Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của hàn quốc trên địa bàn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.66 KB, 98 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, đặc biệt là sau khi gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam
ngày càng gia tăng và có những đóng góp khơng nhỏ vào tăng trưởng kinh tế,
tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động, trong đó có đóng góp của
nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến từ Hàn Quốc. Tính đến
31/12/2012, đứng thứ nhất về số dự án được cấp giấy phép còn hiệu lực
(3.197 dự án), đứng thứ 4 về số vốn đăng ký còn hiệu lực (24,815 tỷ USD).
Riêng 6 tháng đầu năm 2013, Hàn Quốc đứng đầu về số dự án được cấp phép
mới (152 dự án) và số dự án tăng vốn (66 dự án) với 738 triệu USD. Tổng
hợp lại, Hàn Quốc đang đứng thứ nhất về số dự án (3.349 dự án) và thứ tư về
số vốn đầu tư (25,553 tỷ USD) trong số các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Hàn Quốc đang được coi là một trong những nhà đầu tư hiệu quả nhất
tại Việt Nam. Chính phủ hai nước đều thể hiện quyết tâm tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp Hàn Quốc làm ăn tại Việt Nam thông qua việc
ký kết và thực hiện Hiệp định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến chung
nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Lực lượng lao động Việt Nam được thu hút vào làm việc trong các
doanh nghiệp Hàn Quốc ngày càng nhiều, đã đóng góp đáng kể vào sự ổn
định và phát triển nền kinh tế, giải quyết được nhiều việc làm và thu nhập cho
người lao động. Trong thời gian qua thực tế cho thấy, lợi ích người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn Hàn Quốc, về cơ bản được đảm bảo.
Bên cạnh những thành tựu đó cũng cịn có những hạn chế gây ảnh
hưởng đến lợi ích của người lao động mà nếu để kéo dài sẽ gây bất lợi không
nhỏ đối với sự phát triển không chỉ của người lao động mà cịn đối với chính
doanh nghiệp và nền kinh tế. Trong đó đáng quan ngại nhất là mức chênh lệch


2


giá nhân công giữa công nhân Việt Nam và các nước trong khu vực. Xét tới
mức lương hàng tháng, khoảng cách giữa lương của các công nhân ở Việt
Nam và ở miền Nam Trung Quốc là rất đáng kể, Việt Nam thấp hơn khoảng
70 - 80 USD (với cùng một công việc như nhau).
Hàn Quốc là một trong những nhà Đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Bắc
Ninh, đặc biệt trong vài năm trở lại đây có nhiều nhà đầu tư lớn, cơng nghệ
hiện đại như Samsung,… đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã
hội của tỉnh, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nhười lao động. Mức sống
của người lao động trong các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc không ngừng tăng
lên. Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động vẫn còn
nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết.
Do đó, vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn nước ngồi nói chung và các doanh nghiệp FDI Hàn
Quốc nói riêng là một vấn đề cần được nghiên cứu trong tình hình hiện nay,
để có những giải pháp cần thiết bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động
- một trong những nguồn lực quý giá của quốc gia. Xuất phát từ thực tế đó,
Học viên chọn đề tài: "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" để viết
thành luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế ở các DN nói chung và các DN có vốn đầu tư
nước ngồi nói riêng đã có một số tác giả đã nghiên cứu:
- Lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong các doanh ngiệp
Nhà nước ở nước ta (Qua thực tiễn ở Hải Phòng) (Luận văn Thạc sĩ, 1995)
của Đỗ Đăng Dân.
- Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trị của cơng đồn với việc
bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân (Luận văn
Thạc sĩ, 1995) của Nguyễn Lợi.



3
- Trần Quang Lâm, An Như Hải chủ biên (2006), Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Lộc Diệp (2003), Mỹ - Âu - Nhật văn hoá và phát triển, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
- Trần Thị Nhung, Nguyễn Huy Dũng (2005). Phát triển nguồn nhân
lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản (Luận văn Thạc sĩ, 1998) của
Đỗ Viết Thẩn.
- Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nơng nghiệp
tập thể hiện nay ở nước ta (Luận án PTS, 1988) của Nguyễn Duy Hùng
- Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ
trang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (Luận án Tiến sĩ khoa học
quân sự, 1998), Học viện Chính trị Quân sự.
- Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội (Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị
Minh Loan).
Tuy nhiên để đi sâu vào vấn đề "Lợi ích kinh tế của người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh" thì chưa có cơng trình nào nào nghiên cứu. Do đó, đây là “khoảng
trống”, là khơng gian cho đề tài nghiên cứu này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở kế thừa các tư liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn
nhằm hệ thống hóa và góp phần làm rõ thêm những vấn đề có tính lý luận và
thực tiễn về lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư của Hàn Quốc trên địa bàn Bắc Ninh. Trên cơ sở đó đề xuất những
phương hướng và giải pháp góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế cho người lao
động trong các doanh nghiệp có vốn nước ngồi nói chung và người lao động
trong các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc.



4
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đi vào giải quyết các nhiệm
vụ sau:
Một là, hệ thống hóa làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh
tế nói chung và lợi ích kinh tế cá nhân người lao động nói riêng.
Hai là, đi sâu nghiên cứu về thực trạng tình hình lợi ích kinh tế của
người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn Quốc tại Bắc Ninh,
vạch ra những mặt ưu điểm và hạn chế cần phải khắc phục.
Ba là, đề ra được hệ thống giải pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của người lao
động. Từ đó đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh
nghiệp Hàn Quốc, góp phần vào cơng cuộc xây dựng, kiến thiết, nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đầu tư nước ngoài là một phạm trù rộng, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc.
- Đề tài chỉ nghiên cứu lợi ích kinh tế của người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, còn sự
đầu tư của các quốc gia, và các lĩnh vực khác không thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu là các tư liệu có được trong khoảng thời gian từ
năm 2006 - 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Ngồi các phương pháp chủ yếu của Kinh tế chính trị học, luận văn còn
sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát thực tiễn, thống kê, phỏng vấn
chuyên gia, phân tích tổng hợp, so sánh…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể

sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng
và Đại học trong khuôn khổ mơn Kinh tế chính trị.


5
- Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc soạn
thảo các văn bản pháp lý đối với việc sử dụng lực lượng lao động của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những ý nghĩa thực tiễn góp phần giúp cho các doanh
nghiệp FDI ở Việt Nam cần phải có quan điểm và nhận thức sâu sắc về vai trị
của lợi ích kinh tế đối với người lao động, trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trên cơ sở đó họ có thái độ cư xử đúng đắn, phù hợp với đạo đức, với
quy ước của pháp luật trong quá trình các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI
1.1. LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG

1.1.1. Bản chất lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế của người lao động
1.1.1.1. Quan niệm về lợi ích kinh tế
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế đều là mối quan

tâm của tất cả các chủ thể kinh tế và các thành viên trong xã hội. Điều đó
được biểu hiện rất đa dạng, phong phú. Do đó, lợi ích kinh tế là vấn đề cơ bản
xuyên suốt mọi nền sản xuất, của tồn bộ tiến trình vận động và phát triển của
lịch sử. Theo quan điểm của các nhà kinh điển thì lợi ích kinh tế là hình thức
biểu hiện của những quan hệ xã hội, những quan hệ kinh tế trong những giai
đoạn lịch sử nhất định.
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ
kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi
ích” [20, tr.376].
Khi bàn về lợi ích các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngồi nước từ
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
V.P Ca-man-kin cho rằng: “Lợi ích kinh tế của một chủ thể nhất định là
sự tác động lẫn nhau giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể đó” [5, tr.13].
Theo quan điểm của tác giả Đào Duy Tùng thì: Lợi ích kinh tế là hình
thức biểu hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người và người trong sản
xuất [5, tr.9].
Điều này thể hiện: người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá trình
sản xuất, quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữ vai trị
quyết định trong xử lý vấn đề lợi ích kinh tế.


7
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn cũng khẳng định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù
kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi
ích kinh tế là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế [24].
Bàn về lợi ích kinh tế tác giả Khoa Minh lại cho rằng:
Lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với
việc thoả mãn những nhu cầu vật chất cần thiết cho đời sống dưới
hình thức mục đích xác định của hoạt động kinh tế của con người…
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các quan hệ kinh tế và

quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó [23, tr.296].
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin: Lợi ích kinh tế là lợi ích
vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể kinh tế
khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản
xuất quyết định.
Từ những khảo cứu trên cho thấy: Trong bất cứ xã hội nào con người
muốn tồn tại phải thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, bảo vệ sức khỏe, học
tập và giải trí. Nói cách khác con người muốn sống, tồn tại cần thoả mãn
những nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển thể lực và trí lực của mình.
Tồn bộ những nhu cầu đó được biểu hiện dưới một hình thức chung nhất
chính là lợi ích kinh tế. Và do đó, lợi ích kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động
lực để phát triển kinh tế xã hội.
Trong xã hội có nhiều động lực như động lực kinh tế, chính trị… song
động lực chủ yếu, suy cho cùng, là động lực kinh tế vì nó có ý nghĩa quyết
định thúc đẩy con người hành động, chi phối nội dung các động lực khác.
Cuộc sống của con người bao giờ cũng đòi hỏi nhu cầu vật chất và văn hoá
ngày càng cao. Nhưng không phải bất kỳ nhu cầu nào của con người cũng
được thoả mãn và đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu mang tính
hiện thực mới được thoả mãn và mới thuộc phạm trù lợi ích kinh tế. Nhu cầu
đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất nhất định. Hay


8
chính là: khơng phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà nhu cầu khi được
xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế
có liên quan đến nhu cầu của con người. Nhưng không phải mọi nhu cầu của
con người đều trở thành lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu vật chất
(nhu cầu kinh tế) mới trở thành lợi ích kinh tế.
1.1.1.2. Bản chất của lợi ích kinh tế
Về bản chất phải khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh

tế khách quan. Lợi ích kinh tế muốn được thực hiện phải thơng qua hoạt động
có nhận thức của con người. Và con người càng nhận thức tự giác được phạm
trù lợi ích, thì hoạt động của họ càng thu được kết quả cao.
Quan hệ sản xuất là khách quan, nó ln tồn tại trong vận động (như
mọi sự vật hiện tượng). Sự vận động của QHSX biểu hiện ở sự vận động của
các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra (nghĩa là khi QHSX được xác lập,
làm nảy sinh các quy luật kinh tế phù hợp với bản chất của QHSX). Thông
qua sự vận động của các quy luật kinh tế mà QHSX ảnh hưởng tới quá trình
sản xuất. Mỗi quy luật kinh tế, phản ánh một mặt của QHSX, các quy luật
kinh tế là quy luật xã hội, phương thức hoạt động của chúng đều phải thông
qua con người. Do đó, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi
ích kinh tế để chi phối con người hành động theo quy luật.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của QHSX, là một khâu chính của
cơ chế tác động chung của quy luật kinh tế do QHSX sinh ra. Khơng có lợi
ích kinh tế thuần tuý tồn tại ngoài con người hoặc là con người khơng ý thức
gì về lợi ích. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, những con
người có khả năng nhận thức nó và vì nó mà hành động. Ở đây, cái khách
quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan, mang hình thức chủ quan, cái chủ
quan do khách quan qui định. Trong thực tế, các động cơ hành động kinh tế
của con người có vẻ chủ quan nhưng thực ra nó là động cơ mang tính khách
quan. Một mặt, thơng qua lợi ích, con người mưu cầu đời sống; mặt khác,


9
thơng qua lợi ích mà xu hướng phát triển khách quan của sản xuất xã hội
được thực hiện. Vì vậy, lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) trở thành một
trong những động lực cơ bản, phổ biến thúc đẩy sản xuất và đời sống xã hội
phát triển. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay
chuyển những quần chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích
hoạt động của con người “thì chúng lay động đời sống nhân dân”.

Như vậy, về bản chất lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan
nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở của một quan hệ sản xuất nhất định, là hình
thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất và phản ánh mặt bản chất nhất
của QHSX. Lợi ích kinh tế không tuỳ thuộc vào yếu tố chủ quan của con
người (không tuỳ thuộc ở chỗ là con người có nhận thức được nó hay khơng)
mà do địa vị của họ trong QHSX quyết định.
1.1.1.3. Lợi ích kinh tế của người lao động
Hiện nay ở Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào với hơn 49
triệu người (hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người), đang hoạt động
trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh
tế quốc dân, bao gồm tất cả những người làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật
chất và phi vật chất; những người có chun mơn kỹ thuật; người lao động
trực tiếp và gián tiếp, người lao động chân tay và trí óc… Do sự phát triển của
phân công lao động xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, sự gia nhập WTO và
nhất là trong một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN, thì cần coi tất cả mọi người - bất kỳ ai? làm gì? ở
đâu? thuộc thành phần kinh tế nào? Tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản
phẩm cho xã hội và thu nhập quốc dân là người lao động
Người lao động ở mọi thời đại kinh tế, đều là những người trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất, ra những vật phẩm có giá trị sử dụng cho bản thân và
cho xã hội. Nhưng trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, địa vị kinh
tế và do đó địa vị xã hội của họ trong hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội


10
cũng khác nhau. Rõ ràng lợi ích kinh tế của người nô lệ lao động dưới roi vọt
của người quản nơ khác hồn tồn với lợi ích kinh tế của người công nhân
làm thuê, dưới sự quản lý của các chủ tư bản.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, khi người lao động
tự do làm việc theo năng lực và hưởng theo thành quả lao động của mình. Giá

trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, đồng thời phản ánh được mức thoả
mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu đời sống vật chất tinh thần của bản thân
và gia đình người lao động. Sự hoạt động của một DN, thì lợi ích kinh tế không
phải ở trong nhận thức của con người, mà ở trong một cơ sở kinh tế nhất định,
nhưng phương thức thực hiện lợi ích lại tuỳ thuộc vào nhận thức của con
người. Do đó, trong q trình lao động, sản xuất, người lao động khơng thể đặt
lợi ích của mình ngoài sự tồn tại của DN, cũng như kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN mà họ đang làm việc. Ngược lại DN khơng tự nó đưa lại
lợi ích cho người lao động, nó chỉ tạo ra khả năng khách quan để người lao
động thực hiện lợi ích mà thôi như việc làm, điều kiện làm việc, môi trường thể
hiện năng lực… và do vậy, lợi ích kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế giữa người
lao động với người lao động, giữa người lao động với chủ DN… Điều này đã
được Ph.Ăngghen khẳng định: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất
định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [20].
Từ sự nghiên cứu tiếp cận phạm trù lợi ích kinh tế và phạm trù người
lao động nói chung, có thể nêu lên một cách khái quát: Lợi ích kinh tế người
lao động là trong quá trình sản xuất người lao động đem trí tuệ, tài năng lao
động của chính mình để lao động một cách tự giác, sáng tạo nhằm làm ra
ngày càng nhiều của cải vật chất thỏa mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh
thần của bản thân, gia đình và làm trịn nghĩa vụ với xã hội và cộng đồng.
Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện
của các quan hệ kinh tế, các quy luật kinh tế và phản ánh phương thức, mức


11
độ thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của chủ thể kinh tế, của các thành
viên khác nhau trong nền sản xuất xã hội. Do đó khái niệm lợi ích kinh tế của
người lao động ở nước ta hiện nay thể hiện trên hai nội dung chủ yếu:
Một là, người lao động phát huy được khả năng sáng tạo trong một mơi

trường chính trị - xã hội ưu việt. Thể hiện, người lao động sẽ lao động một
cách tự giác, sáng tạo và có hiệu quả ngày càng cao vì lợi ích của chính người
lao động, của tập thể, của cộng đồng. Tuy nhiên, muốn biến khả năng đó
thành hiện thực, cần phải có một cơ chế, hình thức kết hợp hài hồ các lợi ích
kinh tế trong một hệ thống, nhằm khơi dậy phát huy một sức mạnh tổng hợp
của toàn xã hội, của từng tập thể và của từng cá nhân người lao động.
Hai là, thoả mãn tốt hơn những nhu cầu về vật chất, tinh thần cá nhân
và gia đình người lao động. Trong thực tế lao động sản xuất và cuộc sống nói
chung, đa phần những người lao động không chỉ quan tâm đến mức độ thoả
mãn các nhu cầu về đời sống vật chất (thu nhập thông qua tiền lương, tiền
thưởng và các sản phẩm của lao động), ngồi ra lợi ích kinh tế của người lao
động cịn biểu hiện thơng qua việc hưởng thụ các phúc lợi xã hội như: quyền
có việc làm, chăm sóc ý tế, các khoản phụ cấp, trợ cấp khác.
Như vậy, lợi ích kinh tế của người lao động là nói tới quyền được lao động
và nhận được thành quả lao động với cách thức, mức độ thoả mãn những nhu
cầu về đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của người lao động. Khi lợi
ích kinh tế của người lao động được thực hiện sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy
sản xuất phát triển, kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời phát triển sản xuất, phát
triển kinh tế - xã hội sẽ tạo ra tiền đề, khả năng thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu
cầu về đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động
1.1.2.1. Lợi ích kinh tế là cơ cở, nguyên tắc tạo động lực cho người
lao động
Ph.Ăngghen cho rằng: Lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều tiết cơ bản
mà tất cả mọi nguyên tắc phải tuân theo. Do đó, bất cứ hoạt động nào của con


12
người cũng bị chi phối bởi hai động lực chính đó là: Động lực vật chất (kinh
tế) và động lực tinh thần. Để đạt được những kết quả cao trong hoạt động

kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà còn cả động lực tinh
thần. Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế ln giữ vai trị quyết định nhất, là động
lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Vì mọi hoạt động của con
người có mối quan hệ phụ thuộc trực tiếp và chặt chẽ vào hai yếu tố đó là:
Khả năng của con người và động lực kích thích. Cho nên, các chính sách kinh
tế và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ cũng phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích
thiết thân của người lao động, tức là lợi ích kinh tế, vì nó ln là động lực
kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với toàn xã hội.
1.1.2.2. Lợi ích kinh tế là tiền đề, cơ sở thực hiện các lợi ích khác
của người lao động
Khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực
hiện các loại lợi ích khác. Đời sống vật chất được phồn thịnh, thì đời sống
tinh thần mới được nâng cao. Thực tế đã kiểm chứng; trong cơ chế kinh tế cũ,
chúng ta chỉ tập trung quan tâm đến việc hồn thiện chính sách và cơ chế
quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mà ít quan tâm tới lợi ích tinh thần
của người lao động, có người cịn coi lợi ích cá nhân như là một điều xấu, e
ngại nó như là cái gì trái với nền tảng căn bản của xã hội mới mà chúng ta
đang xây dựng, điều đó đã làm triệt tiêu động lực của con người trong lao
động sản xuất. Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách mới, phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện việc cụ thể hóa phân phối theo lao
động: Ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà khơng
làm thì khơng hưởng. Đã tạo một động lực rất lớn đối với người lao động,
kích thích tính sáng tạo, khả năng lao động của mỗi cá nhân trong sản xuất. Vì
vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là động lực kích thích hoạt động của
con người, có ý nghĩa sâu sắc trong việc phát huy nhân tố con người, điều cơ
bản nhất là phải giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích kinh tế, và phải coi lợi ích


13
kinh tế là mục tiêu cơ bản nhất của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt

khác, nguồn gốc sâu xa của mọi động lực kinh tế được bắt nguồn từ nhu cầu
kinh tế và sự đòi hỏi được thoả mãn nhu cầu đó của con người.
1.1.2.3. Lợi ích kinh tế là cơ cở cho việc phát huy năng lực, trí tuệ và
thực hiện quyền lợi của người lao động
Hiện nay, do nắm bắt được vai trị lợi ích kinh tế đối với người lao
động là một tất yếu, để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của mình các chủ DN
đã biết quan tâm chăm lo phát huy yếu tố con người, coi trọng những lợi
ích thiết thân của người lao động, dựa vào lực lượng khoa học kỹ thuật,
công nhân lành nghề, đặt lòng tin, khắc phục sự kỳ thị, đảm bảo thu nhập
xứng đáng với khả năng đóng góp của người lao động, tìm ra cơ chế quản
lý phù hợp, coi trong việc sử dụng các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, cải
thiện điều kiện lao động… để người lao động yên tâm làm việc, phát huy
tính sáng tạo, đưa lại hiệu sản xuất cao cho DN. Thế nhưng, bên cạnh đó
vẫn cịn tồn tại một số DN lợi dụng sức lực của người lao động để thu lợi
nhuận, khơng quan tâm đến lợi ích kinh tế của người lao động. Dẫn tới các
cuộc đình cơng, bãi cơng đòi tăng lương…của người lao động đối với giới
chủ. Đây là một vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi các ngành chức năng giải
quyết triệt để, làm sao người lao động yên tâm làm việc và được hưởng
đúng với quyền lợi của mình.
1.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CĨ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI

1.2.1. Đặc điểm sử dụng lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài
1.2.1.1. Khái quát đầu tư trực tiếp nước ngoài sau hơn hai mươi năm
năm thực hiện luật Đầu tư trực tiếp nước ngồi
Hơn hai mươi năm năm, từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(12/1987) đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng trở thành một



14
trong những nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn
đầu tư nước ngoài ngày càng tăng lên đã thật sự có tác động tích cực vào sự
tăng trưởng chung của nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã xác định: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là một bộ phận cấu
thành nền kinh tế nước ta: “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm” [9, tr.99].
Đại hội XI cũng nhấn mạnh: Thu hút mạnh đầu tư trực tiếp của nước ngoài
vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch và chiến lược phát
triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao. Thực tế cho thấy khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi ở Việt Nam đã có tốc độ phát triển
nhanh, đóng góp ngày càng lớn cho tổng sản phẩm trong nước và khẳng định
rõ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Thu hút FDI đã góp phần to lớn vào q trình thay đổi cơ cấu của nền
kinh tế, thực hiện CNH, HĐH đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế. Cùng với sự phát triển tích cực của quan hệ ngoại giao với các nước, năm
2006 vị thế của Việt Nam trên thế giới tiếp tục nâng cao, nhất là sau khi trở
thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao
APEC lần thứ 14 tại Hà Nội, càng làm tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư
nước ngoài đối với Việt Nam.
Từ khi Luật Đầu tư nước ngồi ra đời (tháng 12.1987), đã có hai làn
sóng đầu tư FDI vào Việt Nam. Từ năm 1991 đến năm 1997 đã diễn ra làn
sóng FDI thứ nhất, với 2.230 dự án và vốn đăng ký 16,244 tỷ USD, vốn thực
hiện 12,98 tỷ USD. Trong đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt 3,115
tỷ USD, gấp 9,5 lần năm 1991. Năm 2005 lại mở đầu làn sóng FDI thứ hai
vào VN, với vốn đăng ký 6,839 tỷ USD và vốn thực hiện 3,3 tỷ USD.
Tính đến hết tháng 2/2013, Việt Nam đã thu hút được 14.550 dự án còn
hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt gần 211 tỷ USD, vốn thực hiện đạt gần 100 tỉ



15
USD, chiếm 25% tổng vốn đầu tư xã hội, trong đó 3 nhà đầu tư hàng đầu là
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Xem Bảng 1.1).
Bảng 1.1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo đối tác
(lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2012)

TT

Số dự

Đối tác đầu tư

án

Tổng vốn đầu
tư đăng ký
(USD)

Vốn điều lệ (USD)

1

Nhật Bản

1849

28,699,621,246

8,149,053,836


2

Đài Loan

2234

27,129,094,760

10,924,000,860

3

Singapore

1119

24,875,349,749

7,132,496,424

4

Hàn Quốc

3197

24,815,962,168

8,557,624,062


5

BritishVirginIslands

510

15,386,367,951

5,302,624,922

6

Hồng Kông

705 11,966,693,190

3,885,429,926

7

Hoa Kỳ

648

10,507,189,345

2,518,764,942

8


Malaysia

435

10,196,424,427

3,587,302,682

9

Cayman Islands

54

7,505,985,912

1,551,590,422

10

Thái Lan

298

6,063,689,790

2,682,720,169

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Về kết quả thu hút FDI của các địa phương, luỹ kế các dự án còn hiệu
lực đến ngày 31/12/2012 thì cả nước có 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thu hút được trên 2 tỷ USD, trong đó có Bắc Ninh (với 294 dự án, 4,158
tỉ USD). Các tỉnh, thành phố đứng đầu là TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Hà Nội (xem Bảng 1.2).
Bảng 1.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo địa phương
(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2012)
TT

Địa phương

Số dự
án

Tổng vốn đầu tư
đăng ký (USD)

Vốn điều lệ (USD)


16
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

TP. Hồ Chí Minh
Bà Rịa - Vũng Tàu
Hà Nội
Đồng Nai
Bình Dương
Hà Tĩnh
Hải Phịng
Thanh Hóa
Phú n
Hải Dương
Quảng Nam
Quảng Ninh
Bắc Ninh
Quảng Ngãi
Đà Nẵng
Long An
Kiên Giang
Dầu khí

Vĩnh Phúc
Hưng Yên

4337
287
2456
1101
2246
46
369
44
57
272
79
98
294
23
239
464
35
49
148
240

32,403,222,193
26,297,964,396
21,205,566,809
19,945,424,466
17,969,276,652
10,564,403,000

7,247,772,379
7,150,235,144
6,531,204,438
5,379,466,056
4,984,233,719
4,200,339,054
4,158,225,552
3,911,568,479
3,683,962,189
3,520,311,856
3,059,440,937
2,753,691,815
2,466,927,298
2,119,413,392

11,852,543,505
7,311,116,440
7,626,326,543
7,807,078,725
6,493,449,650
3,640,717,630
2,451,321,913
518,958,987
1,473,136,655
1,614,451,490
1,229,309,806
1,156,257,220
887,687,432
657,837,449
1,664,519,942

1,437,470,424
1,441,984,465
2,386,691,815
723,249,269
796,732,175

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Có thể nói, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. FDI đã góp phần quan trọng hình
thành nhiều ngành kinh tế, như khai thác, lọc hóa dầu, ơ tơ, xe máy, điện tử,
xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia súc; cũng như góp phần hình thành
một số khu đơ thị hiện đại như Phú Mỹ Hưng, Nam Thăng Long, nhiều khách
sạn 4 - 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho thuê...
Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã
du nhập phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu
cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư...
Tỉ trọng đóng góp của FDI trong GDP tăng từ 2% năm 1992 lên 10,7%
năm 2000, 16,9% năm 2006, 18,9% năm 2011. Những con số trên chứng tỏ,
nguồn vốn FDI đã có một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế -


17
xã hội của đất nước trong thời gian qua.
Một trong những nhận định về những đóng góp của FDI vào phát triển
KT-XH đất nước ta giai đoạn 25 năm qua, được nêu tại Hội nghị tổng kết 25
năm FDI tại Việt Nam tháng 3/2013 vừa qua là : FDI đã góp phần quan trọng
vào xuất khẩu. Cụ thể trước 2011, xuất khẩu của khu vực FDI chỉ đạt 45,2%
tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm 2012, xuất khẩu của khu vực này đã
trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim
ngạch xuất khẩu năm 2012. Trong 7 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu khu vực

này đạt 48,2 tỉ USD (tính cả dầu thơ), chiếm 66,3% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2012, riêng mặt hàng điện thoại di động
và linh kiện, với giá trị đóng góp chính của Samsung Electronics Vietnam, đã
đạt kim ngạch xuất khẩu 11,6 tỉ USD, đứng đầu danh sách các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam.
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào đều gắn liền với lợi ích, bởi các hoạt
động kinh tế thực chất là nhằm mục đích là các lợi ích khác nhau. Đầu tư trực
tiếp nước ngồi liên quan đến lợi ích của DN nước ngồi, của DN Việt Nam
và người lao động làm việc trong các DN đó. DNCVĐTNN khi đầu tư vào
Việt Nam, có thể hoạt động đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, ngành nghề nào
mà pháp luật nước sở tại cho phép, với mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Do
đó, khu vực nào, ngành nghề nào tạo ra điều kiện thuận lợi, thì khu vực đó,
ngành nghề đó sẽ thu hút được vốn đầu tư nước ngồi. Bên cạnh đó, nước chủ
nhà có quyền ban hành luật pháp riêng cho các nhà đầu tư nước ngồi, cịn
luật pháp có hấp dẫn họ hay không tuỳ thuộc vào lợi nhuận mà họ sẽ thu được
trong quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ rõ rằng: xét về
khía cạnh lợi nhuận có sự khác nhau trong hoạt động đầu tư của các DN vừa
và nhỏ và các công ty TNCs. Do các DN vừa và nhỏ có vốn đầu tư hạn chế
nên thường thực hiện các dự án qui mô nhỏ và trung hạn. Nếu trong trường
hợp nước đến đầu tư bị khủng hoảng kinh tế thì các DN đó dễ rút vốn về


18
nước, hoặc không triển khai dự án đầu tư mới. Cịn TNC s lớn có chiến lược
tồn cầu và mục tiêu dài hạn, nên các dự án đầu tư khi đã lựa chọn thường
được thực hiện kể cả trong trường hợp có khủng hoảng kinh tế. Từ đó việc
xác định lợi nhuận của hai loại DN này cũng có sự khác nhau. Nếu như DN
vừa và nhỏ cần phải tạo ra được lợi nhuận nhanh, thì các TNC s có thể chịu
thua lỗ trong một thời gian nhất định, miễn là sau đó có lãi và tồn bộ chu kỳ

của dự án đầu tư thu được lợi nhuận trung bình trên từng thị trường. Từ
những đặc điểm trên, khi lợi ích của nước chủ nhà phù hợp với lợi ích của nhà
đầu tư nước ngồi thì dự án đầu tư được thực hiện thuận lợi. Từ đó cho thấy,
các đối tác đầu tư vốn lớn trong năm 2006 là Hoa kỳ; Nhật Bản, Hàn Quốc.
Với sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, đặc
biệt là Hàn Quốc. Cụ thể, trong tháng 11, Hội nghị APEC 14 đã báo hiệu
dòng đầu tư nước ngồi nói chung và Hàn Quốc nói riêng đã và đang đầu tư
mạnh mẽ vào Việt Nam. Từ năm 2006, môi trường kinh doanh của nước ta
tiếp tục cải thiện. Ngoài triển khai luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp cùng các
nghị định hướng dẫn được ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho
hoạt động đầu tư, nhiều biện pháp đã được tiến hành nhằm hạn chế và khắc
phục tình trạng yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực…
Đầu tư nước ngồi đã góp phần tích cực vào q trình thực hiện CNH,
HĐH và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Đối với ngành công
nghiệp, các DN đầu tư nước ngồi chiếm 38% sản lượng cơng nghiệp
chung của cả nước và có tốc độ tăng trưởng 20%/năm. đầu tư nước ngồi
đã góp phần mở ra những ngành cơng nghiệp mới với công nghệ và
phương thức kinh doanh tiên tiến tại Việt Nam. Thể hiện: các DNCVĐTNN
chiếm gần 100% về khai thác dầu thô, 80% công nghệ sản xuất ô tơ, máy
giặt, máy điều hồ nhiệt độ; 60% sản lượng thép cán; 30% xi măng; 33%
thiết bị điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 49% da giày; 25% thực phẩm


19
đồ uống… Các lĩnh vực công nghiệp trên đây đã góp phần tạo ra bước phát
triển về tính chất, trình độ hiện có của lực lượng sản xuất, làm cho lực
lượng sản xuất của nước ta phát triển theo hướng hiện đại, phù hợp với xu
thế và mục tiêu chung của sự nghiệp CNH, HĐH.
Sự phát triển của FDI đã tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của

quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Như vậy FDI đã đóng góp vào sự
tăng trưởng của GDP, vào nguồn ngân sách Nhà nước, đặc biệt có tỷ trọng lớn
trong giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu. Sự đóng góp này
đã tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam thực hiện chiến lược cơng nghiệp
hố hướng về xuất khẩu.
Khẳng định vị trí, tầm quan trọng của FDI, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X khẳng định: “Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hóa các
hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài
vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng” [10, tr.87].
Đầu tư nước ngồi là nhân tố góp phần quan trọng vào quá trình hình
thành một lực lượng lao động mới ở Việt Nam. Những năm qua, theo số liệu
thống kê, đầu tư nước ngoài đã giải quyết việc làm trực tiếp cho hơn 860
nghìn lao động có việc làm và hàng triệu lao động khác liên quan gián tiếp
Trong các DNCVĐTNN, quan hệ lao động, trước hết là quan hệ giữa
người sử dụng lao động - người chủ và người lao động được thực hiện thông
qua hợp đồng lao động giữa công nhân và chủ DN; cũng như hợp đồng lao
động tập thể giữa đại diện chủ sở hữu và đại diện người lao động thông qua
thoả ước lao động. Một thực tế thường xảy ra là: khi các DN mới bắt đầu đi
vào hoạt động, hoặc khi gặp khó khăn về sản xuất - kinh doanh, nhìn chung
chủ DN thường muốn trả công cho người lao động thấp hơn so với số mà họ
đáng được hưởng; ngược lại người lao động muốn làm việc ít giờ hơn nhưng
được trả công cao hơn. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết thông qua
thương lượng giữa chủ DN với đại diện của người lao động sẽ dẫn đến tình


20
trạng đình cơng, bãi cơng làm thiệt hại cho DN, cũng như người lao động.
Đầu tư nước ngoài ở nước ta đã thu hút hàng nghìn DN của các nước
và vùng lãnh thổ. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt
Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hố trong quan hệ

giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các DNCVĐTNN.
Tất cả những vấn đề thuộc quan hệ giữa những người sử dụng lao động
và người lao động được ký kết theo hợp đồng lao động và thơng qua thương
lượng trên tinh thần hồ giải, nhân nhượng lẫn nhau, tạo sự hiểu biết giữa các
nền văn hoá, tập quán sinh hoạt của các dân tộc, hướng đến tạo ra doanh lợi
cao cho DN, đồng thời nâng dần thu nhập của người lao động, cải thiện điều
kiện làm việc và sinh hoạt của họ
Đã có thời kỳ vấn đề bóc lột trong quan hệ lao động ở các
DNCVĐTNN đặt ra như là vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Trong thực tế
có một số trường hợp chủ DN áp dụng các phương thức thiếu văn minh như
kéo dài thời gian lao động, khơng đảm bảo an tồn lao động và điều kiện lao
động tối thiểu, trả lương thấp hơn mức bình quân, kéo dài thời gian học nghề
của cơng nhân để DN có lợi nhuận cao hơn… cần được kiểm tra và xử lý.
Song, nhìn chung phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đã đối xử đúng luật
pháp Việt Nam đối với cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người lao động, chú
trọng việc nâng cao thu nhập của người lao động, cải thiện điều kiện lao động
và sinh hoạt của công nhân viên chức trong DN.
Theo số liệu thống kê do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cơng
bố, chỉ có gần 12% lực lượng nhân công Việt Nam được qua đào tạo. Lực
lượng nhân cơng khơng có chun mơn kỹ thuật dư thừa trong khi đó lại thiếu
lao động chuyên môn kỹ thuật. Thị trường sức lao động Việt Nam vẫn nằm
trong giai đoạn hình thành và phát triển chưa cao. Sự chuyển dịch lao động
giữa các ngành kinh tế khác nhau tương đối thấp so với các nước. Việc u
cầu các DN có vốn đầu tư nước ngồi phải tuyển dụng lao động trong nước


21
thông qua các cơ quan tuyển dụng được phép đã hạn chế tính linh hoạt của thị
trường sức lao động.
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về đội ngũ nhân công nhiều về số lượng

nhưng chất lượng vẫn thấp. Theo báo cáo của JETRO, tháng 6/2006, tiền
lương bình quân tháng theo USD của công nhân Việt Nam năm 2005: là 135
USD; kỹ sư: 302 USD; cán bộ quản lý bậc trung là 685 USD; trong khi lương
bình quân chung ở khu vực với công nhân là: 205 USD; kỹ sư: 546 USD và
cán bộ quản lý là: 1.129 USD.
Sự gia tăng của các DNCVDTNN, đã thu hút được một lực lượng lao
động vào làm việc ở khu vực này, nhờ đó mà làm tăng thu nhập cho người lao
động và góp phần quan trọng vào ổn định trật tự xã hội.
Trong thời gian qua, cùng với các thành phần kinh tế khác, thì khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút được một số lượng lao động ngày
càng tăng. Hiện nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra trên 2
triệu việc làm trực tiếp và khoảng 3- 4 triệu lao động gián tiếp và tăng năng
suất lao động, tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (như tỉnh Vĩnh Phúc năm 2000 cơ cấu lao động
trong ngành nông nghiệp là 85,7%, ngành công nghiệp - xây dựng là 6,5%,
ngành dịch vụ là 7,8% thì đến năm 2000 nơng nghiệp là 46,4%, ngành công
nghiệp - xây dựng là 25,5%, ngành dịch vụ là 28,1%), doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi được xem là tiên phong trong lĩnh vực đào tạo, nâng cao
trình độ công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận đó có
năng lực quản lý, trình độ khoa học cơng nghệ đủ sức thay thế chuyên gia
nước ngoài. Riêng đối với khu vực đầu tư nước ngồi trong khu cơng nghiệp,
khu kinh tế đó giải quyết việc làm cho 1,2 triệu lao động trực tiếp và sử dụng
lao động có chun mơn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản
xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế, nhiều trường cao đẳng hoặc cơ sở đào
tạo công nhân làm việc trong khu cơng nghiệp, khu kinh tế đó được xây dựng,


22
hình thành mơ hình liền kế và sử dụng nhân lực giữa khu công nghiệp và nhà
trường. Việc sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngồi về cơ bản đó thực hiện theo quy định của pháp luật về giao kết hợp
đồng lao động, nội quy lao động, tiền lương, thỏa ước lao động tập thể...
Việc tuyên truyền, phổ biến chính sách lao động- việc làm và xử lý các
vấn đề phát sinh ngày càng được quan tâm: thực thi các quy định của pháp
luật lao động, ngành Lao động- Thương binh và Xã hội, Ban quản lý các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu cơng nghệ cao, khu kinh tế và tổ chức cơng
đồn đó tổ chức tuyên truyền đến người sử dụng lao động, cán bộ làm công
tác nhân sự và người lao động với nhiều hình thức phong phú như tập huấn,
cung cấp tài liệu, sách hỏi đáp, tờ rơi....nhất là những chính sách mới về tuyển
dụng, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và đó đem lại những
kết quả nhất định, người lao động hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình
trong quan hệ lao động; đồng thời đó tổ chức thực hiện Quyết định số
31/2009/QĐ- TTg ngày 24.2.2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử
dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp từ 2009 đến 2012. Khi xây
dựng các văn bản quy phạm pháp luật đó lấy ý kiến của cácdoanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi, các hiệp hội doanh nghiệp bằng văn bản, thông qua
mạng và thông qua các buổi làm việc để tiếp nhận các ý kiến tham gia nhằm
hoàn chỉnh các quy định của pháp luật.
Như vậy, trong thời gian qua đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tuy tốc
độ phát triển không đều, nhưng lực lượng lao động làm việc trong khu vực
này qua các năm đều tăng. DNCVĐTNN là nơi tạo việc làm cho rất nhiều lao
động, phần lớn lao động thu hút vào làm việc trong khu vực này là lao động
chưa qua đào tạo và bộ phận không từ khu vực nông nghiệp, nơng thơn (có
thu nhập thấp). Khi được tuyển dụng vào làm việc thu nhập của họ tăng lên.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, thu nhập của người lao động ở khu vực


23
này cũng có xu hướng tăng, nếu năm 1994, 1995, thu nhập bình quân bình

quân một lao động ở khu vực này là 70 - 80 USD/tháng thì đến năm 2000 đã
tăng lên khoảng 100 USD, đến năm 2004 là hơn 110 USD
Trong số lao động làm việc trong các DNCVĐTNN có nhiều lao động
chưa được qua đào tạo. Lực lượng lao động trong các DN được tuyển chọn từ
nhiều nguồn khác nhau. Họ được làm việc trong hệ thống dây chuyền cơng
nghiệp hiện đại và địi hỏi tn thủ kỷ luật lao động cao. Đây cũng chính là
mơi trường tốt để đào tạo đội ngũ lao động, có phong cách làm việc phù hợp
với công việc hiện đại và kinh doanh tiên tiến. Nhiều DNCVĐTNN đã tạo
cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận
kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm hoặc được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Người lao động cũng được rèn luyện về kỷ luật, tác phong cơng nghiệp và thích
ứng dần với cơ chế quản lý mới. Qua một thời gian làm việc cho DNCVĐTNN,
hiện nay, đội ngũ lao động Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư nước ngồi ngày càng
trưởng thành và có kinh nghiệm. Thể hiện: theo số liệu thống kê, có 6.000 cán
bộ quản lý. 25.000 cán bộ kỹ thuật và trình độ tay nghề của hàng chục vạn công
nhân ở các DN có vốn đầu tư được nâng lên rõ rệt.
Thơng qua các dự án có vốn đầu tư nước ngồi, nhiều công nghệ mới,
tiên tiến hiện đại được ứng dụng ở nước ta, đã góp phần nâng cao trình độ kỹ
thuật và công nghệ cho nhiều ngành sản xuất, tạo điều kiện góp phần nâng
cao trình độ tay nghề, kinh nghiệm quản lý sản xuất, nhân sự, kinh nghiệm
kinh doanh trên phạm vi quốc tế, làm tiền đề để phát triển nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Bên cạnh những mặt tích cực thì ở các DN FDI cũng đang đặt ra những
thách thức, đe doạ sự phát triển bền vững đối với nền kinh tế nước ta, thể hiện:
Hiệu quả tổng thể nguồn vốn ĐTNN chưa cao: Theo Thứ trưởng Bộ Kế
hoạch và đầu tư, trong công nghiệp - xây dựng, các dự án đầu tư nước ngoài
(ĐTNN) chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; có q ít dự án về


24

cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông - lâm - ngư nghiệp rất thấp và có xu
hướng giảm dần trong khi đây là những ngành Việt Nam có thế mạnh.
Trong dịch vụ, các dự án bất động sản quy mơ lớn cịn cao song nhiều
trong số dự án này chậm triển khai, gây lãng phí về đất đai, vay vốn trong
nước. ĐTNN vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo dục
đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, mơi trường… cịn hạn chế.
ĐTNN hiện tập trung chủ yếu tại địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ
sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối
vùng miền, không đạt được mục tiêu hướng ĐTNN vào địa bàn khó khăn.
Các Khu kinh tế, khu cơng nghiệp... không tạo ra lợi thế khác biệt cho từng
địa phương và vùng lãnh thổ.
Đối tác đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ Châu Á, nhà đầu tư nước ngoài
là doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ cao. Hiện mới chỉ thu hút được trên
100 trong tổng số 500 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Tỷ lệ vốn
thực hiện thấp so với vốn đăng ký, chỉ khoảng 47,2%.
Mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn),
chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng: Trên 80% doanh nghiệp
ĐTNN sử dụng cơng nghệ trung bình của thế giới, 5-6% sử dụng công nghệ cao,
14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường hợp sử dụng cơng nghệ lạc hậu.
Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo chiều ngang - giữa
doanh nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình độ và năng lực
cơng nghệ.
Khơng ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật
pháp, yếu kém trong quản lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc,
thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị
chuyển giao công nghệ.
Công nghệ thấp dẫn đến các doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu thực
hiện việc gia công, một số doanh nghiệp được coi là công nghệ cao nhưng
những khâu sử dụng công nghệ cao lại không thực hiện ở Việt Nam. Hệ quả



25
là doanh nghiệp Việt Nam tạo ra giá trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng
sản xuất tồn cầu.
Số lượng việc làm tạo ra chưa tương xứng, đời sống người lao động
chưa cao, tranh chấp và đình cơng có xu hướng gia tăng: Từ năm 1995 đến
nay, cả nước đã xảy là 4.142 cuộc đình cơng, trong đó75,4% (3.122 cuộc) của
doanh nghiệp ĐTNN, chủ yếu xảy ra tại doanh nghiệp của Đài Loan, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Nhật Bản; tập trung ở ngành gia công, sử dụng nhiều lao động như
dệt may, cơ khí, điện tử, da giày xuất phát từ yêu cầu về lợi ích của người lao
động, nhất là vấn đề thỏa thuận mức tiền lương và điều kiện lao động.
Tính riêng năm 2011, tỷ lệ việc làm mới do khu vực ĐTNN tạo ra chỉ
chiếm 3,4% trong tổng số lao động có việc làm. Thu nhập bình quân theo
tháng của người lao động trong DN FDI chỉ cao hơn khu vực doanh nghiệp tư
nhân trong nước nhưng thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Hiệu ứng lan tỏa của khu vực ĐTNN sang khu vực khác của nền kinh
tế cịn hạn chế, có dấu hiệu chèn lấn: Mặc dù doanh nghiệp trong nước được
hưởng lợi từ ĐTNN chủ yếu thông qua tác động mở rộng thị trường, nhưng từ
năm 2007 (Việt Nam chính thức tham gia WTO) đến nay, doanh nghiệp sản
xuất và dịch vụ trong nước ở một số lĩnh vực đã chịu tác động chèn lấn của
doanh nghiệp ĐTNN.
Chưa đảm báo tính bền vững: Tình trạng cạnh tranh trong thu hút ĐTNN
khiến một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững.
Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước
phát triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào
khâu tiền kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng
quy định về môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ
sinh thái khu vực.
Khơng ít dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi
trường không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dịng

ĐTNN tiêu tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi


×