1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người không thể tồn tại nếu tách khỏi mơi trường văn hố, một mơi
trường văn hố lành mạnh, phong phú là cái nơi ni dưỡng, hình thành bản
lĩnh, năng lực sáng tạo, đạo đức, tâm hồn, tình cảm và nhân cách con người.
Mơi trường văn hố đã trở thành tiêu chí, điều kiện cơ bản để đánh giá sự phát
triển bền vững của các quốc gia, dân tộc; của các ngành, lĩnh vực trong đời
sống xã hội. Thực tế cho thấy, sự không thành cơng của nhiều quốc gia do
tách rời văn hố với phát triển kinh tế, xem nhẹ vai trò của mơi trường văn
hố, dẫn đến khủng hoảng về kinh tế và sự tha hoá về nhân cách của con
người, đúng như lời cảnh báo của ông Federico Mayor (Tổng Giám đốc
UNESCO): “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách
khỏi mơi trường văn hố, thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm
trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy
giảm rất nhiều” [9, tr.25]. Trong bối cảnh như vậy, ở nước ta, xây dựng mơi
trường văn hố nói chung và mơi trường văn hố trong các ngành, lĩnh vực
nói riêng “làm cho văn hố thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã
hội”, là điều kiện để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước trong
công cuộc đổi mới hiện nay.
Thanh tra là một hoạt động đặc thù của quản lý nhà nước, có chức năng
bảo đảm cho hiệu lực của quản lý nhà nước được thực hiện. Vì vậy, để đảm
bảo thực hiện chức năng quản lý nhà nước thì nhất thiết phải có thanh tra,
kiểm tra và hơn thế nữa là phải xây dựng môi trường thanh tra minh bạch,
khách quan. Để xây dựng được một mơi trường văn hố lành mạnh trong hoạt
động quản lý, văn hoá cần được xác định là một nhân tố quan trọng tác động
đến hoạt động quản lý nhà nước nói chung và của từng bộ phận trong q
trình quản lý chun ngành nói riêng. Gần 70 năm qua, kể từ ngày Chủ tịch
2
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL ngày 23-11-1945 thành lập Ban Thanh tra
đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành Thanh tra Việt Nam đã không
ngừng lớn mạnh và trưởng thành. Lớp lớp các thế hệ cán bộ, công chức ngành
Thanh tra Việt Nam đã không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi gian nan, thử
thách, khó khăn để hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; góp phần xứng
đáng vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng nên truyền thống hào
hùng của ngành Thanh tra Việt Nam, xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của dưới”. Chính truyền
thống hào hùng của ngành Thanh tra Việt Nam, bản sắc văn hoá Thanh tra
Việt Nam là điểm tựa tinh thần vững chắc cho các thế hệ cán bộ, thanh tra
viên ngành Thanh tra hơm nay vượt qua mọi khó khăn, thử thách và cả những
cám dỗ để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin
cậy, kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Cho đến nay, Thanh tra Việt
Nam không chỉ là hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó mà đã trở thành biểu tượng trong
lĩnh vực bảo vệ pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Biểu tượng đó
là sự kết tinh những giá trị mà ngành Thanh tra đã đạt được trong quá trình
phát triển và trưởng thành, là sự cống hiến tận tuỵ, đầy trách nhiệm của nhiều
thế hệ cán bộ thanh tra. Những giá trị mang tính truyền thống, ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động thanh tra chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác
thanh tra hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đóng góp vào sự phát triển của
đất nước tạo nên niềm tự hào cho truyền thống của ngành Thanh tra thì hoạt
động thanh tra cũng đã bộc lộ một số yếu kém, sai lầm. Đó là những sai phạm
của cán bộ trong khi tiến hành thanh tra, những hạn chế, lúng túng trong ứng
xử của cán bộ thanh tra khi tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo… Nếu
như những vi phạm, yếu kém của cán bộ, công chức ngành Thanh tra không
3
được phát hiện, ngăn chặn có hiệu quả và khắc phục kịp thời thì hình ảnh của
ngành Thanh tra sẽ bị ảnh hưởng, nhiều vụ việc trên thực tế sẽ trở lên phức
tạp, gây bức xúc trong quần chúng và cơ quan bị thanh tra. Những tồn tại yếu
kém đó đặt ra những thách thức to lớn, đòi hỏi ngành Thanh tra phải vượt qua,
xứng đáng với trọng trách được Đảng và Nhà nước giao phó và sự trơng cậy
của nhân dân. Ngành Thanh tra phải phát huy được những giá trị văn hoá dân
tộc, phát huy được những nét đặc thù văn hố ngành, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của ngành, xây dựng mơi trường văn hố ngày càng hồn
thiện. Đó là điều kiện quan trọng cho việc giáo dục lý tưởng ngành nghề,
nâng cao kiến thức kỹ năng nghề nghiệp đồng thời xây dựng bản lĩnh của
cán bộ thanh tra trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước. Thực hiện nhiệm vụ trên đây góp phần loại bỏ những tiêu cực trong
quá trình hoạt động nghề nghiệp, tạo cho cán bộ thanh tra có sức đề kháng
mạnh mẽ trước phức tạp, mặt trái từ mơi trường xã hội. Chính vì vậy, v iệc
nghiên cứu, xây dựng mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra có ý
nghĩa quan trọng khơng chỉ đối với quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động
của ngành Thanh tra mà cịn góp phần quan trọng vào việc tăng cường năng lực,
xây dựng ngành Thanh tra ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ được giao.
Với những lý do trên đây, tôi chọn đề tài: "Mơi trường văn hố trong lĩnh
vực thanh tra ở nước ta hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp, chun ngành Văn
hố học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian gần đây, ở nước ta xuất hiện nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài, các cơng trình nghiên cứu này theo các hướng sau:
Nghiên cứu về mơi trường văn hố:
- Cơng trình “Xây dựng mơi trường văn hố - Một số vấn đề lý luận về
thực tiễn” của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, xuất bản năm 2004, tập
4
hợp các bài viết của nhiều nhà nghiên cứu văn hố, nhiều người làm cơng tác
lãnh đạo, quản lý trên lĩnh vực văn hoá. Trong cuốn sách này, các tác giả đã
trình bày một cách tương đối tồn diện những vấn đề cơ bản nhất về mơi
trường văn hố trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Giáo trình “Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng” của tập thể
các nhà khoa học thuộc Viện Văn hoá và phát triển, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2010, đã đề cập đến hoạt động
xây dựng mơi trường văn hố là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
- Cuốn sách “Xây dựng mơi trường văn hố ở nước ta, nhìn từ góc độ
giá trị học” của GS.TS Đỗ Huy. Tác giả tiếp cận MTVH từ góc nhìn của giá
trị học, đề cao vai trò của con người, các quan hệ xã hội, quan hệ giữa con
người với tự nhiên, coi đó chính là nội dung cốt lõi của MTVH.
- Cuốn sách “Mơi trường văn hố với việc xây dựng lối sống con người
Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Hồng Hà, tập trung vào những vấn đề lý luận
chung như mơi trường, mơi trường xã hội, mơi trường văn hố. Từ đó, tác giả
nêu lên mối quan hệ giữa mơi trường văn hoá đối với việc xây dựng lối sống
con người Việt Nam, cả về nếp sống, lẽ sống và những tập quán của con
người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Bài viết “Mơi trường văn hố với sự hình thành nhân cách” của
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn đăng trên Tạp chí Tư tưởng Văn hố, số 1 năm
1997 đã trình bày sự tác động của mơi trường văn hố đến sự hình thành, phát
triển nhân cách của con người. Tác giả cũng đề xuất những giải pháp cho việc
xây dựng mơi trường văn hố ở nước ta hiện nay.
- Luận văn thạc sĩ: Mơi trường văn hố thẩm mỹ trường Đại học
Văn hoá nghệ thuật Quân đội hiện nay Phạm Văn Xây, bảo vệ tại Học
viện CT - HC QG Hồ Chí Minh năm 2011. Luận văn đã hệ thống một số
5
vấn đề lý luận về mơi trường văn hố thẩm mỹ, trong đó có mơi trường văn
hố nói chung.
Nghiên cứu về ngành Thanh tra:
- Tập “Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học thanh tra từ năm 1992 đến năm
2002”, gồm có 6 tập. Cơng trình đồ sộ này tập hợp tồn bộ các đề tài nghiên
cứu khoa học của ngành Thanh tra trong 10 năm, từ 1992 đến năm 2002.
Cơng trình đã đề cập đến hầu hết các hoạt động của ngành Thanh tra, từ xây
dựng đội ngũ, tổ chức hoạt động, bộ máy đến đổi mới hoạt động của ngành
Thanh tra; vai trò của ngành Thanh tra trong việc phòng chống tham nhũng...
- Cuốn sách “Lịch sử Thanh tra Việt Nam” do Thanh tra Chính phủ xuất
bản năm 2010. Nội dung cuốn sách phản ánh khá đầy đủ, toàn diện và có hệ
thống q trình ra đời, phát triển về tổ chức và những hoạt động, đóng góp
chủ yếu của ngành Thanh tra qua các giai đoạn cách mạng; đồng thời rút ra
những kinh nghiệm quý báu phục vụ cho việc xây dựng bộ máy của ngành
ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Luận cứ khoa học của việc hình thành Học
viện Thanh tra” của Trường Cán bộ Thanh tra, nghiệm thu năm 2010, trình
bày cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của việc thành lập Học
viện Thanh tra, đáp ứng cho nhu cầu đào tạo của ngành Thanh tra trong giai
đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Ngồi ra, các bài viết trên Tạp chí Thanh tra của Thanh tra Chính phủ;
Thơng tin Khoa học Thanh tra và chống tham nhũng của Viện Khoa học Thanh
tra đều đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của ngành Thanh tra.
Nghiên cứu về văn hoá thanh tra:
Cuốn sách “Xây dựng văn hoá thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ
thanh tra” do Trần Văn Truyền làm chủ biên, xuất bản năm 2010, là kết quả
của đề tài trọng điểm cấp Bộ do Thanh tra Chính phủ chủ trì. Trong cơng trình
này, các tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận về văn hoá thanh tra, chuẩn
6
mực đạo đức cán bộ thanh tra và khảo sát về văn hoá thanh tra ở nước ta hiện
nay.
Như vậy, có thể nói, có nhiều cuốn sách, đề tài, bài viết... nghiên cứu
về mơi trường văn hố, về hoạt động thanh tra, nhưng cho đến nay, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu về mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn nghiên
cứu, khảo sát về mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra. Từ đó, góp
phần giúp ngành nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời kỳ đổi
mới hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về văn hố, mơi trường văn hố, luận
văn nghiên cứu mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra thời gian vừa
qua; đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động mơi
trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về mơi trường văn hố trong lĩnh vực
thanh tra.
- Đánh giá thực trạng môi trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra hiện
nay, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và những khó khăn, vướng mắc đối với việc
xây dựng mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng mơi
trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra trong thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: mơi trường văn hố trong lĩnh vực
thanh tra.
- Về thời gian: luận văn nghiên cứu môi trường văn hoá trong lĩnh vực
7
thanh tra từ năm 1990 đến nay.
- Về không gian: luận văn nghiên cứu trong phạm vi ngành thanh tra.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; về xây dựng môi trường văn hoá.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và đa ngành
như: văn hoá học, xã hội học...
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản khác: phân tích và
tổng hợp, đối chiếu và so sánh, logic và lịch sử, thống kê và phân tích tài
liệu… để hồn thành mục tiêu nghiên cứu.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn nghiên cứu thành công sẽ có những đóng góp sau:
- Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về môi trường văn hoá
trong lĩnh vực hoạt động thanh tra ở các phương diện: khái niệm, cấu trúc.
- Đánh giá được thực trạng hoạt động xây dựng mơi trường văn hố
trong lĩnh vực thanh tra từ năm 1990 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xây
dựng mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra trong thời kỳ đổi mới, hội
nhập quốc tế.
- Kết quả của luận văn góp thêm tư liệu vào việc nghiên cứu văn hố
trong lĩnh vực thanh tra nói riêng và các ngành nghề trong xã hội nói chung
trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về phương diện lý luận: kết quả luận văn làm phong phú thêm kho tàng
môi trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra ở nước ta hiện nay.
- Về phương diện thực tiễn: luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo cho
các nhà nghiên cứu, các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên
quan đến mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
8
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ TRONG
LĨNH VỰC THANH TRA VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH THANH TRA
1.1. QUAN NIỆM VỀ MƠI TRƯỜNG VĂN HỐ TRONG LĨNH VỰC
THANH TRA
1.1.1. Mơi trường văn hố
Mơi trường từ lâu đã trở thành mối quan tâm của nhiều ngành khoa học
khác nhau. Trước đây, khái niệm môi trường thường được hiểu theo nghĩa
hẹp, dùng để chỉ thế giới tự nhiên xung quanh con người. Về sau, nội hàm của
khái niệm môi trường ngày càng mở rộng hơn, được hiểu là tổng thể những
nhân tố bao quanh, tác động lên cuộc sống của con người và vạn vật. Không
chỉ bao gồm các yếu tố tự nhiên như địa chất, thời tiết, khí hậu, các sinh vật
như động, thực vật, vi sinh vật, mơi trường cịn bao gồm các yếu tố xã hội
như sản xuất, quan hệ xã hội, thể chế, và các yếu tố văn hoá như phong tục
tập quán, lối sống. Trên bình diện chung, có thể coi mơi trường là toàn bộ
những điều kiện tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của con người, của tự nhiên và xã hội. Với cách hiểu này,
môi trường là một khái niệm rộng và đa nghĩa. Chính vì vậy, tiếp cận từ các
góc độ khác nhau, chúng ta có các thuật ngữ khác nhau dùng để chỉ môi
trường như: môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, môi trường địa lý, môi
trường xã hội, môi trường nhân văn, môi trường văn hố … và thuật ngữ
chung nhất: mơi trường sống.
Mơi trường sống của con người nói chung bao gồm các thành tố cơ bản
là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và mơi trường văn hố. Mơi trường
văn hố là một bộ phận quan trọng của môi trường sống, mặt khác, nó có mối
quan hệ hữu cơ mật thiết với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Trong
nhiều trường hợp, mơi trường văn hố cịn được đồng nhất với môi trường xã
10
hội. Hơn nữa, theo nghĩa rộng, mơi trường văn hố cịn được coi là bao gồm
cả mơi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Nguyên nhân cơ bản nằm ngay
trong q trình vận hành để hình thành nên mơi trường văn hố, đó là q
trình nhân hố, văn hố hố mơi trường sống của con người. Mơi trường văn
hố chính là mơi trường sống trong đó có mơi trường tự nhiên và mơi trường
xã hội đã được văn hố hố.
Thuật ngữ mơi trường văn hố mới được sử dụng ở nước ta trong
những năm gần đây và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành khoa
học khác nhau, đặc biệt là văn hố học. Trong các cơng trình nghiên cứu về
mơi trường văn hố của các tác giả Việt Nam, có thể nhận thấy một số khuynh
hướng sau đây:
Thứ nhất, coi mơi trường văn hố gần như đồng nhất với môi trường xã
hội. Điều này thể hiện rõ nhất khi lý giải ảnh hưởng của môi trường văn hoá
đối với cá nhân: các yếu tố như thành phần xuất thân, địa bàn sinh trưởng và
sinh sống, truyền thống gia đình, giáo dục, cộng đồng, giai cấp, đơn vị công
tác, xã hội và truyền thông đại chúng... đều tác động đến nhân cách và hành vi
cá nhân. Chẳng hạn, có một định nghĩa về mơi trường văn hố như sau:
Mơi trường văn hố là tổng thể phức hợp các hiện tượng, các giá trị
văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể, văn hoá tâm linh, biểu hiện mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với xã hội, con người
với con người; tác động đến con người, cộng đồng, xã hội trong những
điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời gian nhất định [13, tr.20].
Thứ hai, coi mơi trường văn hố là bộ phận hợp thành của mơi trường
xã hội; mơi trường văn hố thường bền vững hơn trong khi môi trường xã hội
luôn biến đổi linh hoạt. Mơi trường văn hố ln gắn liền với hệ quan điểm,
chuẩn mực thẩm mỹ và các giá trị văn hố, có tác động sâu sắc và tích cực
đến con người và xã hội. Mơi trường văn hố là mơi trường chứa đựng những
giá trị văn hố và những quan hệ văn hoá của con người từ quá khứ đến hiện
11
tại và hướng tới tương lai. Mơi trường văn hố là nơi đồng thời diễn ra các
hoạt động văn hoá từ hoạt động sáng tạo, sản xuất, bảo quản, lưu giữ, truyền
bá, thưởng thức và đánh giá các giá trị văn hố.
Thứ ba, khẳng định mơi trường văn hố là phương diện cấu thành của
văn hoá và phát triển văn hố “Mơi trường văn hố là một tổng thể các sản
phẩm văn hố, chương trình văn hố, hành vi văn hoá, thiết chế, phương tiện
và cảnh quan văn hoá...mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh
hưởng qua lại với mình” [17, tr.77]. Như vậy, với cách tiếp cận này, văn hoá
bao gồm sản phẩm văn hoá, hoạt động văn hố và cảnh quan văn hố. Mơi
trường văn hố là tổng hồ của ba phương diện này. Đó cũng là ba phương
diện cơ bản tạo nên phát triển văn hố.
Có thể nói, ba quan niệm trên đây đều có cơ sở lý luận và thực tiễn.
Loại ý kiến thứ nhất là sự mở rộng tối đa nội hàm khái niệm, coi mọi hoạt
động và sáng tạo của con người đều là văn hoá. Loại ý kiến thứ hai nhìn văn
hố trong tổng thể cấu trúc xã hội khi coi mơi trường văn hố là một bộ phận
quan trọng, có chiều sâu của mơi trường xã hội. Loại ý kiến thứ ba tập trung
vào mối quan hệ nội tại của văn hố. Coi mơi trường văn hố là một yếu tố
cấu thành của văn hoá, quan niệm này đã phân biệt rõ cấu trúc và nội dung
của môi trường văn hố, khẳng định mơi trường văn hố có ảnh hưởng to lớn
đến hoạt động của sáng tạo văn hố.
Trong luận văn, mơi trường văn hố được hiểu là “tổng hoà các giá trị vật
chất, tinh thần, các mối quan hệ xã hội xung quanh con người, tạo ra một mơi
trường sống lành mạnh có ảnh hưởng và tác động đến sự phát triển những
năng lực bản chất của con người và hình thành nhân cách theo lý tưởng xã
hội, tạo động lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khơi dậy năng lực sáng tạo
hội khát vọng của con người hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ” [74, tr.13].
Trên cơ sở cách hiểu này để có một cái nhìn chân thực, đúng đắn về mơi trường
văn hoá trong một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội: ngành Thanh tra. Do
12
vậy, bên cạnh những yếu tố của môi trường văn hố văn hố nói chung, mơi
trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra gắn liền với đặc thù nghề nghiệp của
cơng tác thanh tra.
1.1.2. Mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra
Thanh tra là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, xem
xét tại chỗ, làm rõ đúng sai việc chấp hành luật pháp của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân trong hệ thống nhà nước, nó là một dạng hoạt động quản lý nhà nước,
gắn chặt với Nhà nước. Mục đích của hoạt động thanh tra là nhằm phòng ngừa,
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Các cơ quan thanh tra nhà nước
có vị trí, vai trị quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan hành
chính nhà nước, là thiết chế bảo vệ pháp luật góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương
trong xã hội. Với chức năng đó, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ngành
Thanh tra gắn liền với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, trên bình diện
rộng, hoạt động thanh tra chịu sự chi phối của đời sống chính trị. Trên bình diện
hẹp hơn, thanh tra thuộc nhánh hành pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước, có
chức năng thực thi pháp luật và kiểm soát sự tuân thủ pháp luật nên thanh tra là
bộ phận của nền công vụ, hoạt động thanh tra là hoạt công vụ của Việt Nam. Nói
cách khác, hoạt động thanh tra là hoạt động cơng vụ nhưng mang tính chính trị
sâu sắc. Vì thế, biểu hiện của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra trong
đời sống “vừa mang tính chất là một bộ phận của văn hố cơng vụ và nằm trong
khơng gian văn hố chính trị” [62].
Mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra phản ánh được những giá
trị cốt lõi nhất thơng qua những hình ảnh và giá trị được hình thành qua 68
năm hoạt động, đó là những giá trị nhân văn sâu sắc như Hồ Chí Minh đã
13
nhấn mạnh: “thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của người dưới”. Bởi lẽ
chính các hoạt động thanh tra có mục đích là “phát hiện những sơ hở thiếu sót
trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền biện pháp khắc phục” và quan trọng hơn là “giúp cơ quan, tổ
chức, cá nhân thực hiện đúng qui định của pháp luật; phát huy nhân tố tích
cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước…”.
Thực tiễn qua quá trình hoạt động cho thấy, thanh tra luôn là một chức năng
thiết yếu quan trọng của quản lý vì vậy nó phải tạo điều kiện cho các chủ thể
ngày càng hoàn thiện và phát triển, phải cùng với các chủ thể của quản lý tìm
cách tốt nhất để hạn chế những thiếu sót và sơ hở, phát huy truyền thống tốt
đẹp của văn hoá Việt Nam cần cù chịu khó, thương người như thể thương
thân…để hướng tới sự phát triển.
Trên cơ sở những nhận thức đã trình bày về mơi trường văn hố và đặc
thù nghề nghiệp thanh tra, chúng tôi quan niệm: môi trường văn hố trong
lĩnh vực thanh tra là tổng hồ các giá trị, chuẩn mực; các mối quan hệ xã hội
xung quanh hoạt động thanh tra, tạo ra một môi trường sống lành mạnh có
ảnh hưởng và tác động đến sự phát triển năng lực, phẩm chất đạo đức, phong
cách, ứng xử của cán bộ thanh tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công
vụ và trong sinh hoạt cá nhân.
Như vậy, mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra chứa đựng những
giá trị và tinh thần nhân văn cao cả, tinh thần đồn kết và ý chí tự lực, tự vươn
lên hoàn thiện và quan trọng hơn là giúp đỡ cho các hoạt động ngày càng trở
nên đúng đắn có ích cho sự phát triển. Trong khơng gian văn hoá, con người
đã quan hệ và tương tác với nhau thông qua các hoạt động sống, cả trong
công việc và cuộc sống thường ngày.Mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh
tra được biểu hiện ở tính cộng cảm; tính nhân văn và tính sáng tạo:
Trong khơng gian đó, những mối quan hệ và tương tác của con
người với nhau vừa mang tính (chiều, hướng) cộng cảm, vừa mang
14
tính nhân văn và thể hiện tính sáng tạo. Đây là ba thuộc tính của
khơng gian văn hố và cũng là những thuộc tính cơ bản của mơi
trường văn hóa trong lĩnh vực thanh tra hố [62, tr.31].
Tính cộng cảm của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra có thể
được hiểu theo ý nghĩa là "sự lan toả, truyền bá và ảnh hưởng của mơi trường
văn hố trong lĩnh vực thanh tra trong đời sống xã hội.” Nó có ý nghĩa như là
một sự xã hội hố, trong đó các chủ thể văn hố, các cá nhân và cộng đồng
văn hố, với một số lượng nhất định có thể sáng tạo hoặc cảm thụ được một
đối tượng văn hố, một tập hợp, một dịng hay một nền văn hố nói chung.
Tính cộng cảm của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra vừa phản ảnh
sự hấp thụ vừa bao hàm sự lan toả, tạo nên một trong những đặc trưng cơ bản
nhất của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra. Mơi trường văn hố
trong lĩnh vực thanh tra cũng là sản phẩm của xã hội, mặc dù trên thực tế nó
có thể được sản sinh từ hoạt động của những cá nhân (đặc biệt là cán bộ thanh
tra) cụ thể.
Có thể nói, sự cộng cảm mang tính xã hội là ”phương thức tồn tại của
mơi trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra, là sự biểu hiện, là bề mặt trực
quan và sống động của hoạt động văn hố.” Chính nhờ ở bề chiều cộng cảm
mà mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra có thể lan toả, trở thành
khơng có giới hạn, con người từ nhiều tầng lớp trong xã hội có thể tìm thấy
những sự ảnh hưởng, vượt qua giới hạn về tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp.
Cũng chính nhờ sự cộng cảm đó mà mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh
tra có thể thẩm thấu và tương tác với các văn hố khác. Dưới góc độ nghiên
cứu phát triển, chiều cộng cảm của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh
tra vừa tạo nên ý nghĩa của sự thống nhất, gắn kết trong ngành Thanh tra cũng
như ngành Thanh tra với xã hội.
Tính nhân văn của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra thể hiện
bản chất của môi trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra gắn với con người,
15
phục vụ con người. Nói cách khác, do mơi trường văn hoá trong lĩnh vực
thanh tra suy cho cùng là sản phẩm của con người.
Văn hố được biểu hiện thơng qua hành vi của con người trong đời
sống xã hội, là thế giới tự nhiên mang tính người. Nhờ có tính nhân văn mà
con người mới là những thực thể văn hố, “Bề chiều nhân văn của mơi trường
văn hố trong lĩnh vực thanh tra thể hiện ở chỗ con người trước hết là những
kẻ cảm thụ và sáng tạo văn hố.” Với tư cách là sản phẩm của chính con
người, văn hoá lấy con người là mục tiêu, là nội dung và phương thức hoạt
động. Hướng tới con người, văn hố có được động lực để hướng tới sự phát
triển tiến bộ. Mọi sự xa rời tính nhân văn đồng nghĩa với việc xa rời mục tiêu
tồn tại và phát triển của văn hố, và như vậy. Vì vậy, chiều nhân văn của mơi
trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra không chỉ là điều kiện nuôi dưỡng
con người (đặc biệt là người cán bộ thanh tra và không gian nghề thanh tra mà
cịn là ni dưỡng chính mơi trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra). Đi
ngược lại với mục tiêu nhân văn của văn hoá, làm cho “bầu khí quyển” của
văn hố vẩn đục chính là ngun nhân dẫn đến sự ơ nhiễm của mơi trường
văn hố trong lĩnh vực thanh tra. Trên thực tế, khi được coi là có trình độ văn
hố cao bao giờ cũng địi hỏi có tính nhân văn , có một khơng gian nhân văn
đề cao con người, tình cảm nhân ái giữa con người với con người, giữa cá
nhân với cộng đồng.
Tính sáng tạo của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra gắn liền
với hoạt động sáng tạo của con người - người cán bộ thanh tra - vì con người
chính là chủ thể sáng tạo. Nếu như đặc trưng nhân văn của mơi trường văn
hố trong lĩnh vực thanh tra phản ánh chiều hoà hợp từ con người xã hội, lấy
nội dung hoạt động của con người làm mục đích căn bản thì đặc trưng phương
thức sáng tạo “biểu hiện chiều hoà hợp từ xã hội tới con người và mang dấu
ấn nghề nghiệp, lấy sự nhận thức, năng lực lao động và khám phá, giải quyết
các vấn đề phát sinh từ hiện thực làm nền tảng". Nghề nghiệp thanh tra là một
16
cơng việc đặc thù của xã hội, tính chất phức tạp vì thường xun phải xử lý
những cơng việc liên quan đến sai phạm của các tổ chức, cá nhân. Do vậy, địi
hỏi phải có sự sáng tạo, linh hoạt để người cán bộ thanh tra có thể giải quyết
được những nhiệm vụ trong thực tiễn công tác.
1.1.3. Những yếu tố cấu thành mơi trường văn hố trong lĩnh vực
thanh tra
Nghiên cứu về cấu trúc của mơi trường văn hố, có nhiều quan điểm
của các nhà khoa học trong nước và trên thế giới.
Xuất phát từ quan niệm coi văn hố là một hệ thống, có quan niệm
cho rằng, mơi trường văn hố có cấu trúc đặc thù, bao gồm các tầng bậc
sau đây [32, tr.5]:
Tầng thứ nhất, hay còn gọi là tầng cơ sở, là tầng rộng nhất vì mơi
trường văn hố hiện diện ở khắp nơi, can dự đến mọi hành vi, cách sống
của các thành viên trong xã hội. Rõ nhất là phong tục tập quán, văn hoá
truyền thống, văn hoá đại chúng, văn hoá lễ hội, giáo dục trẻ thơ và giáo
dục phổ thông...
Tầng thứ hai là mơi trường văn hố của tầng lớp có học thức, có nghề
nghiệp nhất định trong xã hội. Chẳng hạn, đối với doanh nghiệp thì có mơi
trường văn hố doanh nghiệp, đối với sinh viên các trường đại học cao đẳng
thì có mơi trường văn hố trường học.
Tầng thứ ba là mơi trường văn hố của tầng lớp trí thức bậc cao như
các nhà quản lý hoạch định chính sách, các nhân tài khoa học kỹ thuật và
nghệ thuật, các nhà văn hố, giáo sư đại học... Mơi trường văn hố tầng thứ
ba có thể kể đến: tư duy triết học (thế giới quan, nhân sinh quan...) tác động
đến sự lựa chọn và con đường phát triển của các cá nhân; quan điểm khoa
học, quan điểm văn nghệ, quan điểm đạo đức... chi phối đến hành vi và ứng
xử văn hố của tầng lớp này; khơng gian văn hố và trình độ thưởng thức,
chia sẻ văn hố.
17
Sự tách biệt ba tầng văn hoá trên đây chỉ là tương đối. Mối quan hệ
giữa các tầng văn hoá này rất chặt chẽ, vì ai cũng phải trải qua sự giáo dục từ
thấp đến cao.
Một cách phân chia khác về cấu trúc mơi trường văn hố của TS Mai
Hải Oanh, quan niệm rằng: nếu văn hoá của một cộng đồng xã hội là một
chỉnh thể có cấu trúc hai tầng: cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu, thì mơi
trường văn hố của một cộng đồng xã hội nhất định cũng vậy, nó cũng có cấu
trúc hai tầng.
Cấu trúc bề mặt là những biến số hay còn gọi là những yếu tố động
của văn hoá, bao gồm tất cả những biểu hiện văn hoá trong mọi mặt
đời sống và thường xuyên đổi mới… Cấu trúc chiều sâu là những hằng
số hay còn gọi là những yếu tố tĩnh của văn hố. Hạt nhân của nó là hệ
giá trị xã hội. Cấu trúc bề mặt chịu sự chi phối, điều chỉnh của cấu trúc
bề sâu. Ngược lại, cấu trúc bề sâu lại chịu sự tác động của cấu trúc bề
mặt. Cấu trúc bề sâu đóng vai trị điều tiết, chỉ huy; cấu trúc bề mặt
đóng vai trị thẩm thấu và có thể làm thay đổi dần những hệ giá trị,
những quan niệm, những nếp sống…trong cấu trúc bề mặt [39, tr.4].
Với cấu trúc bề mặt, mơi trường văn hố dễ tiếp nhận những tác động
trong giao lưu, tiếp xúc văn hoá và thường diễn ra những biến đổi văn hố. Với
cấu trúc bề sâu, mơi trường văn hố lại tác động trở lại đời sống văn hoá của con
người, quy định sự lựa chọn của mỗi thành viên trong cộng đồng. Và như vậy,
con người vừa là chủ thể tạo lập nên mơi trường văn hố, lại vừa chịu sự quy
định của chính mơi trường văn hố bởi hệ thống các giá trị và chuẩn mực xã hội.
Ở một cách tiếp cận khác, từ góc độ thời gian và khơng gian, cấu trúc
mơi trường văn hố gồm ba phương diện: hiện thực hiện tại của dân tộc, quốc
gia, văn hố bản địa truyền thống và văn hố nước ngồi. Trong đó, văn hố
bản địa là cốt lõi của mơi trường văn hố. Mơi trường văn hố đương đại là
một tổ hợp phức tạp: công khai và bán công khai, hợp pháp và bất hợp pháp,
18
dịng chính và ngoại vi, tiến bộ và lạc hậu, nhân văn và phản nhân văn, kế
thừa và tiếp thu, dân tộc và nhân loại...Văn hố truyền thống ln có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cấu trúc môi trường văn hoá đương đại.
Nhà văn hoá học người Nga - A.C.Ca rơ min đưa ra lý thuyết Thông tin
- Ký hiệu học về văn hố, trong đó, ơng quan niệm mơi trường (thổ nhưỡng)
văn hố như một khơng gian văn hoá gồm ba chiều: trục tri thức (cái được
cung cấp bằng nhận thức); trục giá trị (cái được xác lập nhờ đánh giá) và trục
điều tiết (cái làm cho hành động được điều chỉnh). Qua đó, để đánh giá mơi
trường văn hố của một cộng đồng, người ta dựa vào tri thức của cộng đồng
đó đạt được như thế nào, những giá trị mà cộng đồng lựa chọn là gì và cộng
đồng cũng như các thành viên của cộng đồng điều tiết mối quan hệ bên trong,
bên ngoài cộng đồng như thế nào, tức là thông qua các chuẩn mực và khuôn
mẫu ứng xử. Đây là cách tiếp cận được nhiều nhà văn hoá học sử dụng để
nghiên cứu về văn hoá. Trong luận văn này, cách tiếp cận về mơi trường văn
hố theo lý thuyết Thơng tin - Ký hiệu học về văn hoá được sử dụng như là
cơng cụ lý thuyết để tìm hiểu, khảo sát về một mơi trường văn hố trong một
lĩnh vực cụ thể là thanh tra.
Mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra bao gồm nhiều yếu tố tác
động đến hoạt động thanh tra. Từ cách tiếp cận Thông tin - Ký hiệu học, trong
phạm vi của một luận văn thạc sĩ, chúng tơi lựa chọn những yếu tố chính tạo
thành mơi trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra, bao gồm: tri thức thanh
tra; những giá trị, chuẩn mực của ngành Thanh tra và mối quan hệ giữa cơ
quan thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động
thanh tra cũng như quan hệ trong chính ngành Thanh tra. Qua đó, có thể thấy,
mơi trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra gắn liền với đội ngũ cán bộ thanh
tra. Người cán bộ thanh tra thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua các hành
vi ứng xử của mình góp phần tạo lập nên mơi trường văn hố. Ngược lại,
mơi trường văn hố lại tác động mạnh mẽ đến hành vi, ứng xử của người
19
cán bộ thanh tra. Nói cách khác, người cán bộ thanh tra vừa là chủ thể xây
dựng môi trường văn hố, vừa là người chịu tác động của mơi trường văn
hố. Xây dựng mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra đòi hỏi người
đội ngũ cán bộ thanh tra phải có tri thức (cả tri thức chung và tri thức nghề
nghiệp); tuân theo các chuẩn mực, quy tắc của nghề nghiệp; có phẩm chất
đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp và khả năng ứng xử trong mối quan hệ ở
môi trường công tác và cuộc sống.
Thứ nhất là tri thức thanh tra
Yếu tố đầu tiên của mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra là hệ
thống tri thức về nghề và ngành Thanh tra. Văn hoá gắn liền với tri thức. Bản
thân tri thức của ngành Thanh tra đã phản ánh một phần văn hoá trong lĩnh
vực thanh tra. Hệ thống tri thức về ngành Thanh tra là toàn bộ sự hiểu biết của
cán bộ thanh tra về ngành Thanh tra, bao gồm hệ thống kiến thức về chuyên
môn nghiệp vụ, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của ngành cũng như những kinh nghiệm đã
được đúc rút thông qua hoạt động thanh tra và quá trình phát triển của ngành
Thanh tra (kinh nghiệm thanh tra cũng được hình thành từ tri thức thanh tra,
sự kết hợp giữa tri thức thanh tra và thực tiễn thanh tra sẽ đúc rút những kinh
nghiệm thanh tra quý báu, có cơ sở khoa học, đem lại hiệu quả cao).
Hệ thống tri thức của ngành Thanh tra góp phần quan trọng trong việc xây
dựng và hoàn thiện thể chế, phục vụ cho tổ chức và hoạt động của ngành Thanh
tra; xây dựng và hồn thiện quy trình hoạt động, tiêu chuẩn chun mơn, nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra, là nguồn kiến thức quan
trọng nâng cao năng lực hành nghề của mỗi cán bộ thanh tra. Tri thức nói chung,
tri thức thanh tra nói riêng cịn định hướng cả việc lựa chọn giá trị của người cán
bộ thanh tra trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động nghề nghiệp.
Trên cơ sở hệ thống tri thức của ngành, với những nhận thức về vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của ngành, để hoạt động thanh tra có hiệu quả và có văn
20
hố thì một bộ phận khơng thể thiếu là hệ thống các quy định của pháp luật về
tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra, các quy tắc nghề nghiệp, kỹ năng
nghiệp vụ… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động
của ngành Thanh tra chính là thể chế hố trên thực tiễn hệ thống tri thức thanh
tra. Ngoài ra, tri thức của ngành Thanh tra còn được thể hiện trong các văn
bản quy định dưới luật, các quy tắc nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác của
cán bộ thanh tra.
Thứ hai, hệ thống giá trị, chuẩn mực của ngành Thanh tra
Giá trị là cái ao ước, mong muốn trong đời sống của một cộng đồng
xã hội, của một nhóm hay một cá nhân. Theo CL. Kluckhohn, giá trị mang
trong nó “những quan niệm thầm kín hoặc bộc lộ về cái ao ước riêng của
một cá nhân hay của một nhóm. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn
trong các phương thức, phương tiện và mục đích khả thể của hành động”.
Giá trị là sở thích của cộng đồng nảy sinh trong một bối cảnh xã hội nhất
định và đóng vai trị điều tiết trong nội bộ cộng đồng ấy. Vì vậy, giá trị ở
đây là giá trị xã hội, mang tính quy ước xã hội. Giá trị giúp cho cá nhân
hay nhóm dựa vào vị thế xã hội của mình, xác định phương hướng hành
động cho phù hợp. Cốt lõi của văn hoá là giá trị. Cốt lõi của mơi trường
văn hố cũng là giá trị. Trong mối quan hệ tương tác giữa con người, tự
nhiên và xã hội, thông qua hoạt động sáng tạo của mình, con người đã hình
thành nên các giá trị văn hố, và chính các giá trị văn hố trong q trình
vận hành, ứng dụng vào trong đời sống xã hội lại hình thành nên mơi
trường văn hố. Như vậy, khơng phải mơi trường văn hố mà chính là hoạt
động văn hoá tạo ra các giá trị văn hoá. Tuy nhiên, hoạt động sáng tạo văn
hoá ấy chỉ có thể diễn ra trong một mơi trường văn hố nhất định. Nói cách
khác, chính mơi trường văn hố đã tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho
các giá trị văn hố sản sinh và vận hành, từ đó làm cho văn hoá thấm sâu
vào mọi mặt của đời sống. Cũng như giá trị nói chung, giá trị của ngành
21
Thanh tra là cái có ý nghĩa, cao quý, đáng mong ước đối với người cán bộ
thanh tra, được cộng đồng những người làm công tác thanh tra chia sẻ,
hướng tới.
Chuẩn mực là những quy tắc về ứng xử xã hội tồn tại dưới dạng thể
chế thành văn hoặc bất thành văn được mọi thành viên trong cộng đồng công
nhận và tn theo. Mỗi mơi trường văn hóa xã hội thông thường được chi
nhận bởi bốn hệ chuẩn mực cơ bản: hệ chuẩn mực trong lao động chi phối các
hoạt động văn hoá lao động, hệ chuẩn mực trong giao tiếp chi phối các giao
tiếp văn hoá, hệ chuẩn mực gia đình điều chỉnh các quan hệ văn hố trong gia
đình, các chuẩn mực phát triển nhân cách điều chỉnh lối sống. Những hệ
chuẩn mực lớn này đan kết nhau, định hướng, kiểm tra các hành vi cá nhân,
nhóm xã hội, xác định các mẫu mực, mơ hình chi phối, mục tiêu, giới hạn,
hình thức ứng xử, tạo nên diện mạo tương đối ổn định của các mơi trường văn
hố. Đối với mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra, các chuẩn mực tập
trung chủ yếu quy định hành vi ứng xử của người cán bộ thanh tra trong các
quan hệ bên trong và bên ngoài ngành Thanh tra. Mơi trường văn hố trong
lĩnh vực thanh tra, với hạt nhân cơ bản là những giá trị, chuẩn mực, chi phối tồn
bộ đời sống văn hố của cộng đồng người làm cơng tác thanh tra. Ngược lại, mơi
trường văn hố đó cũng chịu sự tác động trở lại của những cán bộ thanh tra,
khiến cho nó có thể biến đổi theo cả hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Thứ ba, mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thanh tra và
trong nội bộ ngành Thanh tra
Mối quan hệ giữa các chủ thể là phương thức biểu hiện quan trọng của
văn hoá. Khi xét đến văn hoá, mơi trường văn hố, khơng thể khơng tách nó
khỏi các mối quan hệ. Nghiên cứu mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh
tra đòi hỏi phải đặt ngành Thanh tra trong các mối quan hệ với chủ thể khác.
Thanh tra nằm trong hệ thống các cơ quan nhà nước nên có mối quan hệ gắn
22
bó hữu cơ với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và cá nhân khi thực
hiện nhiệm vụ của mình. Nói cách khác, mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác vừa phản ánh mơi trường văn hố
trong lĩnh vực thanh tra đồng thời liên quan đến việc xây dựng hình ảnh của
ngành thanh tra. Do vậy, xây dựng mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra
khơng thể tách rời với việc củng cố, xác lập rõ tính chất, từ đó tăng cường các
mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Một là, quan hệ với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước được Luật Thanh tra quy
định rất rõ. Cơ quan Thanh tra nhà nước thanh tra việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức thuộc thẩm quyền quản
lý của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Như vậy, trong mối quan hệ với
thủ trưởng cơ quan hành chính cùng cấp, Thanh tra có vai trị tham mưu,
giúp việc; trong mối quan hệ với thủ trưởng cơ quan hành chính cấp dưới,
vai trị của thanh tra thể hiện thơng qua hoạt động kiểm tra, giám sát việc
tuân thủ pháp luật, phát hiện những sai sót trong quản lý để kịp thời đề xuất
những giải pháp khắc phục.
Hai là, trong quan hệ với cơ quan công an, Viện Kiểm sát và các cơ
quan, tổ chức hữu quan, Thanh tra là công cụ quan trọng góp phần phịng
chống bệnh quan liêu, tham ơ, lãng phí; phịng, chống tham nhũng; phịng
ngừa, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật khác; góp phần bảo vệ tài sản
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Hình ảnh của ngành
Thanh tra, nói cách khác là mơi trường văn hố trong lĩnh vực thanh tra không
chỉ thể hiện trong nội bộ cơ quan hành chính theo trục quan hệ mệnh lệnh phục tùng mà còn phản ánh qua các mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức
khác. Trong đó, đặc biệt quan trọng là cơ quan điều tra, viện kiểm sát, các cơ
quan, tổ chức hữu quan. Đây là mối quan hệ phối hợp, chủ yếu thông qua việc
giao kết về trao đổi thông tin, phối hợp lực lượng nhằm thực hiện chức năng
23
được giao trong phát hiện và xử lý các sai phạm.
Ba là, trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng
thanh tra. Mục đích hàng đầu của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm chủ trương, chính sách, pháp luật, đồng thời phát
huy những nhân tố tích cực để góp phần thúc đẩy việc hồn thiện nhiệm vụ
được giao của các cơ quan, đơn vị, cá nhân được thanh tra. Đồng thời, trong
quá trình thanh tra, cũng phát hiện được nhiều thiếu sót, sơ hở, khiếm khuyết
của chính sách, pháp luật hiện hành, nhằm giúp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có biện pháp khắc phục kịp thời. Trong mối quan hệ với đối tượng
thanh tra, cơ quan thanh tra khơng chỉ thể hiện tính quyền lực nhà nước mà
còn thể hiện trách nhiệm đối với xã hội, sự quan tâm, giúp đỡ đối với đối
tượng thanh tra. Do đó, mối quan hệ với đối tượng thanh tra là kênh quan
trọng phản ánh hình ảnh của ngành Thanh tra, mơi trường văn hố trong lĩnh
vực thanh tra.
Bốn là, quan hệ trong nội bộ ngành thanh tra. Đó là mối quan hệ giữa
cơ quan thanh tra các cấp, các ngành; quan hệ trong đội ngũ cán bộ thanh tra;
quan hệ giữa lãnh đạo các đoàn thanh tra với các thành viên... Những mối
quan hệ đó đa dạng, nhiều tầng nấc và phản ánh trực tiếp, sinh động môi
trường văn hoá trong lĩnh vực thanh tra.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG MƠI TRƯỜNG VĂN HỐ TRONG LĨNH VỰC THANH TRA
Tuy khơng trực tiếp đề cập đến nội dung xây dựng môi trường văn hoá
trong lĩnh vực thanh tra nhưng những quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng
sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị, đặc điểm, chức năng của cơng tác thanh tra
chính là cơ sở để xác định những nội dung cơ bản của môi trường văn hoá
trong lĩnh vực thanh tra và định hướng xây dựng mơi trường văn hố trong
24
lĩnh vực thanh tra, chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra.
1.2.1. Thanh tra là phương thức quan trọng để đảm bảo thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước
Thanh tra là một chức năng quan trọng của quản lý. V.I.Lênin đã khẳng
định: quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ
không phải là hai. Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên để xác định vị trí, vai trị
của cơng tác thanh tra, điều đó cũng có nghĩa rằng khi đề cập đến cơng tác
thanh tra, không thể không đề cập đến vấn đề quản lý nói chung và quản lý
nhà nước nói riêng.
Từ những ngày đầu cách mạng mới thành cơng, chính quyền dân chủ
nhân dân cịn non trẻ, chưa có kinh nghiệm quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết bài ”Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hiện ngay” để hướng
dẫn, chỉ đạo kịp thời lãnh đạo chính quyền các cấp thực hiện. Người chỉ đạo
”thực hành ngay” công tác kiểm tra, vì theo Người, kiểm tra là một trong ba
yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của chính sách đã ban hành
”Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng
lợi thực sự còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có chính sách đúng, thì sự
thành cơng hay thất bại của chính sách là do cách tổ chức công việc, nơi lựa
chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều đó sơ sài, thì chính sách đúng
mấy cũng vơ ích” [6, tr.45]. Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thanh
tra toàn miền Bắc năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị:
Thanh tra là một nhiệm vụ vẻ vang và quan trọng; nó theo dõi, xem xét
việc chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và Chính phủ… Cấp lãnh đạo các bộ, các ngành, các cấp nhất
định phải có cơ quan thanh tra của mình để theo dõi công tác ngay từ
đầu, kịp thời uốn nắn, sửa chữa sai lầm thiếu sót có thể xảy ra, đồng
thời phải trực tiếp chỉ đạo cơ quan thanh tra của mình [6, tr.175].
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của người
25
dưới và cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì
khơng soi được. Đây là quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo rất sâu sắc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ vị trí và vai trò đặc biệt của thanh tra trong hoạt động của
Nhà nước và đời sống xã hội. Ví thanh tra quan trọng như tai, mắt của con người
- như bộ phận cấu thành cơ thể con người, là phương tiện cực kỳ trọng yếu giúp
con người nhận thức và phát triển trí tuệ, có nghĩa thanh tra như là một bộ phận
không thể thiếu của lãnh đạo trong việc thực hiện chức năng của nhà nước, là
phương tiện nhận thức của quá trình quản lý nhà nước. Cùng với vai trò là “tai
mắt của trên”, thanh tra còn là “bạn của dưới”. Đối với những người là lãnh
đạo quản lý cấp dưới thì thanh tra chính là người bạn giúp mình nhìn thấy, biết
được, phát hiện và chỉ cho mình thấy được những việc mình làm đúng, làm tốt
để tiếp tục phát huy, những việc làm sai, làm không đầy đủ, làm thiếu trách
nhiệm để khắc phục sửa chữa nâng cao năng lực và trách nhiệm của mình. Xuất
phát từ vai trị quan trọng của cơng tác thanh tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra
ba yêu cầu cơ bản nhất đối với công tác thanh tra là:
Thứ nhất, công tác thanh tra phải thường xuyên, độc lập.Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, vì thanh tra là cơng tác quan trọng của cơ quan lãnh đạo Đảng
và Nhà nước, do đó phải được tiến hành thường xun. Cơng tác thanh tra
nếu không được tiến hành thường xuyên tất yếu sẽ dẫn tới bệnh quan liêu,
mệnh lệnh và từ đó sẽ tiếp tục gây ra những tác hại to lớn khác cho sự nghiệp
cách mạng. Hoạt động thanh tra phải đảm bảo được tính độc lập tương đối;
thanh tra phải tuân theo pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật, không cá nhân,
tổ chức nào được cản trở hoạt động thanh tra. Tính thường xuyên trong hoạt
động thanh tra do chính đặc điểm, tính chất của hoạt động chấp hành, điều
hành trong quản lý hành chính nhà nước quyết định và có mối quan hệ chặt
chẽ với yêu cầu đáp ứng kịp thời của việc ra các quyết định lãnh đạo, quản lý.
Thứ hai, công tác thanh tra phải kịp thời, cụ thể, khách quan. Hoạt động
thanh tra giúp cấp trên nắm được tình hình, giúp cấp dưới sửa chữa, uốn nắn