóa nền kinh tế quốc dân.
CCKT được xem xét dưới các góc độ: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ
cấu thành phần kinh tế, trong đó cơ CCKT ngành là quan trọng nhất, là trụ cột
quyết định các hình thức CCKT khác.
CCKT ngành thể hiện trình độ phát triển lực lượng sản xuất của mỗi
quốc gia, mỗi vùng, của từng địa phương - tức là phản ánh mặt kinh tế - kĩ
thuật; cơ cấu vùng kinh tế có ý nghĩa đối với nhiệm vụ hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hòa giữa các
vùng miền, đồng thời phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, miền -


11
tức phản ánh tiềm lực kinh tế và quy hoạch, định hướng phát triển tiềm lực
đó; Cơ cấu các thành phần kinh tế phản ánh mặt xã hội của hoạt động kinh tế
- do đó nó phản thể hiện cấu trúc dân cư, các tập đồn lợi ích ...
Nơng nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Bản thân ngành nông nghiệp cũng là một hệ thống phức tạp với
nhiều bộ phận hợp thành. Theo đó, có thể hiểu CCKT nơng nghiệp là tổng thể
các yếu tố hợp thành nền nông nghiệp theo những quan hệ nhất định cùng với

sự tác động qua lại lẫn nhau gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể (điều
kiện tự nhiên, trình độ cơng nghệ, trình độ phân cơng lao động, trình độ tổ
chức quản lý…) nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đã định - theo
đó, cơ cấu nơng nghiệp được đề cập ở đây theo nhóm CCKT ngành.
Cũng như CCKT nói chung, CCKT nơng nghiệp mang tính khách quan,
lịch sử, xã hội và luôn gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự
phân công lao động xã hội… chuyển dịch từ thấp đến cao, từ giản đơn đến
phức tạp dưới tác động của quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội. Trong nền kinh
tế thị trường, CCKT nói chung, CCKT nơng nghiệp nói riêng chịu tác động
của quy luật cung cầu, giá trị và cạnh tranh. Do vậy, xây dựng CCKT nơng
nghiệp khơng thể duy ý chí, mà phải nhận thức đúng đắn sự vận động của quy
luật khách quan, vận dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể.
CCKT nơng nghiệp hình thành, biến đổi gắn liền với sự phát triển của
cơ chế thị trường, từ kinh tế tự nhiên dần dần chuyển thành kinh tế hàng hóa,
q trình này tác động và thúc đẩy ngành nơng nghiệp phát triển đa dạng và
năng động theo hướng tiên tiến.
1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch CCKT là sự biến đổi CCKT từ trạng thái này sang trạng
thái khác trên cơ sở phù hợp với điều kiện khách quan và chủ quan, đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển
Về lượng: Xuất hiện thêm những yếu tố kinh tế mới hay mất đi một số
yếu tố kinh tế đã có, đó là sự biến đổi về số lượng, quy mô, tỷ trọng giữa các
ngành, lĩnh vực, bộ phận hợp thành CCKT.


12
Về chất: đó là sự biến đổi nhiều mặt trong đó đầu tiên và quan trọng nhất
là sự biến đổi về kinh tế - kỹ thuật - công nghệ sử dụng trong các ngành, lĩnh
vực, bộ phận của nền kinh tế; từ đó làm biến đổi cơ chế quản lý, phân phối … và
cuối cùng phải làm thay đổi quan hệ sở hữu cùng với các quan hệ kinh tế khác.

Sự thay đổi bộ phận dẫn đến thay đổi cơ cấu và theo đó là tồn bộ nền
kinh tế. Cho nên chuyển dịch CCKT xảy ra như là kết quả của q trình phát
triển đó, trước hết là một tất yếu kinh tế, tất yếu của tăng trưởng và phát triển.
Mặc dù vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - trước hết phải là quá trình cải tạo cơ
cấu cũ đã lạc hậu, không phù hợp để thay vào một cơ cấu mới hợp lý hơn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự thay đổi ngành nghề sản
xuất - kinh doanh, các khâu, các bộ phận vốn có của nơng nghiệp, có sự thay
đổi quan hệ, tỷ lệ giữa chúng và có sự thay đổi cách tổ chức, bố trí các nguồn
nhân lực, vật lực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nơng
nghiệp nói riêng là sự thay đổi một kết cấu kinh tế, thay đổi cả chất và lượng
của nền kinh tế, do đó nó là một q trình cách mạng lâu dài và khó khăn, cần
tiến hành từng bước với qui mơ và trình độ thích hợp. Trước u cầu phát
triển nền kinh tế thị trường sự thay đổi đó tuy khó khăn nhưng nhất thiết phải
làm từ cơ sở, vùng lãnh thổ đến cả nước, sự thay đổi đó là tất yếu, hợp quy luật,
đúng theo xu hướng phát triển. Bởi lẽ, trước sự chuyển đổi của nền kinh tế đất
nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, bản thân cơ cấu kinh tế kiểu cũ bộc lộ nhiều
hạn chế, đó là cơ cấu bó hẹp, khép kín, khơng phải là cơ cấu để sản xuất hàng
hoá, do vậy sản xuất chậm phát triển, thu nhập thấp, đời sống khó khăn...
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm những nội dung cơ
bản như sau:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp một cách khoa học và
hợp lý là giảm tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị


13
sản xuất ngành chăn nuôi, thủy sản. Trong trồng trọt thì giảm tỷ trọng sản
xuất lúa, tăng tỷ trọng diện tích cây rau màu có giá trị kinh tế cao ở cả 3 vụ

(Đông Xuân, Hè Thu và Thu Đông) để đạt hiệu quả cao hơn trên một đơn vị diện
tích sản xuất. Hiện nay, đối với các địa bàn thuộc đồng bằng sông Cửu Long sản
xuất lúa vẫn là nhiệm vụ quan trọng góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia. Do vậy, cần chuyển dịch cơ cấu trà lúa, giống lúa để có năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao trong sản xuất lúa. Tiếp tục chuyển mạnh một phần diện tích
đất trũng, bãi bồi sang đào ao ni cá, lập vườn để có giá trị kinh tế cao, hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa trong nơng nghiệp. Từng bước tăng tỷ trọng
chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp, xác định hợp lý cơ cấu đàn lợn, đàn gia
cầm, đàn bị. Thực hiện phương thức chăn ni kết hợp chế biến, tiêu thụ sản
phẩm để có hiệu quả kinh tế. Từng bước phát triển thuỷ sản trở thành thế mạnh,
kết hợp ni thả những giống cá có hiệu quả kinh tế cao với việc phát triển hệ
thống tiêu thụ, đưa giá trị thu nhập ở khu vực này tăng cao hàng năm.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng
Chuyển dịch CCKT theo vùng thể hiện sự tái phân công lao động theo
vùng lãnh thổ. Dựa trên những lợi thế về điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế xã hội của mỗi vùng mà hình thành các vùng kinh tế. Các vùng kinh tế này có
những đặc điểm khác nhau nhưng có điểm chung là dựa vào những lợi thế đó
để khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng kinh tế trong vùng nhằm
tạo ra sự phát triển.
Kinh tế vùng và chuyển dịch CCKT vùng nhằm khai thác những lợi thế
từ lao động, từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên để xây dựng một chiến lược
phát triển sản xuất - kinh doanh theo hướng chun mơn hố, đa dạng hố.
Chuyển dịch cơ cấu vùng cịn làm cho những diện tích đất trước đây
chưa sử dụng, hoặc sử dụng chưa hiệu quả, hoặc chưa chuyển đổi được sang
hướng sản xuất phù hợp được sử dụng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, khi có
một CCKT vùng hợp lý sẽ thu hút được vốn đầu tư từ bên ngồi nhằm duy trì
và phát triển kinh tế vùng đó.


14
Trong nền kinh tế thị trường, ở mỗi vùng, ngành nào có ưu thế cạnh

tranh sẽ phát triển nhanh. Từ đó, kéo theo các ngành khác có liên quan cùng
phát triển cả về qui mô và tốc độ theo một quan hệ, tỷ lệ nhất định, qua đó đạt
hiệu quả kinh tế cao nhất của vùng.
Xác định CCKT vùng hợp lý sẽ tạo cơ sở để khai thác và sử dụng có
hiệu quả hơn những tiềm năng về tài nguyên, sức lao động, cơ sở vật chất
hiện có của từng vùng. Điều này quyết định tốc độ phát triển kinh tế hàng hố
ở nơng thơn mỗi vùng cũng như cả nước. Khi có biến đổi lớn trong vùng kinh
tế về kết cấu hạ tầng và tình hình kinh tế - xã hội như hệ thống giao thơng,
thuỷ lợi, trình độ dân trí, vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ, đặc biệt là sự xuất
hiện của những tiến bộ mới trong công nghệ sinh học, nhu cầu mới của thị
trường… sẽ xuất hiện những ngành sản xuất - kinh doanh mới có hiệu quả
kinh tế cao hơn.
Để phát triển các ngành mũi nhọn ở các vùng kinh tế nông thôn, trong
quá trình xây dựng và phát triển CCKT vùng cần coi trọng tác động vĩ mô của
Nhà nước thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách như: Khuyến nơng,
xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi và những thông tin cần thiết…
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo mục tiêu kinh tế - xã hội
Trong nền kinh tế thị trường ln tồn tại những hình thức sở hữu khác
nhau. Chính sự đa dạng hố sở hữu đã quyết định sự tồn tại của các thành
phần kinh tế. Sự khác nhau giữa các thành phần kinh tế thể hiện ở trình độ xã
hội hố, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ tổ chức quản lý,
phương thức phân phối sản phẩm và các mối quan hệ về lợi ích. Mỗi thành
phần kinh tế có bản chất và những đặc điểm riêng. Lợi ích của các thành phần
kinh tế vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn và có mối quan hệ với nhau, cùng tồn
tại với nhau trong một nền kinh tế. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần đã trở thành tất yếu trong đời sống xã hội của nhiều nước trên thế
giới. Do đó, phải tạo điều kiện để các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát
triển trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chuyển dịch cơ cấu thành



15
phần kinh tế trong nông nghiệp ở nước ta được thực hiện theo hướng đảm bảo để
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thúc đẩy
các thành phần kinh tế cùng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư
nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Theo đó, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp cần phải hướng tới làm thay
đổi, chuyển hóa các quan hệ kinh tế - mà trước hết phải là các quan hệ kinh tế
cơ bản.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đối với lao động
Chuyển dịch CCKT theo lao động là sự tái phân cơng lao động dựa vào
các lợi thế trong q trình phát triển sản xuất. Chuyển dịch CCKT theo lao
động nhằm tạo ra đủ việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và đời
sống cho người lao động, phát huy năng lực của lao động, đóng góp hiệu quả
hơn cho khu vực, cho vùng, cho đất nước, cho sự phát triển và ổn định kinh
tế. Chuyển dịch CCKT theo lao động được thực hiện trên cơ sở kế hoạch,
chiến lược qui hoạch đội ngũ cán bộ, công nhân, nông dân… theo một cơ cấu
hợp lý để từ đó phát huy được thế mạnh về lao động.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp đối với cơng nghệ
Trình độ cơng nghệ trong sản xuất nông nghiệp nước ta từng bước được
nâng cao, cơ sở vất chất kỹ thuật của nông nghiệp ngày càng hiện đại, khai
thác có hiệu quả hơn những tiềm năng to lớn của nền nông nghiệp nhiệt đới
phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, bối cảnh
phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện khoa học
công nghệ trên thế giới phát triển cao, nhất là cơng nghệ tin học, cơng nghệ
sinh học, địi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo trình độ cơng nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Xu hướng chung hiện
nay là phải tăng tỷ trọng công nghệ sản xuất và quản lý hiện đại kết hợp với
khai thác lợi thế của công nghệ truyền thống.



16
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cấp huyện
1.1.2.1. Đặc điểm kinh tế cấp huyện ở Việt nam
- Bị chi phối bởi phân công xã hội - bị chi phối bởi cơ cấu kinh tế tỉnh
và quốc gia. Cấp huyện là đơn vị hành chính - kinh tế trong phạm vi tỉnh và
quốc gia, vì vậy, đặc điểm kinh tế cấp huyện trước hết chịu sự chi phối bởi sự
phân công lao động trong phạm vi tỉnh và quốc gia nói chung. Nếu đặc điểm
kinh tế cấp tỉnh là thuần nơng, trình độ lực lượng sản xuất cịn hạn chế thì
kinh tế cấp huyện cũng có tỷ trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn chiếm
phần lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện.
- Bị chi phối bởi yếu tố nông nghiệp và nông thôn: cấp huyện với đặc
trưng là hoạt động sản xuất nông nghiệp, người dân làm việc chủ yếu trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn do đó, cơ cấu kinh tế cấp huyện bị chi phối bởi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Và theo đó, kinh tế cấp huyện bị chi phối,
phụ thuộc vào vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, truyền thống, tập quán.
1.1.2.2. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế nông nghiệp cấp huyện
CCKT nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện (sau đây gọi là cơ cấu kinh
tế nông nghiệp cấp huyện - viết tắt là CCKTNNCH) vừa có những đặc trưng
chung của CCKT nơng nghiệp nói chung, lại vừa có đặc trưng riêng của cấp
huyện với những đặc điểm mang tính đặc thù, được biểu hiện như sau:
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện bị chi phối mạnh
mẽ bởi cấu trúc của kinh tế nông thơn.
Điều đó biểu hiện ở chỗ, trong CCKT nơng nghiệp trên địa bàn cấp
huyện, nông nghiệp, thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành và chúng
chỉ có thể chuyển biến khi CCKT nơng nghiệp biến đổi theo hướng có tính
quy luật “giảm tương đối và tuyệt đối số người lao động hoạt động trong khu
vực nông thôn với tư cách là lao động tất yếu” lao động này ngày càng thu
hẹp để tăng lao động thặng dư.

Cơ cấu kinh tế nơng nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra
đời và phát triển của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá.


17
Từ thời kỳ kinh tế sinh tồn chuyển sang thời kỳ du canh, du mục, tự cấp
tự túc, nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn này đồng nhất với nền kinh tế nơng
nghiệp mà cơ cấu của nó là hai ngành trồng tỉa lương thực và chăn thả đại gia
súc gắn liền với hai bộ phận trồng trọt và chăn nuôi. Trong bối cảnh này, kinh
tế cấp huyện đồng nghĩa với kinh tế nông nghiệp. Chỉ khi chuyển sang thời kỳ
nơng nghiệp sản xuất hàng hố, cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp
huyện mới được hình thành và vận động theo hướng đa dạng, có hiệu quả, sự
phân công lao động chi tiết, tỉ mỉ hơn, từ đó những loại cây trồng, vật ni có
hiệu quả kinh tế cao được phát triển và mở rộng, mở mang nhiều ngành nghề,
dần dần đưa kỹ thuật và công nghệ mới vào nông thôn, mở rộng và phát triển
các loại hình tiểu thủ cơng nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ nông thôn.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện bị chi phối bởi điều
kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên, bao gồm: độ ẩm, ánh sáng, lượng mưa… tức là
những nguồn lực của đầu vào được ban phát bởi tạo hố. Cơ cấu kinh tế nơng
nghiệp hướng tới sự chuyển dịch nhằm khai thác tối ưu và cải thiện điều kiện
tự nhiên để có lợi cho con người nhất. Đặc trưng cơ bản của CCKT nông
nghiệp cấp huyện là tác động hàng loạt của các quy luật tự nhiên, kinh tế - xã
hội đến phát triển toàn diện của nơng thơn. Q trình xác lập và biến đổi
CCKT nông nghiệp cấp huyện như thế nào là phụ thuộc vào các điều kiện
kinh tế - xã hội, những điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên nhất định chứ không
phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của con người. Con người chỉ có thể nhận thức
để tác động thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình hình thành và chuyển dịch CCKT
theo hướng ngày càng có hiệu quả cao theo mục tiêu xác định.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cấp huyện phản ánh tính quy luật chung

của q trình phát triển kinh tế - xã hội và được biểu hiện cụ thể trong từng
thời gian, không gian khác nhau.
Chuyển dịch CCKT nơng nghiệp phải là một q trình vận động và có
tính quy luật, mọi sự nóng vội hoặc bảo thủ trì trệ trong q trình chuyển dịch
nó đều gây phương hại đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.


18
Vấn đề là phải biết bắt đầu tư đâu và với những giải pháp chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thơn như thế nào để tác động vào nó sẽ tạo ra phản ứng
dây chuyền cho tất cả các yếu tố trong toàn bộ hệ thống cơ cấu kinh tế nơng
thơn cùng phát triển, góp phần vào sự tăng trưởng, của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế có tính ổn định tương đối trong từng điều kiện và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể, tuy nhiên, xét cả quá trình, nó khơng cố định, ln vận
động mang tính tất yếu khách quan.
Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình làm thay đổi cấu trúc và
các mối quan hệ của hệ thống kinh tế theo một chủ đích và định hướng nhất
định, nghĩa là đưa hệ thống kinh tế đến các trạng thái phát triển tối ưu, đạt
được hiệu quả tổng hợp mong muốn thông qua các tác động điều khiển có ý
thức, hướng đích của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn
các quy luật khách quan.
1.1.2.3. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên
địa bàn cấp huyện
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp huyện chủ yếu được tiếp cận trên
phương diện cơ cấu kinh tế ngành. Do vậy, trước hết nó phải bị quy định bởi
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, bởi tiềm năng kinh tế của huyện
cùng với những điều kiện để thực hiện và khả năng thực thi của các chủ thể ở
huyện, mang nặng dấu ấn của những nhân tố riêng, đặc thù của huyện.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện phải chuyển dịch theo phương
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của tỉnh, của nền kinh tế và theo

hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế,
chịu sự tác động - chi phối bởi các quá trình chuyển dịch khác và những yêu
cầu của phân công kinh tế - xã hội ở địa phương.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một huyện nông nghiệp ở
nước ta, trước hết và chủ yếu dựa trên lợi thế về nguồn lao động dồi dào giá
rẻ, tài ngun khống sản và nơng sản.
Q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện nông nghiệp sẽ gặp khó
khăn về vốn, khoa học - cơng nghệ, thiếu lao động có trình độ cao... nên việc


19
phát triển các ngành này cần có sự cân nhắc theo hướng tiết kiệm, hiệu quả,
hỗ trợ đắc lực cho phát triển các ngành kinh tế khác trong huyện.
Hầu hết q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp huyện ở
nước ta hiện nay đều mới bắt đầu, vì vậy còn bị chi phối của cơ cấu kinh tế
cũ, lạc hậu, bảo thủ và sức ỳ rất lớn, gây nên những cản trở không nhỏ.
1.1.2.4. Một số yêu cầu đối với quá trình chủn dịch cơ cấu kinh tế
nơng nghiệp cấp huyện ở nước ta hiện nay
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải gắn với tăng trưởng
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng hay mở rộng về sản lượng hàng hóa
và dịch vụ của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Tăng trưởng
kinh tế là mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế, được phản ánh qua sự
tăng lên về quy mơ sản lượng và sản lượng bình qn đầu người của một nền
kinh tế. Như vậy, có thể hiểu tăng trưởng nông nghiệp là sự tăng lên về sản
lượng hàng hóa và dịch vụ trong lĩnh vực nơng nghiệp. Nguồn gốc của tăng
trưởng nông nghiệp là sự gia tăng và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực đầu
vào cơ bản đối với q trình sản xuất nơng nghiệp là đất đai, vốn, lao động và
công nghệ. Mặt khác, để đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm thiết
yếu cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư ngày càng tăng, nguyên liệu cho phát
triển công nghiệp, vốn và ngoại tệ cho tái sản xuất mở rộng và tích lũy ban

đầu để đầu tư phát triển các ngành kinh tế khác, các ngành, các lĩnh vực trong
nông nghiệp phải không ngừng gia tăng quy mô sản lượng, nghĩa là tăng
trưởng. Tuy nhiên, mức tăng sản lượng giữa các ngành, giữa các lĩnh vực là
khơng giống nhau, nhờ đó tạo tiền đề để chuyển dịch về cơ cấu giữa các
ngành, các lĩnh vực trong nông nghiệp. Để đảm bảo về mặt số lượng và chất
lượng của tăng trưởng, việc đổi mới cơ cấu các ngành, các lĩnh vực trong
nông nghiệp, hay nói cách khác, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp
phải dựa trên cơ sở bố trí lại một cách hợp lý các nguồn lực được sử dụng
trong sản xuất nông nghiệp giữa các ngành, các lĩnh vực.
Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải gắn với phát triển
nông nghiệp bền vững


20
Phát triển nông nghiệp bền vững luôn là mục tiêu phấn đấu của mọi
quốc gia và là một quá trình biến đổi lâu dài theo xu hướng ngày càng hoàn
thiện. Phát triển nơng nghiệp bền vững có ý nghĩa rộng lớn, bao hàm cả bốn
mục tiêu cơ bản là: Tăng trưởng kinh tế - tăng về quy mô số lượng, thay đổi
về cơ cấu kinh tế - thay đổi về chất lượng, tiến bộ về xã hội - nâng cao chất
lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư, cải thiện về môi trường tự nhiên,
đảm bảo cân bằng sinh thái và chỉ khi nào đồng thời đạt hiệu quả cao ở cả bốn
mục tiêu này thì nền nơng nghiệp mới được xem là phát triển bền vững.
"Ngày nay, hầu hết các nhà kinh tế học coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế
là một trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của một nền
kinh tế" [14, tr.33]. Bởi vì, có những quốc gia đạt được mức tăng trưởng nơng
nghiệp rất cao nhưng vẫn cịn một bộ phận lớn người dân sống ở nơng thơn có
thu nhập dưới mức nghèo đói. Đây là hệ quả của sự chuyển dịch thiếu cân đối
giữa các ngành kinh tế, giữa các thành phần kinh tế và giữa các vùng lãnh thổ
của nền kinh tế đó. Mặt khác, sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế có
thể kéo theo sự khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi, khiến cho các nguồn

tài nguyên bị kiệt quệ, làm phá vỡ cân bằng môi trường sinh thái hoặc cùng
với tăng trưởng là sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị và nhiều giá trị truyền
thống tốt đẹp bị hạ thấp hoặc mất đi, dẫn tới cơ cấu xã hội bị đảo lộn và bất
ổn định. Tuy nhiên, nếu chỉ nhấn mạnh đến công bằng xã hội và bền vững
môi trường tự nhiên sẽ dẫn tới phát triển dàn trải giữa các ngành và giữa các
vùng, dẫn tới tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm, không đáp ứng
được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì thế, để bảo đảm
hài hịa cả mục tiêu trước mắt và lâu dài, nhiều nước chọn con đường phát
triển tồn diện thơng qua tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với nâng cao chất
lượng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải xuất phát từ tín hiệu của thị trường.
Phát triển nơng nghiệp tồn diện với tốc độ tăng trưởng cao và bền
vững nhất thiết phải dựa trên cơ sở kinh tế hàng hóa gắn với thị trường. Chỉ


21
có như vậy mới khắc phục được xu hướng tự phát, tự cung, tự cấp, phân tán
nhỏ lẻ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn nước ta hiện nay.
Sản xuất hàng hóa đặt ra yêu cầu sản xuất sản phẩm nào, số lượng bao nhiêu,
chất lượng và chủng loại ra sao phải do thị trường quyết định, khơng phải do khả
năng đất đai, lao động, khí hậu, kinh nghiệm của người sản xuất quyết định.
Bốn là, chuyển dịch CCKT phải gắn với hiệu quả kinh tế - xã hội
Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải là cơ cấu đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế
và xã hội cao. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sản xuất chỉ có thể tồn tại
được khi sản phẩm có khả năng cạnh tranh, hay nói cách khác sản xuất phải
đạt hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế không phải bao giờ cũng
thống nhất với hiệu quả xã hội. Do vậy, chuyển dịch CCKT nông nghiệp không
chỉ tính đến hiệu quả về mặt kinh tế mà cịn phải tính đến hiệu quả về mặt xã
hội, phải được đo lường bằng các chỉ tiêu tổng hợp, cả về kinh tế và xã hội.
Năm là, chuyển dịch CCKT phải gắn với phát triển nền kinh tế mở và

hội nhập quốc tế
Chuyển dịch CCKT nông nghiệp, nông thôn phải phù hợp với xu
hướng hội nhập và mở cửa với thế giới và khu vực. Yêu cầu trên còn là cơ sở
để hình thành các giải pháp xây dựng CCKT nơng nghiệp, nông thôn hợp lý
trong giai đoạn hiện nay.
Sáu là, chuyển dịch CCKT phải gắn với công bằng xã hội.
Chuyển dịch CCKT nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH
trong thế kỷ XXI ở nước ta không chỉ đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh,
vững chắc và toàn diện mà còn phải đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao đời
sống của nhân dân nói chung, khu vực nơng thơn nói riêng. Vì vậy, cùng với
phát triển cơng nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, chuyển dịch CCKT nơng
nghiệp phải gắn với mục tiêu xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn, giữa nông thôn và thành thị.
Bảy là, chuyển dịch CCKT phải kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.
Quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp nước ta hiện nay, một mặt
phải kế thừa những kinh nghiệm truyền thống, bao gồm cả ngành nghề truyền


22
thống ở nông thôn, nông nghiệp lúa nước, kinh nghiệm thâm canh cây trồng,
vật nuôi, giống cây đặc sản… Mặt khác, phải tiếp cận với xu thế hiện đại của
thế giới và khu vực, thực hiện phương châm “đi tắt đón đầu”, nhanh chóng
ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình cơng nghệ tiên tiến
vào phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Tám là, chuyển dịch CCKT nông nghiệp phải gắn mục đích tăng trưởng
kinh tế với phân công lại lao động nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng lao động
nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ ở khu vực này.
Để đảm bảo sự phát triển nơng thơn bền vững, ổn định thì cơ cấu lao
động nông thôn phải được điều chỉnh hợp lý. Cơ cấu kinh tế gắn với phân
công lại lao động nông nghiệp là phương hướng lâu dài của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta. Thay đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp không chỉ thúc đẩy phân công lại lao động xã hội bên trong lãnh thổ
mà cịn thúc đẩy q trình tham gia vào hợp tác lao động quốc tế tạo thuận lợi
cho từng ngành chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế sâu hơn, cạnh
tranh mạnh mẽ hơn, nhờ đó mà kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chín là, chuyển dịch CCKT nông nghiệp gắn với quy hoạch, chiến lược
và mục tiêu chuyển dịch CCKT của tỉnh, của vùng và của cả nước.
Nông nghiệp trên địa bàn huyện là một bộ phận của nền nông nghiệp
cũng như nền kinh tế nói chung của tỉnh, của vùng và cả nước. Do đó, chuyển
dịch CCKT nơng nghiệp trên địa bàn phải gắn kết với chuyển dịch CCKT của
tỉnh, của vùng và của cả nước về mục tiêu, phương hướng và giải pháp.
Mười là, chuyển dịch CCKT nông nghiệp phải gắn với cơng nghiệp
hóa, đơ thị hóa và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Xu hướng và tốc độ chuyển dịch CCKT nông nghiệp phải phù hợp với
xu hướng và tốc độ cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa và phát triển kết cấu hạ tầng
nông thôn trong từng giai đoạn. Mối tương quan xuất phát từ thực tế ở nước ta
và kinh nghiệm của các nước: Cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa và xây dựng kết
cấu hạ tầng nơng thơn vừa tạo ra điều kiện vật chất, vừa thu hút lao động dư
thừa của khu vực này trong quá trình CNH, HĐH.


23
1.1.2.5. Vai trị của cơ cấu kinh tế nơng nghiệp cấp hụn trong quá
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nơng nghiệp tích lũy vốn cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo lý luận giá trị thặng dư tương đối, nếu năng suất trong nơng
nghiệp tăng thì làm cho giá trị nông phẩm giảm, giá trị quỹ tư liệu sinh hoạt
giảm và do đó làm giảm giá trị sức lao động xã hội, làm giảm thời gian lao
động tất yếu - thời gian để tái sản xuất ra sức lao động xã hội, do đó làm cho
thời gian lao động thạng dư của xã hội tăng lên tương ứng. Nền kinh tế có tích
lũy từ nội bộ cho CNH, HĐH.

Mặt khác, do trong nơng nghiệp có cấu tạo hữu cơ (c/v) thấp hơn trong
công nghiệp nên cùng một lượng tư bản đầu tư trong nơng nghiệp hoặc trong
cơng nghiệp thì nơng nghiệp sẽ tạo ra nhiều giá trị tăng thêm hơn.
+ Nguồn vốn: Thông qua xuất khẩu nông sản, các nước đang phát triển
đều có nhu cầu rất lớn về ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị,
nguyên liệu mà chưa tự sản xuất được trong nước. Một phần nhu cầu ngoại tệ
đó, có thể đáp ứng được thơng qua xuất khẩu nơng sản. Nơng sản cịn được
coi là nguồn hàng hóa để phát triển ngành ngoại thương ở giai đoạn đầu.
Trong lịch sử, quá trình phát triển của một số nước cho thấy vốn được tích lũy từ
những ngành nơng nghiệp tạo ra hàng hóa xuất khẩu. Đó là trường hợp của các
nước Úc, Canada, Đan Mạch, Thụy Điển, New Zealand, Mỹ, và cả Việt Nam.
Cung cấp vốn cho các ngành kinh tế khác: nguồn trực tiếp: như nguồn
thu từ thuế đất nông nghiệp, thuế xuất khẩu nông sản, nhậu khẩu tư liệu sản
xuất nông nghiệp. Nguồn thu này được tập trung vào ngân sách nhà nước và
dùng để đầu tư cho phát triển kinh tế.
Nguồn gián tiếp: với chính sách quản lý giá của nhà nước theo xu
hướng là giá sản phẩm công nghiệp tăng nhanh hơn giá nông sản, tạo điều
kiện cho gia tăng nhanh tích lũy cơng nghiệp từ “hy sinh” của nơng nghiệp.
Nơng nghiệp là nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào khác cho CNH, HĐH.
+ Nguồn nhân lực: Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế
việc tăng dân số ở khu vực ở khu vực thành thành thị sẽ không đủ khả năng


24
đáp ứng. Cùng với việc tăng nâng suất lao động trong nông nghiệp, sự di
chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu
cầu nơng nghiệp hố đất nước.
+ Ngun liệu đầu vào: nguyên liệu từ nông nghiệp là đầu vào quan
trọng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến nơng sản trong
giai đoạn đầu q trình cơng nghiệp hóa ở nhiều nước đang phát triển.

Nơng nghiệp là thị trường tiêu thụ của công nghiệp và các lĩnh vực phụ
trợ khác:
Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn và chủ yếu của sản
phẩm trong nước. Việc tiêu dùng của người nông dân và mạng dân cư nông
thôn đối với hàng hóa cơng nghiệp, hàng hóa tiêu dùng (vải, đồ gỗ, dụng cụ
gia đình, vật liệu xây dựng), hàng hóa tư liệu sản xuất (phân bón, thuốc trừ
sâu, nơng cụ, trang thiết bị, máy móc) là tiêu biểu cho sự đóng góp về mặt thị
trường của ngành nơng nghiệp đối với q trình phát triển kinh tế.
Sự đóng góp này cũng bao gồm cả việc bán lương thực, thực phẩm và
nông sản nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác.
1.2. KHUYNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.2.1. Các nhân tố chủ yếu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện
1.2.1.1. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và đặc điểm của
các nguồn lực trong phát triển kinh tế
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu lao động và con người có khả năng
sử dụng tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu xã hội. Lực lượng sản xuất là động lực
phát triển của xã hội.
Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến việc cải tiến, phát minh thiết bị,
công nghệ mới hiện đại làm biến đổi căn bản quy mô cơ cấu, cách thức sản
xuất, tăng năng suất lao động ở hầu hết các ngành, lĩnh vực, bộ phận trong cơ


25
cấu kinh tế làm phá vỡ cơ cấu kinh tế cũ, hình thành cơ cấu mới với vị trí, tỷ
trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận phù hợp và thích ứng với u cầu phát
triển. Q trình đó diễn ra một cách khách quan và từng bước tạo ra sự cân

đối hợp lý hơn, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và nước ngoài.
Nền kinh tế muốn phát triển phải dựa vào các nguồn lực hiện có. Các
nguồn lực vật chất và phi vật chất của một quốc gia chính là lợi thế, tiềm năng
để hình thành cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý.
Nhu cầu xã hội là vô tận và mỗi ngày một cao. Muốn đáp ứng đầy đủ
nhu cầu xã hội thì trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất.
1.2.1.2. Chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
Chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính chất khách quan
và tính lịch sử xã hội, nhưng các tính chất đó của cơ cấu kinh tế lại có sự tác
động, chi phối của Nhà nước. Nhà nước không trực tiếp sắp đặt các ngành
nghề, quy định các tỷ lệ của cơ cấu kinh tế, nhưng tác động gián tiếp bằng
cách định hướng phát triển, để thực hiện được mục tiêu đáp ứng nhu cầu xã
hội. Định hướng phát triển của Nhà nước không chỉ nhằm khuyến khích mọi
lực lượng sản xuất xã hội đạt được mục tiêu đề ra, mà còn đưa ra các dự án để
thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia, nếu khơng đạt được thì Nhà nước
phải trực tiếp tổ chức sản xuất, bảo đảm sự cân đối giữa các sản phẩm, các
ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.
Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là định hướng chung cho
mọi thành phần, mọi nhà doanh nghiệp trong cả nước phấn đấu thực hiện dưới
sự điều tiết của Nhà nước thông qua hệ thống luật pháp và các quy định, thể
chế chính sách của Nhà nước.
Như vậy, cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cơ đọng nội dung chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn phát triển nhất định. Nhưng
khơng vì thế mà áp đặt chủ quan, tự đặt cho các ngành những tỷ lệ và vị trí
trái ngược với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội. Mọi sự áp đặt chủ


×