1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là một chủ trương xuyên suốt nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước
ta. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những
thành tựu khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, nổi bật là thành tựu về kinh tế xã hội. Các thành tựu trên lĩnh vực kinh tế do nhiều thành phần kinh tế tạo ra.
Trong đó, kinh tế tư nhân chiếm gần 50% GDP cao nhất so với các thành
phần kinh tế khác.
Các nghị quyết Đại hội IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội X (năm 2006) đã phát triển thêm một
bước gắn kết kinh tế cá thể, tiểu chủ với kinh tế tư bản tư nhân, gọi là
thành phần kinh tế tư nhân. Quan điểm trên đã cung cấp luận cứ đúng đắn,
khoa học cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn vai trò của kinh tế tư nhân trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn
đề có tính chiến lược lâu dài, trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ trung tâm là phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước.
Thành phố Lào Cai là trung tâm kinh tế chính trị, văn hố, hành chính
của tỉnh Lào Cai. Sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2000 đến
nay, kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố đã có bước phát triển tích cực.
Kinh tế tư nhân trong các ngành, các lĩnh vực trên địa bàn thành phố đã đóng
2
góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và tỉnh như:
đóng góp vào nguồn thu ngân sách của thành phố và của tỉnh, giải quyết việc
làm, xố đói giảm nghèo, tăng thu nhập nhằm cải thiện đời sống người lao
động, huy động vốn cho đầu tư phát triển; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và từng bước thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân địa bàn thành phố Lào Cai còn những hạn chế
nhất định như: quy mơ sản xuất kinh doanh cịn nhỏ bé, trình độ khoa học - cơng
nghệ cịn lạc hậu, việc đổi mới công nghệ chậm. Vấn đề quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân trên địa bàn còn thiếu nhất quán. Chấp hành những quy định pháp
luật đối với các doanh nghiệp chưa nghiêm, vấn đề môi trường chưa được tuân
thủ theo pháp luật, vấn đề về cơ chế chính sách đối với các doanh nghiệp cịn có
những vướng mắc, kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế tư nhân còn
nhiều yếu kém, chưa khai thác hết tiềm năng vốn có để phát triển, v.v..
Vì vậy, vấn đề: "Kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Lào Cai,
tỉnh Lào Cai" được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn Thạc sĩ kinh tế,
chun ngành Kinh tế chính trị với mong muốn góp phần nghiên cứu cơ bản
và hệ thống đối với thành phần kinh tế này. Nhằm đưa kinh tế tư nhân trên địa
bàn Thành phố Lào Cai góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung
của tỉnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, về kinh tế tư nhân ở nước ta đã có khá nhiều
cơng trình nghiên cứu ở những góc độ, phạm vi khác nhau. Có thể nêu ra
những cơng trình tiêu biểu có liên quan đến đề tài như:
- "Kinh tế tư nhân ở thành phố Đà Nẵng - thực trạng và giải pháp", (2000),
Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Trần Văn Năm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh. Trong luận văn này, tác giả phân tích vai trị của kinh tế tư nhân,
nêu ra những thực trạng kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng và đề ra những phương
hướng và giải pháp phát triển.
3
- GS,TS Hồ Văn Vĩnh (2001), "Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước
đối với kinh tế tư nhân ở nước ta", Đề tài cấp Bộ. Tác giả đã khẳng định vai
trò to lớn của kinh tế tư nhân, nêu ra những định hướng phát triển kinh tế tư
nhân và những giải pháp về pháp luật, về chính sách, về tổ chức để khuyến
khích kinh tế tư nhân phát triển.
- PGS, TS Nguyễn Đình Kháng (2002), "Kinh tế tư nhân và xu hướng
phát triển của nó trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tổng kết xu hướng phát
triển kinh tế tư nhân của các nền kinh tế thị trường nói chung. Vận dụng trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận giải rõ quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân. Đề xuất các
giải pháp trong quá trình phát triển đến 2005 và 2010.
- TS Nguyễn Minh Phong, "Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã tổng kết sự phát triển của kinh tế tư
nhân trước thời kỳ đổi mới. Vai trò, ý nghĩa của thành phần kinh tế tư nhân ở
Hà Nội. Đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu và tính tất yếu của phát triển kinh tế tư
nhân với Thủ đơ Hà Nội ngàn năm văn hiến có ý nghĩa quyết định phát triển
kinh tế - xã hội nói chung của Thủ đơ.
- Phan Mậu Dỗn (2005), "Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Đồng Nai", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong luận văn này, tác giả phân tích
vai trị và sự cần thiết phát triển kinh tế tư nhân. Phân tích thực trạng kinh tế
tư nhân ở tỉnh Đồng Nai và đề ra phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế
tư nhân thời gian tới.
- TS Nghiêm Xuân Đạt và GS,TS Tô Xuân Dân (Chủ biên),"Phát triển
và quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh", Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
Tác giả đã nêu lên tình hình và các giải pháp để phát triển các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, đồng thời đề ra các yêu cầu về công tác quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
4
- PGS,TS Nguyễn Huy Oánh, "Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Tác giả khẳng định vị trí và vai trị quan
trọng của thành phần kinh tế tư nhân (trong đó có các doanh nghiệp tư nhân)
và những yêu cầu, giải pháp để phát huy vai trò của kinh tế tư nhân đối với
nền kinh tế của nước ta.
- PGS,TS Vũ Văn Phúc (2005), "Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Tác giả
đề cập đến quan niệm về kinh tế tư nhân; bản chất kinh tế tư nhân; tính tất yếu
khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế hàng
hố và kinh tế thị trường; tính hai mặt của sự phát triển kinh tế tư nhân; thực
trạng kinh tế tư nhân và một số giải pháp cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế
tư nhân.
- TS Vũ Thị Bạch Tuyết (2003), "Con đường nào cho kinh tế tư nhân
của Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế", Nxb Tài chính, (4). Đánh giá thực
trạng kinh tế tư nhân, từ đó đề xuất giải pháp tháo gỡ vướng mắc hiện nay cho
nền kinh tế.
- PGS,TS Trịnh Thị Hoa Mai (2005), "Kinh tế tư nhân Việt Nam trong
tiến trình hội nhập", Nxb Thế giới, Hà Nội. Tác giả đề cập đến những vấn đề
chung về khu vực kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện
hội nhập, các loại hình doanh nghiệp tư nhân, vốn thực tế của doanh nghiệp tư
nhân như thế nào, số lượng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam...
- Minh Phương, Nguyễn Trần Quế, Hà Huy Thành, Đinh Thị Thơm
(2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới - thực trạng và
những vấn đề, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Các tác giả đã phân tích thực
trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam và đưa ra những giải pháp, chính
sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Trịnh Thị Mai Hoa (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình
hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tác giả đã tổng quan về kinh tế tư nhân với
5
những ưu thế và những hạn chế vốn có của nó; Phân tích đánh giá vai trị của
khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam.
- Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Quốc Tế, Lương Minh Cừ (2006), Sở
hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã trình
bày lý luận chung về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, vai trị, vị trí của kinh tế tư nhân, thực trạng phát
triển kinh tế tư nhân ở nước ta, những chính sách và giải pháp thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế tư nhân.
- Nguyễn Nhâm, Nguyễn Sinh Cúc, Đặng Hiếu (2006), Kinh tế tư nhân
và Đảng viên làm kinh tế tư nhân, Nxb Lao động Xã hội. Cuốn sách đã tập
hợp những bài viết về phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề Đảng viên làm kinh
tế; Đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề
Đảng viên làm kinh tế; Một số văn bản pháp luật mới của nhà nước về phát
triển kinh tế.
- Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lào Cai, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
(2006), Hợp tác phát triển hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội Hải Phòng, vai trò của tỉnh Lào Cai, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội. Tập hợp những bài phát biểu tại hội thảo quốc tế: hợp tác phát triển
hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, vai trò của tỉnh
Lào Cai.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Lào Cai (2007), Lào Cai - cơ hội đầu tư và kinh
doanh: Doanh nghiệp phát tài, Lao Cai phát triển. Khái quát về địa lí, kinh
tế, con người, xã hội, tiềm năng phát triển về công nghiệp, nơng - lâm nghiệp,
du lịch... và các chính sách dự án đầu tư của Lào Cai.
- Bùi Quang Vinh (2009), Lào Cai phát huy thành quả đạt được, phấn
đấu hoàn thành những mục tiêu đề ra, Tạp chí Cộng sản ngày 3/2/2009.
6
- Nguyễn Thị Hồng Minh (2013), Lào Cai: chú trọng phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản ngày
16/9/2013.
- Nguyễn Thị Hồng Minh (2013), Đẩy mạnh phát triển kinh tế cửa khẩu
ở Lào Cai trong thời kỳ hội nhập, Tạp chí Cộng sản ngày 12/8/2013.
- Nguyễn Đức Chính (2011), Phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, LATS Kinh tế, Học viện Khoa học
Xã hội. Luận án đã nghiên cứu quá trình tăng trưởng và phát triển của kinh tế
tư nhân, sự tương tác giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi. Đề xuất giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của khu
vực này.
- Phạm Ngọc Vân (2012), Đầu tư vốn cho phát triển kinh tế tư nhân
vùng duyên hải miền Trung, LATS Kinh tế, Học viện Ngân hàng. Luận án đã
trình bày những vấn đề cơ bản về đầu tư vốn phát triển kinh tế tư nhân. Kinh
nghiệm đầu tư vốn cho phát triển kinh tế tư nhân ở các nước, vùng kinh tế
khác và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Thực trạng đầu tư vốn phát
triển kinh tế tư nhân vùng duyên hải miền Trung Việt Nam. Giải pháp và kiến
nghị về đầu tư vốn cho phát triển kinh tế tư nhân vùng duyên hải miền Trung.
- Phạm Thị Lương Diệu (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
phát triển kinh tế tư nhân từ năm 1986 đến năm 2005, LATS Lịch sử, Trường
đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Luận án đã nghiên cứu quá trình hình
thành và phát triển tư duy của Đảng về vai trị, vị trí của kinh tế tư nhân của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong 20 năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 - 2005).
Trình bày sự tiến triển về quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách phát
triển, tổ chức thực hiện. Rút ra một số kinh nghiệm của Đảng trong q trình
lãnh đạo.
Tất cả các cơng trình, đề tài nghiên cứu về kinh tế tư nhân trên đây ở
nhiều cấp độ khác nhau, về vị trí, vai trị, thực trạng và đề ra những giải pháp
7
để phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta. Tuy nhiên, đến nay chưa có một đề tài
nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về kinh tế tư nhân trên địa bàn
thành phố Lào Cai. Vì vậy, đề tài là không trùng lắp với những công trình đã
cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Khẳng định vai trị và sự cần thiết khách quan của phát triển kinh tế tư
nhân trên địa bàn thành phố Lào Cai. Từ đó tìm ra những luận cứ khoa học để
đề xuất những giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành
phố Lào Cai, góp phần đưa tỉnh Lào Cai hồn thành thắng lợi mục tiêu phát
triển đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
Để làm rõ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng của kinh tế tư nhân trên địa
bàn thành phố Lào Cai thời kỳ từ năm 2005 đến 2012. Từ đó, đánh giá những
kết quả đạt được và chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của kinh tế tư nhân
trên địa bàn thành phố Lào Cai nói riêng và tỉnh Lào Cai nói chung.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm
huy động các nguồn lực, phát huy tiềm năng của kinh tế tư nhân trên địa bàn
thành phố Lào Cai, xứng đáng là trung tâm kinh tế chính trị của tỉnh Lào Cai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là kinh tế tư nhân trên địa bàn thành
phố Lào Cai, bao gồm: các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tư nhân
thuộc các ngành, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
8
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các hộ kinh doanh cá thể, các doanh
nghiệp tư nhân hoạt động trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại và dịch vụ trên địa bàn thành phố Lào Cai từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Và kết quả
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua hơn 25 năm đổi mới đối với
kinh tế tư nhân. Đồng thời kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu
khoa học đã được cơng bố có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, các phương pháp của kinh tế chính trị học,
kết hợp với phương pháp lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn và khảo sát thực tế.
Trong đó:
Chương 1: Chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp
lơgíc lịch sử để hệ thống hoá làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển kinh tế
tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương 2: Chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, điều tra,
khảo sát, so sánh, tổng hợp... kết hợp sử dụng một số bảng biểu, sơ đồ, đồ thị
minh hoạ nhằm đánh giá đúng kết quả phát triển kinh tế tư nhân và chỉ ra
những tồn tại yếu kém của kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Lào Cai
những năm qua.
Chương 3: Khái quát hoá kết quả nghiên cứu 2 chương, đưa ra phương
hướng, mục tiêu và kiến nghị các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân phát huy
9
hết tiềm năng góp phần thực hiện thành cơng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố Lào Cai.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích rõ thêm cơ sở lý luận phát triển kinh tế tư nhân trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đánh giá khoa học, khách quan thực trạng kinh tế tư nhân trên địa
bàn thành phố Lào Cai nói riêng và tỉnh Lào Cai nói chung giai đoạn 2005 đến nay.
- Đề ra những giải pháp thiết thực có tính khả thi nhằm thúc đẩy kinh tế
tư nhân trên địa bàn thành phố Lào Cai , đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp lãnh đạo tỉnh ,
thành phố và các sở, ban, ngành của tỉnh các phịng ban thành phố để hoạch
định chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Và làm tài liệu tham khảo nghiên
cứu của các cơ quan trong hệ thống chính trị của thành phố và tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ
TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng cộng sản
Việt Nam về kinh tế tư nhân
1.1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin
C.Mác trong quá trình nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đề cập rất sau tới kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân với tư cách là biểu hiện cụ thể của sở hữu tư nhân trong điều
kiện là quan hệ sản xuất thống trị với 2 trình độ: sở hữu tư nhân dựa vào lao
động của bản thân chủ sở hữu và sử hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Ở trình độ thứ nhất: sở hữu tư nhân dựa vào lao động của bản thân chủ
sở hữu, tức là “sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá
nhân, sở hữu mà người ta bảo là cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi
sự độc lập của cá nhân” [23, tr.616]. Với trình độ này, những người cộng sản
khơng cần phải xố bỏ, bởi chính nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phát triển
của nền đại cơng nghiệp cơ khí đã hàng ngày, hàng giờ xố bỏ nó rồi.
C.Mác nói “cái mà người cơng nhân chiếm hữu được bằng lao động
của mình cũng chỉ đủ để tái sản xuất ra đời sống đã bị hạ xuống đến mức
thấp mà thôi” và “chúng tôi tuyệt nhiên không muốn xóa bỏ sự chiếm hữu
cá nhân mà về những sản phẩm cần thiết để tái sản xuất ra sự sống ngày
mai. Vì sự chiếm hữu ấy khơng đẻ ra một quyền lực chi phối lao động của
người khác” [23, tr.168].
Ở trình độ thứ hai, “chế độ sở hữu tư sản… lại là biểu hiện cuối cùng
và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên
11
những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột người kia”
[26, tr.615], tức là khơng phải là sở hữu riêng của một cá nhân bất kỳ mà
người chủ sở hữu đó có thể chiếm đoạt kết quả lao động của người khác, vì
vậy ơng khẳng định: “Điều chúng tơi muốn là xố bỏ tính chất bi thảm của
cái phương tức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm
tăng thêm tư bản và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai
cấp thống trị đòi hỏi” [23, tr.618]. Đồng thời, các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác-Lênin cũng khẳng định: không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức
được, cũng như không thể làm cho lực lượng sản xuất tăng lên ngay lập tức
đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế cơng hữu, việc xố bỏ chế độ
sở hữu tư nhân là do quy luật khách quan trong q trình phát triển của xã hội
lồi người quyết định (không thể vượt qua sự phát triển đầy đủ của lực lượng
sản xuất và sự chín muồi của các điều kiện kinh tế xã hội, tức là cưỡng chế, đi
ngược quy luật), và sẽ là ấu trĩ, phi lý nếu cho rằng trái đất cuối cùng sẽ bị
huỷ diệt, rồi từ đó khơng tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào
nữa, tương tự cũng xẽ là ấu trĩ và vu vơ nếu cho rằng xoá bỏ sở hữu tư nhân là
kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội lồi người, để rồi từ đó không cho
phép chế độ sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong điều kiện vừa
mới giành được chính quyền, đặc biệt là ngay khi nội chiến chấm dứt vào
năm 1921, V.I.Lênin đã chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần và là người đầu tiên đề cập tới kinh tế tư nhân với tư cách là một trong
những thành phần kinh tế cấu thành của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH và việc sử dụng kinh tế tư nhân thông qua thực hiện chính sách kinh tế
mới. Ơng cho rằng, ở một mức độ nào đó chủ nghĩa tư bản là khơng thể tránh
khỏi và tương ứng với nó vẫn cịn sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân.
Các thành phần thuộc kết cấu kinh tế - xã hội thời đó bao gồm: Nông
dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; Sản xuất
12
hàng hố nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mỳ); Chủ nghĩa
tư bản tư nhân; Chủ nghĩa tư bản nhà nước; Chủ nghĩa xã hội”. Trong đó
nơng dân cũng như những người sản xuất nhỏ nói chung, vừa là người lao
động, vừa là người tiểu tư hữu, vừa là người đầu cơ, còn thành phần kinh tế tư
bản tư nhân có đặc trưng cơ bản là dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và sử dụng sức lao động làm thuê. Nhà tư bản với tư cách là chủ sở
hữu sẽ chiếm đoạt giá trị thặng dư, cịn cơng nhân với tư cách là chủ sở hữu
sức lao động, chỉ được nhận tiền công. Đương nhiên trong nền kinh tế hàng
hố nhiều thành phần dưới sự quản lý của chính quyền Xơ viết, kinh tế tư
nhân khơng hồn tồn giống kinh tế tư nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
nhưng chiếm đoạt giá trị thặng dư vẫn là bản chất cố hữu của nhà nước tư
bản?. Bởi vì, “chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư
bản lại là tốt so với thời trung cổ,..., vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển
trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội,..., bởi vậy chúng ta phải lợi
dụng chủ nghĩa tư bản làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ
nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng
lực lượng sản xuất lên” và “sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân là để xúc tiến
cho chủ nghĩa xã hội”
Như vậy, bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật về lịch
sử các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã phân tích, đánh giá bản
chất và vai trị quan trọng của kinh tế tư nhân cũng như những hạn chế của nó
trong q trình phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, các ông cũng chỉ ra sự
tồn tại của kinh tế tư nhân trong một giai đoạn nhất định là tất yếu khách quan
và cần thiết.
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về kinh tế tư nhân
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở của Chủ nghĩa Mác -Lênin đã nhận
định rằng, trong trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tất yếu
13
tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp Bác
cho rằng nền trong kinh tế của vùng tự do có nhiều thành phần kinh tế, trong
số đó có Kinh tế cá nhân của nơng dân và của thủ cơng nghệ, họ thường tự túc
ít có gì bán, và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu. Kinh tế tư
bản của tư nhân. Họ bóc lột cơng nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần
vào xây dựng kinh tế.
Trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới vẫn tiếp tục tồn tại kinh tế của cá
nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa
chủ nghĩa xã hội) và tư bản của tư nhân. Những thành phần kinh tế này cần
được cải tạo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hợp tác hố nơng
nghiệp là khâu chính thúc đẩy cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Kinh nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hố nơng nghiệp ở nước ta, cần phải
trải qua hình thức tổ đổi cơng và hợp tác xã sản xuất nơng nghiệp. Đó là việc
rất cần thiết. Chúng ta phát triển từng bước vững chắc tổ đổi cơng và hợp tác
xã thì hợp tác hố nông nghiệp nhất định thành công.
Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ
họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo
nguyên tắc tự nguyện.
Đối với những nhà tư sản cơng thương, Nhà nước khơng xố bỏ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ
hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế
của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo
chủ nghĩa xã hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cải
tạo khác.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh vào sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta có thể chia thành hai thời kỳ:
14
Thời kỳ trước đổi mới (1986) do còn hạn chế về mặt nhận thức, tư duy
chủ quan, nóng vội, duy ý trí, muốn có ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa nên muốn xoá bỏ ngay kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là đối tượng
phải cải tạo, để trong nền kinh tế quốc dân chỉ còn lại hai thành phần kinh tế
xã hội chủ nghĩa là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì vậy trong việc
hoạch định chính sách đã có sự thiếu bình đẳng, gây cản trở khơng cho kinh tế
tư nhân phát triển. Tuy nhiên trước yêu cầu của cuộc sống, những thử nghiệm
cải cách đã từng bước được áp dụng như Nghị quyết Trung ương 6 khoá IV
(1989) cho sản xuất bung ra, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương về khốn
sản phẩm trong nơng nghiệp và các nghị quyết tiếp theo đã chú trọng đến vai
trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội.
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI (1986) với thái độ nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã phê phán biểu
hiện chủ quan, nóng vội muốn xố bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa, đồng thời khẳng định chủ trương chiến lược phải sử dụng nhiều
hình thức kinh tế với quy mơ và trình độ khác nhau để giải phóng, phát triển
sức sản xuất xã hội, trong đó có kinh tế tư nhân. Từ đó đến nay thực hiện nhất
quán đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, kinh tế tư nhân được xếp vào
nhóm phi XHCN, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) đã khắc
phục cách nhìn đó.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII khẳng định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ nền kinh tế
nước ta có năm thành phần: Kinh tế quốc doanh (có vai trị chủ đạo); Kinh tế
tập thể; Kinh tế cá thể tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà
nước, trong đó kinh tế tư nhân được xác định là khu vực kinh tế bao gồm kinh
tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 Ban
15
chấp hành Trung ương khoá VIII (1989) về Nhiệm vụ kinh tế xã hội năm
1999 có nêu rõ “Tạo mơi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân
phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong các lĩnh
vực mà pháp luật không cấm, khắc phục sự giảm sút của khu vực kinh tế
này”. Riêng đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân, trước đại hội IX của
Đảng (2001), được quan niệm gồm cả kinh tế tư bản tư nhân trong nước và
nước ngồi (tư bản tư nhân, chính phủ, tổ chức siêu quốc gia…) đầu tư vào
Việt Nam. Đến Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX thì nội hàm kinh tế tư
nhân được thu hẹp lại, chỉ bao gồm kinh tế tư nhân tư bản tư nhân trong
nước, còn các nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được tách ra
thành một thành phần kinh tế riêng: thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX (18/3/2002) về tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế
tư nhân đã khẳng định rằng:
Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân “là
một khu vực kinh tế, là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân và việc phát triển kinh tế tư nhân được coi là vấn đề chiến
lược dài hạn trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trung tâm là phát triển kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao
nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế [9].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) trên cơ sở ba
chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) hình thành nhiều hình thức sở hữu
và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi. Như vậy lần đầu tiên Đảng ta khẳng định kinh tế tư nhân là
một thành phần kinh tế, bao gồm (kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân), đồng thời khẳng định “các thành phần kinh tế hoạt động theo
16
pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh…kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là
một trong những động lực của nền kinh tế”.
Đại hội lần thứ XI của Đảng cịn đề ra những chủ trương, chính sách nhằm
hồn thiện cơ chế chính sách để phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại
hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy
định của pháp luật. Tạo điều kiện thành lập các tập đồn kinh tế tư
nhân và tư nhân góp vốn vào kinh tế nhà nước… hỗ trợ các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt
trong nông nghiệp và khu vực nông thôn… Khuyến khích phát
triển các loại hình doanh nghiệp với nhiều hình thức sở hữu hỗn
hợp như: công ty cổ phần, công ty TNHH nhiều thành viên, công ty
hợp danh… [11].
Như vậy, từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng ta về kinh tế tư
nhân và vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng rõ, phạm vi hoạt động ngày càng
được mở rộng: từ cho phép trong sản xuất quy mô nhỏ tới thương mại, dịch vụ
tới không hạn chế về quy mô, lĩnh vực, địa bàn hoạt động… Qua các kỳ đại hội
cho thấy, kinh tế tư nhân là sản phẩm của sự nghiệp đổi mới, nó thực sự là một
bộ phận hợp thành quan trọng, không thể thiếu của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nó khơng phải là bộ phận đối lập với sự nghiệp đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải cải tạo và từng bước xoá bỏ;
trái lại cịn cần được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển, không hạn chế về
quy mô đối với ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm.
Trên cơ sở lý luận của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lê nin
và Hồ Chí Minh có thể định nghĩa kinh tế tư nhân như sau: Kinh tế tư nhân là
17
thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (hoặc vốn), bao
gồm nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng được pháp luật quy định.
Với quan niệm trên, kinh tế tư nhân không bao gồm các doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp tập thể (hoạt động theo Luật hợp tác xã, các tổ hợp
tác và các chủ thể sản xuất nông nghiệp hoạt động theo luật) và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
1.1.2. Các tiêu chí nhận diện kinh tế cá thể với kinh tế tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân trong thành phần kinh tế tư nhân
Môt là, về kinh tế cá thể
Kinh tế cá thể dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản
xuất, đó là hình thức sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản
phẩm chủ yếu bằng sức lao động của chính mình hoặc các thành viên trong gia
đình, loại hình kinh tế này tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau.
Ở nước ta hiện nay, kinh tế cá thể tồn tại dưới dạng các hộ sản xuất kinh doanh
nhỏ lẻ do một cá nhân hay một hộ gia đình làm chủ chưa đăng ký hoạt động kinh
doanh theo loại hình doanh nghiệp, chỉ đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
khơng có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh dựa vào lao động của bản thân và gia đình.
Hai là, về kinh tế tiểu chủ
Kinh tế tiểu chủ về cơ bản cũng dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất,
nhưng có sự th mướn lao động ngồi sức lao động của chủ. Vậy loại hình
kinh tế này có gì khác với kinh tế tư bản tư nhân trong khi cả hai cùng thuê
mướn lao động? Sự khác nhau căn bản là ở chỗ họ có thuê mướn lao động và
bóc lột giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra hay không?. Thực tế cho
thấy không phải bất cứ người nào thuê mướn lao động đều trở thành nhà tư
bản, sự phân biệt giữa nhà tư bản và người tiểu chủ còn được thể hiện ở chỗ:
khi người chủ còn trực tiếp tham gia lao động và chưa phải là chủ của một số
tiền nhất định đủ để mua tư liệu sản xuất cần thiết và thuê mướn hoàn toàn lao
18
động để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của họ thu
được phải đủ đảm bảo cho bản thân họ và gia đình có mức sống cao trong xã
hội, có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng thì họ vẫn là người tiểu chủ. Trong
kinh tế tiểu chủ lao động làm th chỉ có tính bổ sung, thay thế
Ba là, về kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay dù cịn tình trạng bóc lột ở
mức độ nhất định, nhưng khác với kinh tế tư nhân trong chế độ tư bản chủ
nghĩa ở chỗ nó được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của chế độ xã hội
mới, trong đó động lực làm giàu của tư nhân được kết hợp với mục tiêu của
xã hội là làm giàu chính đáng và khuyến khích tư nhân làm giàu hợp pháp, tạo
việc làm cho người lao động, dưới sự quản lý của nhà nước, thông qua các
công cụ như pháp luật, chính sách tiền lương…, kinh tế tư nhân phát triển
đem lại lợi ích cho cả tư nhân, người lao động và xã hội. Kinh tế tư bản tư
nhân dựa vào lao động làm thuê là chủ yếu.
1.1.3. Bản chất của kinh tế tư nhân
Khi nghiên cứu cơ sở lý luận về thành phần kinh tế cho thấy, tiêu chí cơ
bản để xác định một thành phần kinh tế chủ yếu trên quan hệ sản xuất, đó là
quan hệ giữa con người với con người được hình thành trong quá trình sản
xuất, thể hiện trên ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm, trong đó quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất đóng vai trị quyết định. Do đó khi nghiên cứu bản chất của
kinh tế tư nhân phải xem xét trên ba mặt đó.
Thứ nhất, về quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Khác với kinh tế nhà nước là thành
phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, hay kinh tế tập thể
dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, thì
kinh tế tư nhân lại dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
19
Thứ hai, về quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất
Trong kinh tế cá thể tiểu chủ, do dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất
của cá nhân hay hộ kinh doanh cá thể nên việc điều hành hay tổ chức, quản lý
quá trình sản xuất kinh doanh đều dựa trên sự điều hành của người chủ trong
gia đình hay bản thân chủ thể trực tiếp tham gia, các thành viên khác phục
tùng theo sự phân cơng đó, quan hệ giữa họ khơng phải là quan hệ chủ - thợ
hay quan hệ bóc lột mà là quan hệ có tính chất gia trưởng.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân quan hệ tổ chức quản lý đã có sự phân
định rạch rịi giữa một bên là ơng chủ có thể là cá nhân nếu đó là doanh
nghiệp một chủ hay cơng ty tư nhân, có thể là một nhóm nếu đó là cơng ty cổ
phần còn bên kia là lao động làm thuê, khi sức lao động đóng vai trị là hàng
hố thì người chủ sở hữu sức lao động đó một khi đã đem bán cho người sử
dụng thì cũng có nghĩa là anh ta phải phụ thuộc sự điều hành của ông chủ.
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sự phục tùng này rất khắt khe
nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho nhà tư bản. Khác với quan hệ phụ thuộc
dưới phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, quan hệ chủ thợ được hình thành
dựa trên sự quản lý và giám sát của nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa,
nhằm đảm bảo hài hồ lợi ích của cả ba bên: chủ tư nhân, người lao động và
xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân có thể dựa hồn tồn vào lao động làm th, có
thể th tồn bộ ban giám đốc điều hành
Thứ ba, về quan hệ phân phối
Thực chất của quan hệ phân phối là giải quyết tốt mối quan hệ về lợi
ích kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất, phân phối
phải đảm bảo được lợi ích của các cá nhân mới nâng cao được hiệu quả kinh
doanh, Phân phối phải dựa trên quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, vì vậy
kinh tế tập thể thực hiện phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ
tham gia dịch vụ thì đối với kinh tế cá thể, do dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu
20
sản xuất và sức lao động của bản thân là chủ yếu, nên sản phẩm và kết quả lao
động chủ yếu thuộc về chính họ hay cá nhân đó, ở đây, quan hệ phân phối là sự
tự phân phối trong nội bộ gia đình của các hộ sản xuất kinh doanh, nhằm đảm
bảo nhu cầu tiêu dùng của các thành viên trong gia đình.
Đối với các hộ tiểu chủ có th mướn nhân cơng thì phân phối kết quả
sản xuất còn căn cứ vào giá trị sức lao động của lao động làm thuê. Nhờ thực
hiện quan hệ phân phối như vậy nên các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ đã
gắn kết lợi ích vật chất của các thành viên trong hộ với kết quả sản xuất kinh
doanh, phát huy được khả năng sáng tạo, lịng nhiệt tình lao động của từng
thành viên, nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ đối với tài sản, nguồn vốn
và hiệu quả kinh doanh của cơ sở sản xuất kinh doanh.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân, phân phối cho người lao động theo
thoả thuận trong hợp đồng lao động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, việc phát triển kinh tế tư
bản tư nhân không thể phủ nhận tình trạng “bóc lột” trong q trình phân
phối. Tuy nhiên dưới sự điều chỉnh của nhà nước pháp quyền và hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa thì tình trạng “bóc lột” khơng cịn ngun nghĩa
như trong xã hội tư bản. Các doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế nước
ta là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, được định hướng
phát triển theo chủ nghĩa xã hội, được sự dẫn dắt của kinh tế nhà nước,
được các chính sách kinh tế vĩ mơ của nhà nước điều chỉnh; mặt khác hầu
hết các doanh nghiệp này có quy mơ nhỏ và vừa, chủ doanh nghiệp cịn
trực tiếp tham gia quá trình sản xuất, thu nhập của giới chủ có phần đóng
góp lao động của bản thân, quan hệ chủ thợ đã được cải thiện theo hướng
cùng nhau xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, lợi ích các bên được
điều chỉnh phù hợp với điều kiện đất nước, sự bóc lột chỉ ở trong giới hạn
cho phép. Thực tế cho thấy bộ phận công nhân làm việc trong lĩnh vực tư
nhân không chỉ tăng thu nhập, đời sống của họ được cải thiện nhiều, mà
21
trong q trình làm việc cơng nhân được học tập kinh nghiệm tổ chức quản
lý, sản xuất kinh doanh theo hướng hiện đại và khoa học, được tiếp cận với
máy móc thiết bị hiện đại từ đó nâng cao trình độ tay nghề, có thể nói, đó
là việc hi sinh lợi ích trước mắt nhỏ hơn, vì lợi ích lâu dài lớn hơn, trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1.1. Q trình tồn cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
Trong xu thế tồn cầu hố, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đang diễn
ra mạnh mẽ hiện nay, khơng một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển
được nếu tách biệt hay bị cơ lập. Việt Nam đang trong q trình mở cửa hội
nhập, tìm kiếm cơ hội để có thể tận dụng những thành tựu mà khoa học hiện
đại mang lai, đồng thời phát huy nội lực trong nước, nhằm xây dựng, phát
triển kinh tế đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công
bằng văn minh. Thực tế cho thấy tồn cầu hố kinh tế đã cung cấp cơ hội phát
triển kinh tế cho nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam,
trình độ sức sản xuất thấp kém, kinh tế lạc hậu, trong điều kiện tồn cầu hố,
thơng qua mở cửa đối ngoại, tăng cường hợp tác với các nước khác, mở rộng
thương mại đối ngoại, thu hút tiền vốn và kỹ thuật tiên tiến nước ngồi vào
trong nước, đồng thời có thể học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các
nước, từ đó có khả năng thực hiện đầy đủ “ưu thế đi sau” để đảy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế. Tồn cầu hố cũng là “con dao hai lưỡi”, cùng với q trình
đem lại nhiều lợi ích và cái tốt cho chúng ta, nó cũng đem lại nhiều rủi ro và
uy hiếp, do trình độ kỹ thuật và năng suất lao động của chúng ta thấp, sức
cạnh tranh quốc tế khơng mạnh, trong q trình tồn cầu hố tất nhiên phải
chịu những đòn tác động rất mạnh. Như vậy, bối cảnh hội nhập quốc tế đã tạo
ra những vận hội mới cho sự phát triển kinh tế nước ta và là nhân tố tác động
22
mạnh mẽ đến sự phát triển của kinh tế nước ta đặc biệt là kinh tế tư nhân, tuy
nhiên do vừa mới được tái lập và phát triển, kinh tế tư nhân ở nước ta phần
lớn quy mô nhỏ và vừa, trình độ cơng nghệ thấp, cùng với những hạn chế
trong quan hệ ngoại thương, thiếu kinh nghiệm trong chiếm lĩnh thị trường
cạnh tranh quốc tế khiến cho các chủ thể kinh tế tư nhân ở nước ta chịu nhiều
thua thiệt trong quan hệ làm ăn với đối tác nước ngồi, bị chèn ép khơng chỉ ở
thị trường quốc tế mà cịn ngay ở thị trường trong nước. Vì vậy, để giành
được sự chủ động trong quá trình hội nhập, các cơ quan quản lý nhà nước và
bản thân chủ thể của thành phần kinh tế tư nhân phải có chiến lược và bước đi
thích hợp nhằm phát huy, khai thác thế mạnh sẵn có, tận dụng triệt để các cơ
hội, đồng thời hạn chế đến mức tối thiểu các tác động tiêu cực của quá trình
hội nhập nhằm phát triển kinh tế tư nhân nói riêng và kinh tế đất nước nói
riêng một cách hiệu quả.
1.2.1.2. Về cơ chế, chính sách kinh tế
Muốn phát triển kinh tế nói chung, kinh tế tư nhân nói riêng, địi hỏi
cần phải có cơ chế chính sách kinh tế của nhà nước phù hợp, nếu khơng thì
khơng thể tạo ra động lực cho sự phát triển các thành phần kinh tế. Thời kỳ
trước đổi mới, do thực hiện cơ chế quản lý hành chính mệnh lệnh, tập trung,
chỉ huy từ trung ương nên hầu hết các thành phần kinh tế ở nước ta không
phát triển được, kể cả kinh tế quốc doanh được ưu tiên phát triển. Kể từ khi
đổi mới, nhờ cơ chế chính sách phù hợp, thơng thống tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế bình đẳng ngang nhau trước pháp luật, cùng với sự chỉ đạo
chung của Đảng và Nhà nước hàng loạt công cụ hỗ trợ kinh tế ra đời như
chính sách tài chính, tín dụng, đất đai, cải cách hành chính cơng…đã cho thấy
tác dụng của nó đối với nền kinh tế nói chung và đối với thành phần kinh tế tư
nhân nói riêng. Thực tế cho thấy khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 tác
động đến hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhưng nhờ có cơ chế hỗ trợ kịp
thời của gói hỗ trợ lãi suất 0,4% một năm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
23
doanh vay ngắn hạn, đã phần nào giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2009 vẫn đạt 6,5%, trong khi
nhiều nước trên thế giới tốc độ tăng trưởng âm. Nhưng do sự quản lý của nhà
nước chưa tốt nên mục tiêu của gói hỗ trợ lãi suất chưa đến đích, đối tượng
mà mục tiêu nhắm tới là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ vay được
20% tổng số vốn hỗ trợ, còn lại 80% rơi vào tay các đơn vị kinh doanh chứng
khốn, bất động sản… Vì vậy, có thể thấy các hộ kinh doanh cá thể, các
doanh nghiệp tư nhân ở nước ta bước đầu hình thành và phát triển trong cơ
chế thị trường cịn nhiều khó khăn, rất cần có sự hỗ trợ về cơ chế chính
sách của nhà nước để họ dễ tiếp cận được với nguồn vốn vay từ các ngân
hàng, đồng thời cần có sự quản lý của nhà nước để điều tiết nền kinh tế đi
đúng hướng, vừa tạo mơi trường thơng thống cho thành phần kinh tế tư
nhân phát triển, vừa ngăn chặn kịp thời tính tự phát, làm ăn theo kiểu chụp
giật, đầu cơ, làm giá, gây rối loạn thị trường do thành phần kinh tế này gây
ra. Nội dung chủ yếu quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân bao gồm từ
các khâu trước, trong và sau đăng ký kinh doanh. Thực tế cho thấy hiện
nay, bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân về hiệu lực, hiệu quả
cịn thấp, điều này sẽ khơng tạo điều kiện, mơi trường thuận lợi, thậm chí
cịn gây ra những khó khăn vướng mắc, cản trở trong quá trình phát triển
của kinh tế tư nhân.
1.2.1.3. Về mơi trường pháp lý
Đây là nhân tố rất quan trọng tạo ra hành lang pháp lý cho quá trình
phát triển kinh tế tư nhân, khi môi trường pháp lý được đảm bảo sẽ tạo ra một
sân chơi bình đẳng, xố bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế
trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh, đảm bảo công bằng trong xử lý
các trường hợp vi phạm của doanh nghiệp, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và
là động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển trong khn khổ của
pháp luật, như vậy: hồn thiện hệ thống pháp luật khơng chỉ có lợi trong các
24
quan hệ kinh tế, mà cịn góp phần lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Ở nước
ta, từ khi kinh tế tư nhân được ghi nhận là một bộ phận cấu thành quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp
luật và văn bản dưới luật, tạo cơ sở cho kinh tế tư nhân phát triển như: luật
Công ty, luật Đầu tư, luật Đất đai,…, đặc biệt là luật Doanh nghiệp song nhìn
chung hệ thống pháp luật của nước ta còn yếu, vừa thiếu lại vừa thừa, nhiều
văn bản pháp luật còn chồng chéo, bất cập, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng, đã
gây khơng ít khó khăn cho các đơn vị kinh tế, nhất là các đơn vị thuộc thành
phần kinh tế tư nhân. Vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo
điều kiện hơn nữa để các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư nhân phát triển.
1.2.1.4. Về sự quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Ở nước ta, sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với việc thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhiều chính sách hỗ trợ và tạo thuận lợi
cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động của các chủ thể
kinh tế tư nhân nói riêng đã được thực hiện. Một hệ thống các chính sách theo
cơ chế thị trường đã được hình thành về cơ bản bao quát hầu hết các lĩnh vực
hoạt động của chủ thể kinh tế tư nhân như: chính sách thuế, chính sách tín
dụng, thủ tục thành lập doanh nghiệp, chính sách giao đất, cho th đất, giải
phóng mặt bằng, thành lập các khu cơng nghiệp, chính sách phát triển nguồn
nhân lực, chính sách khoa học, cơng nghệ… đã xác lập được một mơi trường
bình đẳng cho các DN hoạt động. Nhờ đó, đã giúp chủ thể kinh tế tư nhân tự
do kinh doanh theo luật định, mở đường phát triển lực lượng sản xuất, tạo
thêm nhiều công ăn việc làm và gia tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Quy mô chủ thể kinh tế tư nhân cũng gia tăng đáng kể sau khi hồn thiện cơ
chế chính sách hoạt động với gia tốc năm sau gấp đôi năm trước trong khoảng
thời gian sau năm 2000. Điều đó chứng tỏ những tác động rõ nét của của hệ
thống chính sách đối với loại hình chủ thể này.
25
Tuy vậy, hệ thống chính sách kể trên cũng cịn những biểu hiện bất cập,
thiếu đồng bộ, chồng chéo: trong khi khẳng định quan điểm bình đẳng trong
kinh doanh nhưng thực tế vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các thành phần
kinh tế khác nhau; chưa có tổ chức quần chúng thực sự đủ mạnh để lên tiếng
nói bảo vệ lợi ích của người lao động trong các DN tư nhân. Từ đó đặt ra yêu
cầu phải tiếp tục hồn thiện các chính sách đó nhằm hướng tới một mơi
trường bình đẳng hơn, thiết thực hơn trong q trình đổi mới và hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Chính quyền địa phương là một bộ phận trực thuộc Chính phủ, vừa có
chức năng quản lý nhà nước đối với khu vực dân cư thuộc địa phận của mình
lại vừa trực tiếp quản lý nhà nước về kinh tế tại địa phương thông qua thực
hiện các chế định do Nhà nước ban hành đề tạo môi trường kinh doanh tối ưu,
định hướng, hỗ trợ DN phát triển đúng định hướng kinh doanh và tuân thủ
luật pháp. Điều này địi hỏi chính quyền địa phương phải hết sức nhậy bén,
suy nghĩ những vấn đề của sản xuất và đời sống như chính chủ DN, coi sự
thành cơng của DN là sự thành cơng của chính quyền địa phương.
Bên cạnh đó, sự kiểm tra kiểm sốt của nhà nước sẽ có tác động dẫn dắt
kinh tế tư nhân hoạt động theo quy định pháp luật
1.2.1.5. Về môi trường tâm lý
Hiện nay, việc phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta mặc dù đã được
Đảng và Nhà nước quan tâm, được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng,
hay được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, nhưng việc
phát triển kinh tế tư nhân vẫn chưa được xã hội nhìn nhận, đánh giá đúng
mức về vai trị, vị trí và sự đóng góp của nó trong q trình phát triển kinh
tế xã hội. Vẫn cịn có người cho rằng, phần lớn các loại hình doanh nghiệp
tư nhân làm ăn thiếu đúng đắn, bóc lột lao động làm thuê. Mặt khác, bản
thân các chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thực sự tin tưởng vào đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vẫn còn tâm lý lo sợ,