1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động và việc làm là hoạt động quan trọng nhất của con người,
nhằm tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội. Giải quyết việc
làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia có tác động
khơng chỉ đối với sự phát triển kinh tế mà còn đối với đời sống xã hội của
mỗi quốc gia. Đối với nước ta giải quyết việc làm còn là giải quyết một vấn
đề cấp thiết trong xã hội đồng thời là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu
quả nguồn lực lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động đáp ứng nhu
cầu của quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, đồng thời tận dụng lợi thế để phát
triển, tiến kịp khu vực và thế giới.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “Trên cơ sở
đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan tâm đến yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu lao động, giải quyết việc làm cho người lao động; tạo điều kiện giải quyết
việc làm cho người lao động; tạo điều kiện giải quyết ngày càng nhiều việc
làm, đặc biệt là cho nơng dân”.
Việt Nam có dân số hơn 86 triệu người, trong đó có trên 70% sống ở khu
vực nông thôn. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hằng
năm, nước ta có khoảng 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, trong đó
lao động nữ ở nơng thơn chiếm hơn 50%. Trong những năm qua, Ðảng, Nhà
nước, các cấp, ngành đã thể hiện sự quan tâm và quyết tâm trong công tác đào
tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động nông thôn, đặc biệt là đối
với lao động nữ vùng nông thôn miền núi, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa
giúp chị em có nghề nghiệp, việc làm, góp phần nâng cao vai trị, vị thế trong
gia đình và xã hội.
Lang Chánh là huyện miền núi vùng biên đặc biệt khó khăn của tỉnh
Thanh Hóa và là một trong 61 huyện của cả nước nằm trong diện được thụ
2
hưởng chính sách theo Nghị quyết số 30/A/2008/NQ-CP của Chính phủ về
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững. Do nằm ở khu vực miền
núi có địa hình cao và phức tạp, nhiều núi cao, độ dốc lớn và chia cắt mạnh
bởi các đồi núi, sông, suối... đã gây trở ngại lớn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Theo số liệu thống kê, dân số toàn huyện là 45.915 người, bao gồm nhóm dân
tộc chủ yếu sinh sống trên địa bàn như: Thái khoảng 53%, Mường 33%, Kinh
13%, các dân tộc khác 1%. Tỷ lệ hộ nghèo chiếm tỷ lệ trên 50%. Số người
trong độ tuổi lao động có 25.231 người, trong đó lao động nữ 13.268 người,
chiếm 52%. Mặc dù, trong những năm gần đây, thực hiện Chương trình phát
triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền
núi (135) và Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo (30A), các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ban, ngành, đồn
thể trong huyện đã có nhiều chủ trương, giải pháp để tạo việc làm và tăng thu
nhập cho lao động nữ, tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp và nghèo khó của lao động
nữ trên địa bàn huyện vẫn còn khá cao, đặc biệt ở 05 xã thuộc vùng 135 (hơn
40%). Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên là do phần lớn phụ nữ ở các
xã vùng đặc biệt khó khăn của huyện có trình độ văn hóa thấp, thiếu kỹ năng
nghề nghiệp, ít có điều kiện tiếp cận với các khóa tập huấn kiến thức, kỹ thuật
chăn ni, trồng trọt. Ngồi sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp chị em hầu như
không có việc làm khác để tăng thu nhập. Một thực tế khác là hầu hết phụ nữ
vẫn bị coi là lực lượng mang lại thu nhập thứ yếu, sau nam giới, tư tưởng
“trọng nam khinh nữ” vẫn còn phổ biến trong cộng đồng các dân tộc thiểu số
đã khiến nhiều lao động nữ chưa thực sự được bình đẳng trong lĩnh vực đào
tạo nghề và hỗ trợ việc làm. Bên cạnh đó, việc triển khai dạy nghề và tạo việc
làm cho lao động nữ tại huyện cịn gặp nhiều khó khăn, bất cập do điều kiện
kinh tế- xã hội, điều kiện về địa hình, giao thơng, yếu tố văn hố (phong tục
tập qn, ngơn ngữ... khơng đồng nhất), kinh phí, cơ sở vật chất, trình độ,
năng lực tổ chức quản lý và giảng dạy...
3
Thiếu việc làm ổn định, cộng với kiến thức pháp luật hạn chế, nhiều phụ
nữ đã trở thành nạn nhân của bạo hành gia đình, ngược đãi, bn bán người.
Khơng ít phụ nữ đã kiếm tiền bằng con đường phi pháp như cờ bạc, buôn bán
ma túy, mại dâm... Từ thực trạng trên, giải quyết việc làm cho lao động nữ ở
các xã vùng đặc biệt khó khăn của huyện Lang Chánh có ý nghĩa, vai trị rất
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh, trật tự của
địa phương.
Nhằm đánh giá thực trạng tình hình việc làm và giải quyết việc làm cho
lao động nữ ở các xã 135 của huyện Lang Chánh giai đoạn 2007 - 2012, trên
cơ sở đó nghiên cứu, xây dựng những giải pháp tích cực nhằm giải quyết tốt
việc làm tại chỗ, việc làm thường xuyên cho lao động nữ vùng đặc biệt khó
khăn, dân tộc thiểu số và miền núi những năm tới (2013 - 2020), góp phần
đưa huyện Lang Chánh ra khỏi danh sách huyện đặc biệt khó khăn của tỉnh,
của đất nước... vấn đề “Giải quyết việc làm cho lao động nữ ở các xã đặc
biệt khó khăn của huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa” được chọn làm đề
tài Luận văn tốt nghiệp cao học kinh tế - chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề xã hội rộng lớn, dành được sự quan
tâm sâu sắc của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia, dân tộc. Trong đó có
Việt Nam. Sau gần 25 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, trong đó có vấn đề giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao
động. Do đó, những kết quả nghiên cứu về giải quyết việc làm được phổ biến
khơng ít. Chỉ tính từ năm 1995 đến nay đã có rất nhiều các cơng trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến việc làm, giải quyết việc làm, đào tạo nghề đã
được công bố dưới nhiều hình thức khác nhau (sách tham khảo, đề tài, luận
văn, luận án, bài tạp chí, báo...)
Về sách tham khảo có:
- Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, TS.Nguyễn Hữu Dũng-TS.
Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1997.
4
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu
Dũng, TS. Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới của
biên tập khoa học Nolwen Henaff Jean-Yves Martin, Nhà xuất bản thế giới,
Hà Nội, 2001.
- Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt
Nam hiện nay, Đinh Đăng Định (chủ biên), Nxb Lao động, HN 2004.
- TS Nguyễn Thị Thơm (chủ biên): Thị trường lao động Việt Nam-thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
- Lao động, việc làm trong xu thế tồn cầu hố của TS. Lê Văn Toan,
Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2007.
Về luận văn, đề tài cấp bộ có:
- Phạm Quang Đạt (2002), Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc
làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Nông Đức Vinh (2004), Việc làm ở Lạng Sơn: Thực trạng và giải pháp,
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Bùi Xuân An (2005),Giải quyết việc làm ở Thái Bình, thực trạng và giải
pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Trần Thị Tuyết Hương (2005), Giải quyết việc làm trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hưng Yên đến 2010, Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Đào Mai Phước: Việc làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội
trong q trình đơ thị hố, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2006.
- Lê Văn Dũng (2008), "Việc làm cho người lao động nơng thơn tỉnh
Thanh Hóa", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2008.
5
- Hà Thị Minh Tâm (2010), “Giải quyết việc làm cho lao động nữ nông
thôn tỉnh Hà Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
- Đề tài cấp Bộ "Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với
giải quyết việc làm trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Chủ nhiệm đề tài PGS. TS Trần Văn Chử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2001.
- Đề tài cấp Bộ: “Thị trường lao động ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp”, Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Thị Thơm, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2004.
Ngồi ra cịn rất nhiều bài báo, tạp chí xoay quanh chủ đề này như:
- Vấn đề việc làm cho nơng thơn, Vũ Đình Thắng, Tạp chí kinh tế phát
triển, số 13, 2002.
- Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra, PGS. TS
Nguyễn Sinh Cúc, Tạp chí con số và sự kiện, số 8/2003.
- Thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn phát triển 2001 - 2005, Bùi Văn Quán, Tạp chí lao động và xã hội,
số CĐ3, 2001.
- Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay, Đỗ Minh Cương, Nông
thôn mới, số 91, 2003.
- Giải quyết việc làm sử dụng hợp lý nguồn nhân lực ở nông thôn hiện
nay, Vũ Văn Phúc, Tạp chí Châu Á - Thái Bình Dương, số 42, 2005.
- Lao động nơng thơn trước nguy cơ thất nghiệp, của tác giả Duy Cảnh,
trên báo Giáo dục Thời đại số 51.
Ngoài những hướng nghiên cứu trên cịn có một số cơng trình đề cập
gián tiếp đến vấn đề này như: Ảnh hưởng của đô thị hố đến nơng thơn ngoại
thành Hà Nội, thực trạng và giải pháp (2002), Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển, Nxb CTQG, Hà Nội; Toàn cầu
6
hoá: cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam (2002), TS. Nguyễn Bá
Ngọc, KS. Trần Văn Hoan, Nxb Lao động và xó hội, Hà Nội; Phát triển đô
thị bền vững (2002), TS. Quỳnh Trân - TS. Nguyễn Thế Nghĩa Chủ biên,
Trung tâm KHXH & NVQG. Viện KHXH tại Tp. Hồ Chí Minh. Nxb KHXH;
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn: thực trạng và giải pháp,
Tạp chí Lao động và xã hội, số 188 năm 2002 của PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc;
Hội Nông dân Việt Nam với công tác dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho nơng
dân, Tạp chí Lao động và xã hội, số 259 của Nguyễn Hữu Mai; Hải Dương:
Lao động nông thơn muốn có việc làm phải được học nghề, Tạp chí Lao động
và xã hội, số 224+225 của tác giả Hồng Minh; Chương trình 135 giai đoạn II
ở Thanh Hóa: Thực trạng về vấn đề xã làm chủ đầu tư, Bản tin Chương trình
135, số 4 năm 2009 của Quốc Bảo; Chương trình 135 giai đoạn II ở Thanh
Hóa: 80% người dân hài lịng với chất lượng chương trình, Báo Kinh tế Nông
thôn, 2012 của Nguyễn Lượng; Đẩy nhanh thực hiện các cơng trình hạ tầng
cho các xã đặc biệt khó khăn ở Thanh Hóa, Báo Mới.com, năm 2012; Thanh
Hóa với chương trình xóa nghèo nhanh và bền vững, Báo điện tử Đảng Cộng
sản, năm 2012 của Đào Nguyên Xim …
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy: nhiều cơng trình
nghiên cứu dưới dạng các bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí; cơng trình
mang tính chun sâu như sách tham khảo, luận văn, luận án... đã đề cập đến
vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nói chung, lao động nơng thơn và lao
động nữ nơng thơn nói riêng, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu về
giải quyết việc làm cho người lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của
huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề việc làm và giải quyết việc
làm cho lao động nữ nơng thơn; phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp giải
7
quyết việc làm cho lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang
Chánh, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về việc làm, sự cần thiết phải giải
quyết việc làm cho lao động nữ nơng thơn; phân tích đặc điểm và các nhân tố
ảnh hưởng đến việc làm của lao động nữ nông thôn để làm cơ sở đề xuất giải
quyết việc làm của lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang
Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nữ
các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang Chánh từ năm 2007 -2012.
- Nghiên cứu những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hiệu
quả việc làm cho lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang
Chánh, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang
Chánh, tỉnh Thanh Hố.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về khơng gian, luận văn chú trọng nghiên cứu tình hình giải quyết việc
làm cho lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang Chánh, tỉnh
Thanh Hóa.
- Về thời gian, trên cơ sở khảo sát giai đoạn 2007-2012 để đề ra giải
pháp cho giai đoạn 2013-2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, nhà nước về giải quyết việc
làm cho lao động nói chung và lao động nữ nơng thơn nói riêng thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
8
Phương pháp nghiên cứu. Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu đề ra,
luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu trìu tượng hóa khoa học kết hợp
lơgic lịch sử, phân tích, tổng hợp...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho lao động nữ ở
các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa
hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước giải quyết
việc làm cho lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của huyện Lang Chánh,
tỉnh Thanh Hóa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Khi đã được Hội đồng khoa học thơng qua, luận văn này có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho các sở, ban, ngành của tỉnh để hoạch định chiến
lược từng bước giải quyết việc làm cho lao động nữ ở các xã đặc biệt khó
khăn trên địa bàn.
8. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
LAO ĐỘNG NỮ Ở CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN VÙNG
DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI HIỆN NAY
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM
1.1.1. Một số quan niệm về lao động, việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1.1. Quan niệm về lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người tác động vào tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất. Đây là hoạt động cơ bản nhất của con
người, là tiêu chí để phân biệt hoạt động có mục đích của con người với hoạt
động theo bản năng của con vật. Các Mác khẳng định:
Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa con người
với con người và giữa con người với tự nhiên, một q trình trong
đó bằng sự hoạt động của chính mình, con người làm trung gian
điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên. Trong khi
tác động vào tự nhiên ở bên ngồi thơng qua sự vận động đó và làm
thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi căn bản
tính của chính nó [16, tr.61].
Như vậy, lao động vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi cá nhân
người lao động trong mỗi quốc gia. Để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, người
lao động cần có việc làm hợp pháp. Do đó, việc làm là điều kiện để quá trình
lao động được diễn ra và cũng là cơ sở để người lao động có thu nhập, đảm
bảo đời sống của bản thân con người và của toàn xã hội.
1.1.1.2. Quan niệm về việc làm
Việc làm, là một phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế, xã
hội ... là một trong những vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Quan niệm việc
10
làm và quan niệm lao động không giống nhau, nhưng có liên quan chặt chẽ
với nhau. ”Việc làm” thể hiện mối quan hệ của con người với những địa điểm
cụ thể, là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội
dung chính trong hoạt động của con người.
Dưới góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối quan hệ giữa sức lao động
và tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình, mỗi quốc gia, việc làm là vấn đề được
quan tâm hàng đầu. Quan niệm về việc làm không không cố định bất biến mà nó
được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội của mỗi quốc gia tương ứng trong mỗi thời đại.
Ở nước ta, sau khi giành được độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: "Chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho nhân dân ai cũng được ăn
no, mặc ấm, có việc làm, có giờ nghỉ, được học tập” và xác định đó là trách
nhiệm của Đảng và Chính phủ. Bác nói: “Bất cứ làm nghề gì có ích cho nước
nhà, cho nhân dân, cho giai cấp đều vẻ vang. Bất cứ nấu bếp, quyét nhà hay
làm Chủ tịch đều phải lao động cả, làm gì có ích nước, lợi dân là vẻ vang.
Nhưng do hạn chế của lịch sử để lại, trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, nước ta đã có quan niệm chưa đúng về việc làm: người lao động được
coi là có và được xã hội thừa nhận, coi trọng người làm việc trong thành phần
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, còn làm nội trợ, kinh tế gia đình, kinh
doanh, hành nghề cá thể thì chưa được xem là có việc làm chính đáng. Dẫn
đến tình trạng mọi người ồ ạt chen chân tìm việc làm trong khu vực kinh tế
quốc doanh và tập thể. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho số người
làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng lên quá mức so với khối
lượng sản xuất; kinh tế tập thể ngày cành phình ra nhưng thiếu vững chắc;
kinh tế gia đình thì teo đi; kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể không phát triển được.
Tình hình đó gây tác hại khơng nhỏ đến sự phát triển bền vững của kinh tế - xã
hội của đất nước, đưa vấn đề giải quyết việc làm đến chỗ khó khăn, bế tắc.
11
Khi nền kinh tế đất nước ”thay da đổi thịt”, nước ta chuyển từ nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, quan niệm về việc làm đã được thay đổi một cách căn bản. Trên cơ
sở học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng khái niệm việc làm của Tổ chức
lao động quốc tế (ILO) và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta
đã thống nhất khái niệm ”việc làm” trong Bộ luật Luật lao động của nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khố IX thơng qua ngày
23/6/1994: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn
cấm đều được thừa nhận là việc làm” [24, tr.163].
Như vậy, quan niệm về việc làm bao gồm các nội dung sau:
+ Việc làm là hoạt động lao động của con người;
+ Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập;
+ Hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm.
Theo nghia hẹp, việc làm chỉ những người “trong biên chế nhà nước”
mới là người có việc làm.
Theo nghĩa rộng, việc làm không chỉ là người lao động trong biên chế,
mà cịn ngồi biên chế, khơng chỉ ngồi xã hội, mà cịn tại gia đình. Với khái
niệm như vậy, tất cả những ai đang làm việc trong các thành phần kinh tế,
trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, xí nghiệp, trường học hoặc tại
gia đình (kể cả nội trợ) đều được coi là có việc làm.
Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo khả năng
to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Việc
chuẩn hóa và lượng hóa khái niệm việc làm tạo ra cơ sở thống nhất trong lĩnh
vực điều tra, nghiên cứu quy hoạch và hoạch định các chính sách về việc làm.
1.1.1.3. Quan niệm về giải quyết việc làm
Theo nghĩa rộng, giải quyết việc làm (GQVL), là tổng thể những biện
pháp, chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người
lao động tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi
người có khả năng lao động đều được lao động (có việc làm) và có thu nhập.
12
Theo nghĩa hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách chủ yếu hướng
vào đối tượng thất nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người
lao động để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Thực chất của GQVL là quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tố sản xuất
bao gồm sức lao động, tư liệu sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội khác
để đảm bảo cho người có khả năng lao động được lao động và duy trì hoạt
động lao động đó.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ VIỆC LÀM CHO
LAO ĐỘNG NỮ CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN CỦA MỘT HUYỆN MIỀN NÚI
1.2.1. Những vấn đề chung về lao động nữ
Không phải ngẫu nhiên mà năm nay Liên Hợp Quốc kêu gọi cả cộng
đồng thế giới cần phải trao thêm quyền cho lao động nữ đang sống ở các vùng
nông thơn trên khắp thế giới để xóa đói giảm nghèo. Thực tế cuộc sống cho
thấy, lao động nữ là lực lượng lao động quan trọng sản xuất ra phần lớn các
sản phẩm cho xã hội. Lao động nữ là một bộ phận của lực lượng lao động
quốc gia. Quan niệm này phản ánh một bộ phận cấu thành trong cơ cấu dân
cư là nữ trong độ tuổi lao động, có khả năng làm việc, mong muốn có việc
làm, đang có hoặc khơng có việc làm. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế, lao
động nữ được hiểu là hoạt động lao động của bộ phận nữ. Do đó, để làm sang
rõ hơn đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ đề cập đến lao
động nữ theo cách hiểu: Lao động nữ là một bộ phận của lực lượng lao động
quốc gia...
Lực lượng lao động có tính lịch sử cụ thể. Lao động nữ có vai trị quan
trọng mang tính lịch sử (về quy mơ, cấu trúc, độ tuổi, trình độ....). Trong xây
dựng và phát triển nơng nghiệp: Ở một nền nông nghiệp lúa nước lạc hậu phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam thì lực lượng lao động nữ có
vai trị khơng nhỏ. Hiện nay, trong các doanh nghiệp ở nước ta, tầm quan
trọng của các lao động nữ là rất lớn, nhất là trong những ngành đòi hỏi sự
13
khéo léo và linh hoạt trong lao động. Nhóm các ngành nghề như may mặc,
giày da hay lắp ráp linh kiện điện tử thì gần như tồn bộ các lao động là nữ.
Tuy nhiên, vai trò, vị thế của họ chưa được đánh giá cao. Lao động nữ khu
vực miền núi đang còn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới về cơ hội học tập,
việc làm, tiếp cận thông tin và thụ hưởng các thành quả của cuộc sống. Những
điều này khiến khơng ít lao động nữ khơng thể tìm thấy hạnh phúc thực sự
cho cuộc đời mình. Những năm qua, Ðảng, Nhà nước, các cấp, ngành đã thể
hiện sự quan tâm và quyết tâm trong công tác đào tạo nghề và giới thiệu việc
làm cho người lao động, nhất là đối với lao động nữ vùng nông thôn, miền
núi, giúp chị em có nghề nghiệp, việc làm, góp phần nâng cao vai trị, vị thế
trong gia đình và xã hội. Song, trên thực tế, nền kinh tế thị trường lực lượng
này lại đang gặp rất nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm.
Sự biến đổi về số lượng và chất lượng lao động nữ phụ thuộc vào sự:
Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ
trọng nông nghiệp sẽ làm thay đổi quy mô, cơ cấu lao động trong nông
nghiệp, công nghiệp dẫn đến lực lượng lao động nữ trong hai lĩnh vực này sẽ
thay đổi thích ứng.
Ở Việt Nam, lực lượng lao động nữ luôn chiếm gần 50,9% tổng lực
lượng lao động. Riêng lao động nữ từ 15 tuổi trở lên, cả nước có khoảng trên
44,1 triệu người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân. Lao động nữ tham
gia vào thị trường lao động sẽ đẩy mạnh phát triển kinh tế theo nhiều cách.
Thứ nhất, thu nhập của họ góp phần tăng thu nhập cho gia đình, đặc biệt đầu
tư phát triển cho trẻ em gái, yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững lâu
dài. Phụ nữ tham gia vào công việc giúp môi trường làm việc trở nên đa dạng
hơn, sáng tạo hơn, tăng năng suất và đặc biệt khuyến khích đổi mới. Nhưng
theo khảo sát về thực trạng việc làm của lao động nữ cho thấy, trình độ, năng
lực và chun mơn nghề nghiệp của lao động nữ ở nhiều vùng nơng thơn cịn
thấp, nhất là thiếu định hướng nghề nghiệp. Thực tế, hiện nay có hơn 50% số
14
các em gái ở vùng sâu, vùng xa của các huyện miền núi phải nghỉ học vì nhà
quá nghèo, phải tham gia vào thị trường lao động giúp cha mẹ để ổn định
cuộc sống gia đình. Do đó, phần lớn lao động nữ phổ thông chưa qua đào tạo
chiếm tỷ lệ cao. Nhìn chung, lao động nữ phổ thơng chiếm tỷ lệ cao nhất
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (62,9%), sau đó đến các
doanh nghiệp tư nhân (62,6%) và doanh nghiệp nhà nước là 41,9%. Tỷ lệ lao
động nữ đã chiếm trên 46% trong số người làm công, ăn lương từ các lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh, số chủ cơ sở sản xuất kinh doanh là nữ chiếm 41,12% tỷ
lệ lao động nữ làm kinh tế hộ gia đình chiếm 49,42%, tỷ lệ lao động nữ nơng
nghiệp chiếm trên 60%.
Khái qt có thể nhận thấy lao động nữ có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Lao động nữ còn tập trung chủ yếu ở lĩnh vực có chun mơn kỹ
thuật thấp.
Tuy tỉ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải quyết việc
làm tăng lên và có khả năng vượt kế hoạch, nhưng lao động nữ tập trung chủ
yếu ở lĩnh vực có chun mơn kỹ thuật thấp, có thu nhập thấp và việc làm
khơng ổn định. Trình độ chun mơn kỹ thuật của lao động nữ so với nam còn
cách biệt lớn, dẫn đến tính cạnh tranh của lao động nữ trên thị trường lao
động không cao. Hiện nay trong các doanh nghiệp ở nước ta, tầm quan trọng
của các lao động nữ là rất lớn, nhất là trong những ngành đòi hỏi sự khéo léo
và linh hoạt trong lao động. Nhóm các ngành nghề như may mặc, giày da hay
lắp ráp linh kiện điện tử thì gần như tồn bộ các lao động là nữ. Trong nhóm
các ngành cơng nghiệp nặng thì tỷ lệ lao động nữ có thấp hơn.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao
động cao nhất trên thế giới (khoảng 48,6%) .Theo số liệu thống kê của Tổng
Liên Đoàn Lao Động VN cho thấy có khoảng 56,2% lao động nữ làm việc
trong mơi trường tiếng ồn, rung; 55% nóng, bụi; 24,6% có chất độc; 12,9%
cơng việc nặng nhọc.
15
Nhìn chung tỷ lệ lao động nữ trong các doanh nghiệp từ năm 2005 đến
nay là cân đối so với nam giới, thậm chí đơi lúc cịn cao hơn.
Bảng 1.1: Thống kê số lao động nữ trong các doanh nghiệp tại các
tỉnh miền Đông Nam Bộ
2008
2009
2010
2011
Số lao động nữ
1369919
1504344
1550150
1600925
Tổng số lao động
2674979
2946923
3132900
3245640
Tỷ lệ % lao động nữ
51.21%
51.04%
49.48%
49.32%
Nguồn: số liệu thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam 2011.
Tỷ lệ lao động nữ trong các doanh nghiệp luôn nằm ở mức xấp xỉ 50%. Điều
này cho thấy trong các doanh nghiệp thì các lao động nữ cũng đóng vai trị
quan trọng như nam giới, vai trò của nữ giới và nam giới ngày càng bình
đẳng. Hơn nữa các doanh nghiệp có các vị trí lãnh đạo chủ chốt là nữ cũng
không hiếm. Thực tế, cả lao động nam và nữ đều có những vai trị nhất định
trong từng ngành nghề khác nhau. Mặc dù vậy, thu nhập của nữ giới hiện chỉ
bằng khoảng 75% của nam giới, cũng như các chế độ đãi ngộ cho nữ giới
cũng thường thấp hơn. Ngồi ra nữ giới cịn phải chịu nhiều áp lực từ các vấn
đề bức xúc khác khi lao động.
Hiện nay, trong các ngành nghề đã có sự chuyển dịch lớn về cơ cấu lao
động, nhưng sự chuyển dịch này vẫn cịn bất bình đẳng. Mặc dù, số lao động
trong khu vực nơng - lâm -ngư nghiệp có chiều hướng giảm, nhưng xét về cơ
cấu giới, thì số lao động nữ được giải quyết việc làm mới chỉ chiếm tỷ lệ cao
trong khu vực nông lâm - ngư nghiệp, thủy sản, cịn trong khu vực cơng
nghiệp - xây dựng là 36% và khu vực thương mại - dịch vụ chiếm 56,4%.
Theo điều tra năm 2009 của Tổng cục Thống kê, thu nhập của phụ nữ chỉ
bằng 78,5% so với nam giới trong các làng nghề, lĩnh vực, bằng 81,5 thu nhập
của lao động nam ở cùng trình độ chun mơn kỹ thuật bậc trung; bằng 90,1% ở
cùng trình độ cao đẳng và chỉ bằng 87% ở cùng trình độ từ đại học trở lên.
16
Vấn đề trình độ chun mơn kỹ thuật thấp kém thường gắn với ít cơ
hội có việc làm và thất nghiệp, trong khi trình độ chun mơn kỹ thuật của lao
động nữ so với lao động nam vẫn còn sự cách biệt khá lỡn và tính cạnh tranh
khơng cao, lao động nữ khó tránh những rủi ro dễ vấp phải trong nền kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế hiện nay.
Nhưng câu hỏi đặt ra là: Vì đâu cịn tồn tại tình trạng phân biệt đối xử
về mặt pháp lý, thể hiện trong các quy định hành chính cũng như về mặt định
kiến xã hội đối với phụ nữ ở nhiều nước vấn còn ngăn cản lực lượng lao động
này tìm kiếm được việc làm đúng nghĩa. Kết quả là họ chiếm ưu thế trong
khối kinh tế khơng chính thức, việc làm tạm bợ, thu nhập thấp…
Ngoài ra, hệ thống thuế và các chương trình phúc lợi nhiều nước được
thiết kế mà quên đi sự đóng góp của giới này, khơng khác gì hạn chế họ tham
gia lao động.
+ Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến
Bất bình đẳng giới tồn tại ở hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó
trước hết bắt nguồn từ tình trạng phụ nữ có học vấn q thấp, tức là rất ít phụ
nữ có kỹ năng hoặc có điều kiện để cạnh tranh một cách bình đẳng trong
những cơng vệc được trả lương cao. Một nguyên nhân khác không kém phần
quan trọng là do ảnh hưởng tư tưởng phong kiến, họ quan niệm rằng, phụ nữ
cũng không nên học cao và chỉ cần ở nhà làm nông nghiệp. Thiếu việc làm ổn
định, cộng với kiến thức pháp luật hạn chế, nhiều phụ nữ đã trở thành nạn
nhân của bạo hành gia đình, ngược đãi, bn bán người. Khơng ít phụ nữ đã
kiếm tiền bằng con đường phi pháp như cờ bạc, buôn bán ma túy, mại dâm...
Như một phụ nữ đã kể: "Chúng tơi có thể làm gì? Liệu chúng tơi có
ngồi nổi ở nhà nghe con cái kêu gào vì đói hay khơng? Chúng tơi có thể chịu
đựng cái đói, cái rét từ đêm này qua đêm khác và sau đó thì chúng tơi phải
đến với bất cứ đâu, bât kỳ ai cho chúng tơi có cơ hội được làm việc để chúng
tơi có tiền phụ giúp gia đình. Đây là thời buổi mà con trẻ phải khổ sở vô cùng.
17
Ngay cả của chính chúng tơi cũng khó lịng mà chịu đựng nổi khi cái đói cứ
bám riết lấy chúng tôi hàng tháng, hàng năm".
Sự tham gia của phụ nữ trong nơng nghiệp nhìn chung bị lãng qn.
Rất nhiều lao động của họ trong những hình thức khơng được trả cơng và vì
thế khơng được xem là hoạt động kinh tế. Sự phát triển của cơng nghệ và hiện
đại hố khơng giúp gì cho phụ nữ nơng thơn. Các chương trình phát triển
nơng thơn và cơ khí hố nơng nghiệp sau này đã giảm bớt đói nghèo nhưng
đồng thời nó cũng đem lại sự giảm đi đáng kể về sử dụng lao động đối với cả
nam và nữ.
Ngay cả điều này cũng có những ảnh hưởng bất lợi đối với phụ nữ. Lao
động của họ phần lớn được thực hiện bằng công nghệ hiện đại và một vài
trường hợp được thay thế bởi nam giới. Những nghề trước đây do phụ nữ và
nam giới đảm nhận như thu hoạch mùa màng thì do nam giới đảm trách trong
khi phụ nữ lui về lĩnh vực gia đình của họ, trở thành những người nội trợ hồn
tồn. Đây là q trình “nội trợ hố” phụ nữ nơng thơn, một kết quả gián tiếp
của những chính sách phát triển nơng nghiệp trước đó. Điều này tạo nên sự
phân biệt giữa vai trò khác nhau trong sản xuất, trong kinh tế gia đình giữa
phụ nữ và nam giới, trong đó nam giới là người đóng vai trị chính cịn phụ nữ
chỉ là người đóng vai trị phụ.
Các thành viên của tổ chức nơng nghiệp mà ở đó giáo dục và đào tạo
về cơng nghệ mới chủ yếu là nam giới. Sự phân biệt về hệ tư tưởng này giữa
nam giới người đóng vai trị chính và phụ nữ người nội trợ có cái giá phải trả
là phụ nữ nông thôn mất một cơ sở kinh tế của họ. Cho dù họ tiếp tục có vai
trị quan trọng trong sản xuất nơng nghiệp.
Trong thực tế, lực lượng lao động nữ tham gia lao động trên thị trường
còn ở mức thấp hơn nhiều so với nam giới, chỉ khoảng một nửa phụ nữ trong
độ tuổi lao động được tuyển dụng. Phụ nữ đa phần vẫn phải làm các công việc
không được trả lương đặc biệt là đối với các nước phát triển có tới 70% phụ
18
nữ làm công việc nội trợ - không được trả công, phụ thuộc vào sự quyết định
của chồng trong việc sử dụng thu nhập bằng tiền và ngay cả trong lĩnh vực lao
động trả lương thì phần lớn vẫn ở phân khúc của người thu nhập thấp hoặc
loại công việc "khơng ra việc".
Trong nhóm cơng việc tương tự như của nam giới, phụ nữ được trả
lương thấp hơn, ngay cả trong khối các nước phát triển như OECD chứ chưa
nói các nước đang phát triển. Trong khối này, chênh lệch thu nhập hai giới là
16%. Tại nhiều quốc gia, người ta nghĩ ra nhiều hình thức phân biệt đối xử
nhằm mục đích giảm lương của nữ giới, cũng như hạn chế họ tới các vị trí
quản lý.
Ðây cũng là một trong những nguyên nhân khiến lao động nữ phải làm
việc trong điều kiện làm việc chưa được cải thiện, thời gian lao động kéo dài,
rủi ro cao. Thậm chí, cịn bị bóc lột sức lao động và dễ bị tổn thương. Vì đâu
việc đem lại sự tiến bộ cho phụ nữ bị cản trở? Việc phân biệt đối xử về mặt
pháp lý, thể hiện trong các quy định hành chính cũng như về mặt định kiến xã
hội đối với phụ nữ ở nhiều nước vấn còn ngăn cản lực lượng lao động này tìm
kiếm được việc làm đúng nghĩa. Kết quả là họ chiếm ưu thế trong khối kinh tế
không chính thức, việc làm tạm bợ, thu nhập thấp.
+ Chênh lệch về trình độ học vấn giữa phụ nữ và nam giới ở bậc học
ngày càng cao.
Sự chênh lệch về cơ hội học tập của trẻ em gái và phụ nữ khu vực
nông thôn và dân tộc thiểu số là một thách thức lớn. Tỷ lệ bỏ học của trẻ em
gái ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số là vấn đề
đáng lo ngại. Cơng tác xóa mù chữ cho phụ nữ ở lứa tuổi từ 15 đến dưới 40
hiện vẫn còn gặp nhiều bất cập.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2010, tỷ lệ nam trong học hàm
phó giáo sư gần 90,33% và nữ là 13,64%; ở học hàm giáo sư gần 96,9%
và nữ là 7,1%. Học vị tiến sĩ khoa học nam gần 93,33% và nữ là 11%; học vị
19
tiến sĩ nam chiếm 84,99%, nữ gần 20%. Trình độ thạc sĩ là khả quan nhất với
73,25% năm và 34,02% nữ.
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ nữ vẫn là vấn đề rất
bức xúc, mặc dù nhiều Bộ, ngành và tỉnh thành phố đã bước đầu coi trọng
công tác này. Sự thiếu chủ động phối hợp trong thực hiện các giải pháp giữa
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội Vụ và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
đã dẫn đến tình trạng yếu kém về trình độ chun mơn kỹ thuật hiện nay
chậm được giải quyết.
+ Tỷ lệ tử vong bà mẹ trẻ em còn cao.
Thách thức lớn nhất hiện nay đối với với việc chăm sóc bà mẹ trẻ em
là tỷ lệ tử vong bà mẹ trẻ em giảm chưa mạnh, nhất là ở các vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Số phụ nữ mắc và chết do bệnh tai biến sản khoa có xu
hướng gia tăng. Cơng tác giáo dục, truyền thông sức khỏe sinh sản cho tuổi vị
thanh niên chưa sâu rộng đến các đối tượng, nên các bà mẹ chưa có ý thức và
kỹ năng trong việc chăm sóc thai nhi trước, trong và sau sinh. Hủ tục tập qn
sau sinh lạc vẫn cịn đè nặng trong tâm trí của nhân dân vùng dân tộc thiểu số,
dẫn đến nguy cơ tử vong cao cho mẹ và con.
Tuy tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV thấp hơn nam giới, nhưng có xu thế tăng
(năm 2006 là 20,3% và năm 2007 là 23,5%). Phụ nữ mang thai nhiễm HIV/AIDS
còn chiếm tỷ lệ khá cao ở một số tỉnh trọng điểm, cao nhất là ở Quảng Ninh
1,31%, tiếp đó là Điện Biên 1,13% và thành phố Hồ Chí Minh là 1%.
+ Tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ còn thấp.
Tỷ lệ lãnh đạo nữ cấp Bộ và Vụ trưởng ở các cơ quan quản lý nhà nước
có xu hướng giảm. Theo Bộ Nội vụ, số nữ Bộ trưởng và tương đương từ 12%
khóa 2002-2007 giảm xuống cịn 4,55% khóa 2007-2011; thứ trưởng và tương
đương giảm từ 9% xuống 8,41%; vụ trưởng và tương đương từ 6% giảm
xuống 5,53%.
20
Cơng tác quy hoạch cán bộ cịn chưa được quan tâm đúng mức. Việc
triển khai công tác cán bộ nữ thiếu đồng bộ dẫn đến thiếu nguồn cán
bộ nữ bổ sung cho nhiều vị trí lãnh đạo.
Ngay Bộ Y tế là cơ quan được đánh giá thực hiện khá tốt cơng tác vì sự
tiến bộ phụ nữ đã đề cao được vai trò lãnh đạo, quản lý phụ nữ, đến tháng 6
năm 2008 tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo các cấp của ngành y tế chiếm 37% (vượt
chỉ tiêu 7%), trong đó tỷ lệ nữ đảng viên là 34,7%. Hiện nay, với triển vọng
tăng trưởng khơng lấy gì làm khả quan tại khắp các thị trường trên thế giới,
việc phụ nữ tham gia lao động càng cần thiết hơn bao giờ hết. Phụ nữ đã,
đang và luôn sẵn sàng tham gia lao động với năng lực đã được chứng minh.
+ Việc lồng ghép vấn đề giới vào hoạch định chính sách và kế hoạch
phát triển cịn lúng túng.
Bộ máy hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp tuy đã kiện tồn nhưng
chất lượng hoạt động cịn hạn chế, cán bộ đều thực hiện nhiệm vụ theo chế độ
kiêm nhiệm, dựa trên lịng nhiệt tình là chính, nên chưa dành đủ thời gian và
trí tuệ cho cơng tác này.
Việc lồng ghép vấn đề giới vào hoạch định chính sách và kế hoạch phát
triển còn lúng túng. Mức kinh phí cấp cho hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ vừa
khơng thống nhất, vừa có sự chênh lệch lớn, dẫn đến tình trạng bị động của
Ban vì sự tiến bọ phụ nữ. Có tới 22% Bộ, ngành khơng nắm được kinh phí bố
trí, mặc dù các đơn vị này đều cho rằng có lập dự tốn hàng năm
1.2.2. Việc làm của lao động nữ
Nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. C. Mác đã đề cập đến
việc làm của lao động nữ. C.Mác nhận định rằng, khi sản xuất cơng nghiệp
hình thành, máy móc có khả năng thay thế một số công việc nặng nhọc và lao
động nữ có thể tham gia vào q trìh sản xuất tư bản với những cơng việc mà
họ có thể đảm đương được, phù hợp với sức khỏe của họ. Trong tập thứ nhất,
quyển 1, Bộ Tư Bản C.Mác đã viết "Vì máy móc làm cho lao động sức bắp
21
thịt trở thành thừa, cho nên nó trở thành một cơng cụ để sử dụng những người
lao động khơng có sức bắp thịt hoặc cơ thể chưa phát triển đầy đủ nhưng chân
tay mềm mại hơn. Vì vậy, khi tư bản sử dụng máy móc thì tiếng nói đầu tiên
của nó là: Lao động phụ nữ và trẻ em" [16, tr.499].
1.2.3. Ưu đãi đối với lao động nữ
Phụ nữ Việt Nam giữ một vai trị vơ cùng quan trọng trong lịch
sử dựng nước và giữ nước. Ngày nay trong công cuộc đổi mới vai trò của phụ
nữ càng được phát huy trong tất cả các lĩnh vực. Nghị quyết của Bộ chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ngày 12-07-1993 đã
khẳng định: “Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những
mục tiêu của Cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp lâu dài đến sự phát
triển của đất nước. Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ phát huy sức mạnh và chăm
lo sự phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng
của Đảng ta trong mọi thời kỳ cách mạng”. Nghị quyết chỉ rõ: “Một trong
những công tác lớn quan trọng của Đảng ta hiện nay là: Giải quyết việc làm,
chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khoẻ và
quyền lợi phụ nữ.
Xuất phát từ đặc điểm lao động nữ ngồi việc thực hiện những nghĩa vụ
lao động cịn phải đảm nhận chức năng làm mẹ. Bởi thế họ có những đặc
điểm riêng về giới tính (sức khoẻ, tâm sinh lý) chỉ phù hợp với những điều
kiện lao động nhất định. Bộ luật lao động dành hẳn chương X gồm 10 Điều
(Điều 109 đến Điều 118) quy định riêng cho lao động nữ nhằm đảm bảo
quyền làm việc của phụ nữ được bình đẳng về mọi mặt với nam giới. Người
sử dụng lao động không được phân biệt đối xử trong việc tuyển chọn, nâng
bậc lương, xử lý kỷ luật…và đảm bảo những ưu đãi nhất định cho lao động
nữ để họ thực hiện tốt chức năng của mình.
Nhà nước đảm bảo quyền làm việc của phụ nữ, có chính sách khuyến
khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm
22
thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt
làm việc không trọn ngày trọn tuần hoặc giao việc tại nhà. Được từng bước
cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ chuyên nghiệp, chăm sóc sức
khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần cho lao động nữ.
Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo
thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm, lao động nữ cịn có thêm
dự phịng.
Lao động nữ có thai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
mà khơng phải bồi thường khi có giấy chứng nhận của thầy thuốc nếu tiếp tục
làm việc sẽ ảnh hưởng xấu đến thai nhi, và lao động nữ phải báo trước cho
người sử dụng lao động một thời gian nhất định tuỳ thuộc vào sự chỉ định của
thầy thuốc.
Lao động nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh con từ 04 đến 06
tháng theo điều kiện lao động, tính chất của cơng việc địa điểm làm việc. Nếu
sinh đơi thì mỗi con sinh thêm được nghỉ 30 ngày. Trong thời gian nghỉ vẫn
được đảm bảo lương, chế độ Bảo hiểm xã hội.
Lao động nữ làm việc nặng nhọc khi có thai đến tháng thứ bảy, được
chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm một số giờ làm việc hàng
ngày mà vẫn hưởng đủ lương. Trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày
30 phút. Trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 60
phút trong thời gian làm việc mà vẫn hưởng đủ lương.
1.2.4. Đặc điểm của các xã đặc biệt khó khăn ở các huyện miền núi
tác động tới giải quyết việc làm cho phụ nữ
1.2.4.1. Đặc điểm của các xã đặc biệt khó khăn ở các huyện miền núi
Các xã đặc biệt khó khăn của một huyện miền núi là vùng, khu vực
hành chính phân biệt với thành phố, thị xã, là khu vực lãnh thổ rộng lớn nằm
ngoài thành thị, thuộc vùng sâu, vùng xa của một huyện miền núi. Ở đó người
dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
23
Địa hình của các xã đặc biệt khó khăn của một huyện miền núi là địa
bàn có độ cao từ 200 m trở lên so với mặt nước biển. Địa hình chủ yếu ở khu
vực này là đồi, núi cao, có nhiều sơng suối với độ dốc lớn, giao thơng đi lại
khó khăn. Khí hậu nơi đây chia làm 4 mùa rõ rệt, trong đó mùa mưa thường
xảy ra lũ quét, lũ ống gây sạt lở đất, mùa đông thời tiết lạnh kéo dài ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất của nhân dân, nhất là ngành
chăn nuôi và trồng trọt.
Là khu vực tương đối rộng, đất đai, khí hậu, tài ngun thiên nhiên
phong phú, nơng thơn miền núi có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển
một nền nông nghiệp “sạch” với những cây trồng, vật nuôi đặc sản, có giá trị
kinh tế cao. Địa bàn này cũng có thế mạnh về phát triển lâm nghiệp với nghề
trồng rừng, khai thác và chế biến gỗ, lâm sản. Ngành cơng nghiệp khai thác
và chế biến khống sản cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển.
Tuy nhiên, khu vực miền núi là địa bàn cư trú chủ yếu của đồng bàn
dân tộc thiểu số. Tại các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi thì mật độ dân cư
thấp, trình độ dân trí khơng cao, cịn tồn tại rất nhiều hủ tục lạc hậu...Dân cư ở
địa bàn sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên do tập quán săn bắt động vật
hoang dã, hái lượm sản vật sẵn có từ tự nhiên đã tồn tại hàng nghìn đời nay.
Thêm vào đó, đồng bào các dân tộc thiểu số được hưởng một số chính sách hỗ
trợ của nhà nước dành cho vùng khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo nên có
tâm lý trơng chờ, ỷ lại, thiếu động lực phấn đấu vươn lên.
Địa bàn các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi cũng là khu vực có tỷ lệ
hộ nghèo cao nhất trong cả nước. Lao động nữ ở các xã đặc biệt khó khăn của
miền núi chủ yếu là lao động thủ cơng ở trình độ thấp, số lao động đã qua đào
tạo, nhất là đào tạo nghề cịn chiếm tỷ lệ rất thấp. Do đó, lao động nữ ở các xã
đặc biệt khó khăn của miền núi là khu vực có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội thấp nhất của cả nước.
Bên cạnh đó, địa bàn miền núi cũng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn
định chính trị - xã hội. Vấn đề dân tộc, tôn giáo diễn biến phức tạp. Các thế
24
lực thù địch tăng cường lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tự do tín
ngưỡng, tự do tơn giáo gây chia rẽ trong đồng bào, nhằm làm cho nhân dân
khơng n tâm lao động sản xuất, mất lịng tin vào Đảng và Nhà nước ta, tạo
sự mất ổn định trong đời sống chính trị - xã hội để thực hiện âm mưu chống phá.
Do vậy nếu khơng có những chính sách phát triển kinh tế - xã hội đặc thù, hỗ trợ
người dân tạo việc làm, xố đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống thì sẽ khơng giải
quyết được tận gốc vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và vấn đề cơng bằng trong
chính sách phát triển các vùng, miền và ưu tiên các dân tộc thiểu số đặc biệt là
chính sách đối với các xã đặc biệt khó khăn của một huyện miền núi.
1.2.4.2. Đặc điểm của các xã đặc biệt khó khăn ở các huyện miền núi
tác động tới việc làm của lao động
Do do những trở ngại về địa hình, giao thơng, tập qn canh tác,… đã
làm cho đời sống và việc làm của nhân dân cịn nhiều khó khăn. Nghèo đói
của người dân nói chung, người phụ nữ miền núi nói riêng chịu tác động của
nhiều yếu tố, với tính chất và mức độ khác nhau. Các yếu tố này có thể có sự
tương tác lẫn nhau và tác động đến nghèo đói. Vịng luần quẩn: nghèo đói
dẫn tới thu nhập thấp, thu nhập thấp dẫn tới đầu tư cho sản xuất, cho học hành
của con cái những người nghèo thấp, vì đầu tư thấp dẫn tới kết quả sản xuất
thấp và học tập thấp. Vì kết quả sản xuất thấp sẽ khơng đủ để trang trải các
khoản chi phí cho đời sống, quá trình đầu tư tái sản xuất thấp, đầu tư thấp làm
cho thu nhập thấp và học hành yếu kém làm cho chất lượng nguồn nhân lực
thấp, dẫn tới đói nghèo.
* Những nhân tố về điều kiện tự nhiên
Đây là điều kiện đầu tiên, quan trọng, có khả năng tạo thuận lợi hoặc
gây khó khăn cho hoạt động sản xuất. Chẳng hạn, độ mầu mỡ tự nhiên của đất
đai; diện tích canh tác bình qn đầu người; điều kiện khí hậu bất lợi cho phát
triển các loại cây trồng và con vật nuôi; trữ lượng của hầm mỏ; tài nguyên
rừng và biển...
25
Các huyện miền núi là thường có địa hình trắc trở, giao thông bất lợi,
tập quán canh tác lạc hậu… đã làm cho đời sống và việc làm của lao động nứ
ngày càng khó khăn. Vì vậy, điều kiện tự nhiên không chỉ là cơ sở quan trọng
ban đầu cho phát triển sản xuất. Việc tiếp theo của địa phương, tỉnh thành,
quốc gia là phát huy mặt thuận, hạn chế mặt không thuận của điều kiện tự
nhiên chi phối nền sản xuất, trên cơ sở đó hoạch định chính sách phát triển
đúng đắn, bền vững nhằm mục tiêu quan trọng là phát triển con người - chủ
thể và động lực chủ yếu của nền sản xuất và mọi hoạt động xã hội.
* Nhân tố thuộc về sức lao động nữ ở các huyện miền núi
Nhân tố này bao gồm những địi hỏi mà lao động nữ cần có để đáp ứng
được yêu cầu của người sử dụng lao động. Nói rộng hơn, chỉ có từ việc
nghiên cứu và hiểu thấu những đặc điểm của lao động nữ thì Nhà nước, mà cụ
thể là các nhà hoạch định chính sách mới có thể đề xuất những biện pháp
thích ứng tạo việc làm phù hợp cho họ.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay, cung về số lượng lao động nữ đang
dư nên vấn đề này trở nên đơn giản. Nhưng điều rất quan trọng ở đây
là những yêu cầu về chất lượng sức lao động nữ. Do đó, lao động nữ ở các
huyện miền núi muốn tìm được việc làm, nhất là việc làm có thu nhập cao,
phù hợp với năng lực, trình độ, thì đặc biệt phải đầu tư cho sức lao động của
mình, cả về thể lực và trí lực. Bên cạnh đó, vấn đề khơng kém phần quan
trọng là phải có các thơng tin về thị trường lao động, có cơ hội được tiếp cận
thơng tin về cơ hội việc làm. Do đó, việc thơng tin về thị trường lao động giúp
cho phụ nữ ở các huyện miền núi lựa chọn được ngành nghề mà thị trường lao
động đang cần và sẽ cần trong tương lai để thực hiện sự đầu tư có hiệu quả,
chủ động tìm kiếm việc làm và nắm bắt các cơ hội tìm việc làm trở nên hết
sức cần thiết. Mỗi phụ nữ ở các huyện miền núi cần tùy thuộc vào điều kiện
và khả năng cụ thể của mình, tranh thủ các nguồn tài trợ (từ gia đình và các tổ
chức xã hội) để tự định hướng kỹ năng, phát triển sức lao động nhằm nâng