1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hố là tổng thể hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ
cũng như trong hiện tại, được đúc kết lại thành các truyền thống và thị hiếu,
các giá trị và chuẩn mực xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của con người
nhằm xây dựng nên một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Những thành tựu của
hoạt động sáng tạo ấy qua sự sàng lọc và thử thách của thời gian, đọng lại trở
thành di sản văn hố. Có thể nói di sản văn hố là sự tồn tại hiện thực của văn
hoá và là bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc. Bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc cũng tức là phải giữ gìn và phát huy vốn di sản văn hố
của dân tộc.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời đã từng nói: “Trong cơng
cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cùng phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, và văn hoá” [37, tr.345].
Đảng Cộng sản Việt Nam từ lâu đã đề ra chủ trương bảo tồn và phát
huy di sản văn hoá, đồng thời xem nhiệm vụ xây dựng khơng thể tách rời việc
gìn giữ và phát huy vốn di sản văn hoá dân tộc.
Trong bài diễn văn khai mạc lễ phát động "Thập kỷ quốc tế phát triển
văn hoá" tại Paris ngày 21/1/1988, nguyên Tổng giám đốc UNESCO Fedrrico
Mayor viết:
Sự quốc tế hố khơng ngừng và gia tốc ngày càng tăng của nhịp
sống xã hội thực tế đang tạo nên hai vấn đề mâu thuẫn nhau. Một
mặt do sự phát triển của các phương tiện thông tin liên lạc, sự trao
đổi về tư tưởng và ý thức hệ, sự trao đổi hàng hoá và du lịch, các
quốc gia dân tộc đang xích lại gần nhau hơn, góp phần giúp cho họ
2
mở mang sự hiểu biết hơn về chân trời văn hố và tri thức của nhau.
Trên phạm vi tồn cầu nói chung, tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày
càng tăng. Mặt khác, bên cạnh đó là sự tác động có sức mạnh ghê
gớm về mối nguy cơ đồng nhất hoá của hệ thống giá trị và chuẩn
mực, đe doạ làm suy liệt khả năng sáng tạo của các nền văn hoá,
nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của toàn
nhân loại [59, tr.23].
Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương ra sức giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hố của dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nhân loại, khơng ngừng làm giàu cho vốn văn hố nước
nhà. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khoá
VIII khẳng định: “DSVH là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu
văn hóa” [18, tr.638].
Hơn bảy mươi năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,
vốn di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc Việt Nam ln ln được giữ
gìn, vun đắp và phát triển. Song song với việc giữ gìn những giá trị cao quý
trong vốn văn hoá truyền thống của dân tộc, là việc mở rộng sự tiếp thu
những tinh hoa của văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá Việt Nam ngày càng
phong phú hơn và cao đẹp hơn. Nhiều giá trị văn hoá của di sản được sưu
tầm, chỉnh lý và giới thiệu rộng rãi trong nhân dân cả nước và trên thế giới.
Các phong tục, tập qn, cơng trình kiến trúc cũng như truyền thống u nước
nồng nàn, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã
trở thành hình ảnh quen thuộc với đông đảo đồng bào trong nước và quốc tế.
Cũng như các địa phương khác, trong quá trình phát triển nhân dân Yên
Thế đã tạo dựng, gìn giữ và tích luỹ một kho tàng đồ sộ những giá trị văn hoá
tiêu biểu, đặc sắc của vùng núi trung du Đơng Bắc Việt Nam. Đó là những di
3
sản về phong tục, tập quán, các lễ hội cầu mùa, hệ thống đình, chùa, miếu
mạo, đặc biệt là khu di tích phong trào khởi nghĩa Yên Thế do cụ Đề Thám
khởi xướng và lãnh đạo.
Cùng với những tiềm năng, thế mạnh của địa phương nằm trong cánh
cung Bắc Sơn chạy từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên (một trong năm dãy núi
hình vịng cung tạo nên nét đặc trưng của địa hình vùng Đơng Bắc), trong
những năm qua Huyện Uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Yên Thế đã chủ trương
đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hoá gắn với phát triển du
lịch. Nhờ vậy, các mặt hoạt động kinh tế và văn hoá của huyện có phần sơi
động và khởi sắc hơn. Tuy vậy, trong quá trình triển khai thực hiện đã nảy
sinh nhiều vấn đề cần được xử lý cả về lý luận và thực tiễn. Chẳng hạn, nếu
xem di sản văn hoá là đối tượng của du lịch thì việc khai thác di sản cần
thực hiện theo nguyên tắc nào? Bài toán để xử lý hài hoà giữa phát triển du
lịch với việc bảo tồn di sản,v.v… Đó khơng chỉ là câu hỏi dành cho ngành
văn hố mà là trách nhiệm của tồn xã hội. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của
Đảng đã chỉ rõ:
Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, vừa phát huy
những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn
hoá nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hố để văn
hóa thực sự là nền tảng tinh thân của xã hội hoá [21, tr.126].
Từ những lý do nên trên, em chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hoá huyện Yên Thế gắn với phát triển du lịch” làm luận văn
Thạc sỹ chun ngành Văn hố học, với mong muốn đóng góp về phương
diện lý luận và thực tiễn cho cơng tác bảo tồn và phát huy DSVH của huyện
Yên Thế trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo tồn và phát huy DSVH ngày nay không chỉ là nhiệm vụ của mỗi
4
quốc gia, dân tộc mà đã trở thành vấn đề mang tính tồn cầu. Vào thời gian
nửa sau thế kỷ XX, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá, của Liên hiệp
quốc (UNESCO) đã nỗ lực nghiên cứu đánh giá tiềm năng quá khứ của nhân
loại thông qua các Hội nghị ở Hà Nội (Việt Nam), Tokyo (Nhật Bản) và
Noongkhai (Thái Lan).
Tháng 6/2012, tại thành phố Gothenburg, Thuỵ Điển, đã diễn ra một
hội thảo quốc tế quan trọng, đánh dấu sự ra đời của Association of Critical
Heritage Studies (ACHS- Hội nghiên cứu phản biện di sản). Hội thảo mang
tên “Thiết lập lại lý thuyết về di sản”. Trong 4 ngày tổ chức, hội thảo đã có
hơn 400 bài thuyết trình được giới thiệu, phần lớn bởi các chuyên gia và nhà
nghiên cứu DSVH đến từ khắp nơi trên thế giới như Anh, Mỹ, Úc, New
Zealands, Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Na Uy, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Ba Lan,
Pháp, Agentina, Mexico, Trung Quốc và Việt Nam. Nội dung các bài tham
luận, nghiên cứu tập trung chủ yếu vào phân tích các vấn đề DSVH theo
những cách nhìn mới mẻ, phong phú đến mức hội thảo phải chia nhỏ ra thành
75 nhóm chuyên đề. Trong đó nổi bật nhất là các tranh luận về nhận thức giá
trị DSVH, tính nguyên gốc của DSVH, và cách nhìn về vai trị DSVH trong
tương lai.
Ở nước ta, đã có nhiều cơng trình chun khảo bàn về bản sắc văn hoá
Việt Nam, truyền thống văn hoá dân tộc, phong tục Việt Nam, nhận diện văn
hố hiện đại bằng cái nhìn từ truyền thống của các nhà nghiên cứu có uy tín
như: Đào Duy Anh, Trần Đình Hựu, Nguyễn Hồng Phong, Trần Quốc Vượng,
Phạm Minh Hạc, Đặng Cảnh Khanh, Trần Ngọc Thêm, Phan Ngọc… các
công trình này chưa bàn trực tiếp, hoặc cụ thể đến bảo tồn và phát huy DSVH
trong phát triển du lịch, nhưng cũng cung cấp cái nhìn, cách đánh giá sâu sắc
và phong phú để tác giả luận văn tiếp cận, nghiên cứu trong đề tài của mình.
GS Hồng Vinh trong cuốn Những vấn đề văn hoá trong đời sống xã
5
hội Việt Nam hiện nay, đã đi vào phân tích DSVH dân tộc là nguồn lực phi vật
thể trong phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, trình bày khái quát về công tác
bảo vệ, phát huy giá trị DSVH trong cơ chế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay. Từ đó tác giả đề ra phương hướng xây dựng các nguyên tắc,
quy chế để phát huy DSVH dân tộc.
PGS.TS Trần Đức Thanh trong cuốn Nhập môn khoa học du lịch, đã đi
sâu vào phân tích mối quan hệ mật thiết giữa du lịch và văn hoá; những ảnh
hưởng của văn hoá đến du lịch và ngược lại. Từ đó tác giả khẳng định vai trị
và nhiệm vụ quan trọng của ngành du lịch là bảo vệ môi trường tự nhiên, môi
trường xã hội đặc biệt là vấn đề giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc.
Trong cuốn Một số vấn đề về du lịch Việt Nam, PGS.TS Đinh Trung
Kiên đã đi sâu phân tích cụ thể những giá trị của DSVH truyền thống Việt
Nam trong phát triển du lịch, như sức hấp dẫn khách du lịch từ các giá trị
văn hoá làng nghề truyền thống; hoạt động lữ hành với việc khai thác và
bảo tồn DSVH.
Ngoài ra cịn có một số bài viết nghiên cứu về vấn đề bảo tồn và phát
huy di sản văn hoá, như: "Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản
văn hoá các dân tộc hiện nay" (PGS.TS Nguyễn Văn Huy), "Vai trị của di
sản văn hố với sự phát triển của du lịch Việt Nam" (PGS.TS Trương Quốc
Bình), “Di sản văn hố nhìn từ góc độ kinh tế” (PGS.TS Lê Quý Đức), "Mối
quan hệ giữa văn hoá và du lịch" (TS. Lê Xuân Kiêu), "Chính sách bảo tồn,
khai thác tài nguyên du lịch lễ hội" (Nguyễn Phương Lan), "Mấy vấn đề về
hoạt động tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hố " và "Bảo tồn và phát huy di
sản văn hoá Việt Nam" (GS.TSKH Lưu Trần Tiêu), "Bảo vệ di sản, cuộc
chiến từ những góc nhìn" (Ngơ Phương Thảo), "Bảo vệ di sản văn hố phi vật
thể" (GS.TS Ngơ Đức Thịnh).
Đã có một luận án của NCS Lê Hồng Hạnh viết về đề tài bảo tồn và
6
phát huy DSVH gắn với phát triển du lịch: "DSVH truyền thống với vấn đề
phát triển du lịch (trên cơ sở khảo sát địa bàn tỉnh Hưng Yên", bảo vệ tại
Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam năm 2008. Trong luận án, từ quan niệm
DSVH, vai trò của DSVH, tác giả trình bày thực trạng khai thác và bảo tồn
DSVH ở Hưng Yên, từ đó đề xuất định hướng bảo tồn DSVH bằng hoạt động
du lịch.
Có năm luận văn thạc sĩ viết về đề tài này bảo vệ tại Viện Văn hố và
phát triển - Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, đó là: Bảo
tồn phát huy lễ hội truyền thống để phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ của
Nguyễn Đắc Thuỷ (2009), Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở tỉnh Hà Tĩnh
trong thời kỳ đổi mới hiện nay của Nguyễn Thị Y Nữ (2011), Bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH vật thể ở thành phố Hải Phòng hiện nay của Phạm Ngọc
Điệp (2012), Bảo tồn và phát huy giá trị văn hố làng Châu Khê, xã Phúc
Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương hiện nay của Nguyễn Thị Huê
(2012) và Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vùng cao nguyên đá Hà Giang
gắn với phát triển du lịch của Nguyễn Thị Hồi (2013).
Các luận văn nêu trên đều có đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về DSVH, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của di sản thường được đề cập
ở góc độ tư tưởng, tức bàn về phát huy trong công tác giáo dục truyền thống.
Việc bảo tồn và phát huy giá trị của DSVH trong phát triển du lịch được tác giả
Nguyễn Thị Hoài đề cập khá chi tiết trong phạm vi vùng cao nguyên đá tỉnh Hà
Giang. Kế thừa những kết quả nghiên cứu của các học giả đi trước, trong luận
văn này em đi sâu vào tìm hiểu, phân tích vấn đề bảo tồn và phát huy DSVH
huyện Yên Thế trong phát triển du lịch ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về di sản văn hoá vật thể, di sản
7
văn hoá phi vật thể; mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn
hoá và hoạt động du lịch; thực trạng bảo tồn và phát huy DSVH huyện Yên
Thế trong phát triển du lịch, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hoá huyện Yên
Thế trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Xác định các khái niệm công cụ có liên quan đến nội dung đề tài, như:
di sản văn hoá, quan niệm về bảo tồn và phát huy di sản văn hoá, mối quan hệ
giữa di sản văn hoá và du lịch; đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội huyện Yên
Thế tỉnh Bắc Giang.
- Khảo sát thực trạng khai thác và bảo tồn di sản văn hố huyện n
Thế, qua đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế của công tác này.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác bảo tồn và phát huy DSVH huyện Yên Thế bằng hoạt động du lịch
trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Di sản văn hoá, bao gồm di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi
vật thể huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của
di sản trong phát triển du lịch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Di sản văn hoá huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, bao gồm địa giới hành
chính của 2 thị trấn và 19 xã.
Các đơn vị lữ hành hiện đang khai thác di sản văn hoá của huyện Yên Thế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí
8
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hố, đề tài
tiếp cận một cách có hệ thống những tiền đề lý luận về DSVH, về bảo tồn
DSVH và phát huy DSVH.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp Phân
tích - Tổng hợp tài liệu văn bản; Phương pháp xã hội học; Phương pháp Lịch
sử - Logic; Phương pháp phân tích và các phương pháp liên ngành.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ bổ sung, gợi mở, góp phần hồn
thiện chính sách bảo tồn và phát huy DSVH trong cả nước nói chung, tỉnh
Bắc Giang và huyện Yên Thế nói riêng.
- Luận văn bước đầu hệ thống hoá về DSVH huyện Yên Thế, tỉnh Bắc
Giang, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo
tồn và phát huy giá trị DSVH.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu cho ngành du lịch
nghiên cứu, xây dựng kế hoạch để phát triển du lịch bền vững.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. QUAN NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1.1. Di sản văn hoá
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hoá
Văn hoá là một tổng thể các hoạt động sáng tạo của con người trong
quá khứ cũng như trong hiện tại, hoạt động sáng tạo ấy đã sản sinh ra những
hiểu biết, những kinh nghiệm sống được đúc kết lại thành các truyền thống và
thị hiếu, các giá trị và chuẩn mực xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của
con người, xây dựng nên một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Những thành tựu
của những hoạt động sáng tạo ấy bất kể là vật thể hay phi vật thể, hữu hình
hay vơ hình, qua sự sàng lọc và thử thách của thời gian, đọng lại trở thành di
sản văn hoá.
Di sản văn hoá dân tộc là toàn bộ sản phẩm sáng tạo của các thành viên
trong cộng đồng sáng tạo. Nó thể hiện ra dưới dạng những đối tượng vật thể
như: các cơng trình kiến trúc, các loại tác phẩm văn chương, hội hoạ, điêu
khắc, âm nhạc… và phi vật thể, như: phong tục tập quán trong ăn ở sinh hoạt
và một số loại hình khác. Có thể nói di sản văn hố là sự tồn tại hiện thực của
văn hố. Nói bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, cũng tức là phải
giữ gìn và phát huy vốn di sản văn hố của dân tộc.
Di sản văn hố khơng chỉ nhìn thấy (hữu hình), sờ mó thấy (vơ hình)
mà cịn mang tính biểu tượng cao và được lan toả (vơ thức), trao truyền (hữu
thức) từ cộng đồng này sang cộng đồng khác, từ thế hệ trước cho thế hệ sau.
Vì thế, nó tạo nên một thứ khí hậu trực tiếp liên quan đến toàn bộ sinh hoạt
vật chất lẫn tinh thần của cộng đồng. Như một thế lực vơ hình, nó chi phối
10
mọi suy nghĩ hành động của từng con người khiến người ta nhận ra rằng họ
khơng chỉ thuộc về mình mà cịn thuộc về một cái gì rộng lớn, cao cả hơn
nữa: thuộc về một dân tộc.
Nhà nghiên cứu người Pháp, Abraham Moles cho rằng, di sản văn hố
đóng vai trò như một “mã di truyền xã hội”, một ký ức tập thể cho phép sự tái
sinh, sự nhớ lại về quá khứ trên trục thời gian, làm nên tính liền mạch của nền
văn hoá dân tộc.
Federico Mayor, nguyên Tổng Giám đốc UNESCO xem di sản văn hoá
như là hiện thân của bảng thang giá trị hay một hệ thống các giá trị ; những
nhân tố hình thành nên bản sắc văn hoá của một dân tộc. Bản sắc ở đây vừa là
cái gốc, vừa tựa như bộ gien di truyền xã hội, vừa là cái cốt lõi, cái nền tảng
cho phép nền văn hố đó tự sinh, tự hố trên cơ sở của chính mình.
Luật Di sản văn hố, được Quốc hội nước ta thông qua năm 2001 (sửa
đổi bổ sung năm 2009), quan niệm: Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hoá
phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị
lịch sử, văn hố, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [39, tr.12].
Tóm lại, di sản văn hố là bộ phận hợp thành nền tảng tinh thần xã hội.
Đó là vốn quý của mỗi quốc gia dân tộc, là cái “hộ chiếu văn hố” để cho các
dân tộc, quốc gia có thể giao lưu với nhau, làm phong phú cho nhau, mà vẫn
giữ được bản sắc của mình. Trong xã hội hiện đại, di sản văn hố được quan
niệm khơng phải như những biểu tượng hoài niệm về quá khứ, mà như một
nội lực cố kết cộng đồng trong cuộc đấu tranh vì sự tồn tại và phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc.
1.1.1.2. Các đặc trưng của di sản văn hố
Chúng ta biết rằng, khơng phải mọi sản phẩm do con người làm ra đều
trở thành di sản văn hoá. Vì vậy, cần xác định một số nét đặc trưng của di sản
11
văn hố, để phân biệt nó với các sản phẩm thông thường khác. Để làm rõ điều
này phải xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của văn hoá.
Đặc trưng thứ nhất của văn hố là tính sáng tạo, biểu thị ở khả năng
tính tích luỹ thơng tin. Nhận thấy, trong bất cứ di sản văn hoá nào cũng đều có
chứa đựng vốn kinh nghiệm sống của con người. Hãy lấy ví dụ từ một hiện
vật đơn giản như chiếc cạp váy của dân tộc Mường. Không kể những tri thức
về trồng bông, kéo sợi, dệt vải, tạo ra những hồ sắc lạ, trên cạp váy cịn có
những hoa văn độc đáo, giáo sư Từ Chi sinh thời nhờ tiến hành nghiên cứu
những hoa văn này, đối chiếu so sánh chúng với một số văn hoa trên trống
đồng Đông Sơn, mà đưa ra được những giải thích thú vị trong lịch sử cổ đại
của dân tộc Việt. Như vậy, chúng ta có thể hình dung hoa văn dân tộc chính là
một thứ ngơn ngữ bí ẩn, là thơng điệp của người xưa gửi cho hậu thế. Cần
phải giữ gìn di sản nguyên vẹn, để con cháu sau này tiếp tục được chiêm
ngưỡng, thưởng thức, khám phá,...
Đặc trưng thứ hai của văn hố là tính giá trị. Đó là cái được xã hội coi
là cao quý, đáng ao ước. Các giá trị phổ thơng được mọi nền văn hố chấp
nhận là cái đúng, cái tốt, cái đẹp và cái có ích. Di sản văn hố nào cũng mang
ít nhất một trong những phẩm chất cao q đó.
Ví dụ: Bộ quần áo ka-ki bạc mầu của chủ tịch Hồ Chí Minh mặc hồi
đầu Cách mạng tháng Tám không hẳn là vật phẩm đẹp, nhưng nó tượng trưng
cho đức tính giản dị và khiêm nhường của lãnh tụ, nó nói lên lịng thơng cảm
sâu sắc của Người với đời sống khó khăn của nhân dân lao động vừa thốt
khỏi ách thực dân. Vì thế, bộ quần áo ka-ki đã trở thành một giá trị, đại diện
cho đức độ của vị chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Đặc trưng thứ ba của văn hố là tính biểu tượng, nhờ đó mà mọi người
có thể giao tiếp với nhau.
Ví dụ, Thánh Gióng là biểu tượng về tinh thần anh dũng chống giặc
ngoại xâm của cư dân làm ruộng nước ở vùng châu thổ Bắc bộ. Hoặc Chùa
12
Một cột (Hà Nội), xét về hình thái khơng phải là cơng trình kiến trúc hồnh
tráng, nó chỉ như một bơng sen khiêm nhường ngoi lên từ hồ nước, cịn về
mặt nội dung thì chùa là một biểu tượng kiến trúc đặc sắc, thể hiện giấc mơ
của nhà vua, thấy Phật hiện ra trên toà sen.
Chuyện Sơn tinh, Thuỷ tinh phản ánh sự kiện chống lũ lụt của dân tộc
thời khuyết sử. Sự thắng lợi của Sơn tinh (thần núi) đối với Thuỷ tinh (thuỷ
quái) là thắng lợi của sự lựa chọn giải pháp đắp đê (cao như núi), để đối phó
với nạn thuỷ tai xảy ra hàng năm vào mùa mưa lũ.
Đặc trưng thứ tư của văn hoá là tính lịch sử, như vậy bất cứ vật thể nào
đại diện cho sự kiện lịch sử trọng đại, một giai đoạn lịch sử tiêu biểu, hay một
nhân vật lịch sử kiệt xuất đều có thể trở thành di sản văn hố.
Ví dụ: Trống đồng Ngọc Lũ là một cổ vật lịch sử, nó khơng chỉ thể hiện
trình độ luyện kim điêu luyện của người Việt cổ, mà hình khắc trên mặt trống
cịn phản ánh các hình thái sinh hoạt của xã hội đương thời. Cọc Bạch Đằng
là một hiện vật lịch sử, nó đại diện cho tầm tri thức về chiến thuật hải quân
của ông cha ta vào thế kỷ thứ X.
Một đối tượng hay sự vật không nhất thiết phải hội đủ các tiêu chí trên,
nhưng ít nhất phải có một tiêu chí đặc sắc, thì đối tượng hay sự vật ấy mới trở
thành di sản văn hoá.
1.1.1.3. Phân loại di sản văn hoá
Từ hồi đầu thế kỷ XX, Franz Boas - nhà nhân học người Hoa Kỳ đã
chứng tỏ sự sâu sắc của mình, khi ơng khẳng định: "Mỗi nền văn hoá là một
tồn tại độc đáo, hơn thế là một của báu độc đáo; sự biến mất của bất cứ nền
văn hoá nào cũng làm cho chúng ta nghèo đi". Di sản văn hoá dân tộc là cơ sở
để dân tộc hội nhập, giao lưu với các dân tộc khác, mà khơng bị tha hố. Qua
đó, khơng chỉ làm phong phú, sâu sắc cho chính dân tộc mình trong sự đối
thoại với văn hố của các dân tộc khác, mà cịn góp phần làm giàu có thêm
13
cho kho tàng di sản văn hoá chủng của quốc gia, mở rộng ra là của toàn nhân
loại. Điều cần nhấn mạnh ở đây là, trong thời đại có sự gia tăng về giao lưu
quốc tế, khiến cho xã hội biến động cực nhanh như hiện thời, thì di sản văn
hố dân tộc có thể được phát triển, mà cũng có thể bị suy kiệt, nghèo nàn, thậm
chí dẫn đến triệt thối từng phần hay tồn bộ. Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc
văn hoá, bằng các phương tiện truyền thông hiện đại, đang hàng ngày áp đặt lối
sống, tức mơ hình văn hố của nó lên tồn nhân loại. Uỷ ban giáo dục, khoa
học và văn hoá (UNESCO) của Liên hiệp quốc đã cảnh báo về tình trạng "đồng
phục văn hố". Tình trạng này khơng chỉ đưa đến hậu quả là làm "bật gốc văn
hoá" (vong bản) ở những nước chậm phát triển thuộc thế giới thứ ba, mà cịn
làm nghèo nàn vốn di sản văn hố tồn nhân loại. Vì thế, nhận biết, bảo tồn và
khai thác di sản văn hoá dân tộc giờ đây đã trở thành vấn đề bức xúc.
Để nhận biết vốn di sản văn hố dân tộc thì phải tiến hành miêu tả,
đánh giá; và để miêu tả, đánh giá thì phải xây dựng khung phân loại di sản
văn hoá dân tộc. Trước đây, ngành dân tộc chí căn cứ vào nhiệm vụ miêu tả
văn hoá tộc người thường chia văn hoá thành ba lĩnh vực để miêu tả, đó là:
Văn hố vật chất là chỉ hoạt động mưu sinh (kiếm sống), thông qua
việc tìm kiếm, khai thác, thu lượm các dạng vật thể trong thiên nhiên, đáp ứng
các nhu cầu trong đời sống vật chất của con người. Các vật thể liên quan đến
đời sống vật chất gồm có: Cơng cụ sản xuất (công cụ làm ruộng, săn bắt, hái
lượm, đánh cá, chăn ni,.v.v…); Vũ khí (để bảo vệ cộng đồng người, chống
thú dữ và các kẻ thù khác); Phương tiện sinh hoạt (liên quan đến các việc: ăn
uống, trang phục, nhà ở, phương tiện đi lại).
Văn hoá tinh thần chỉ các hoạt động nhằm bồi dưỡng và phát triển đời
sống tinh thần của con người. Liên quan đến hoạt động tinh thần, gồm có: tín
ngưỡng - tơn giáo, thờ cúng, lễ hội, các sinh hoạt văn nghệ dân gian, giáo dục
con cái và các hình thức vui chơi - giải trí khác.
14
Văn hoá xã hội chỉ những sản phẩm do con người đặt ra, bảo đảm an
sinh xã hội, phát triển bền vững. Văn hố xã hội gồm có: các tổ chức xã hội,
luật tục, hương ước, tổ chức quản lý xã hội,.v.v…
Khi xã hội phát triển cao hơn, văn hoá xã hội trở nên phong phú và rất
đa dạng. Trong trường hợp ấy, sự phân chia như trên khơng cịn hợp lý và
người ta tiến hành sử dụng các cách phân loại khác. Chẳng hạn, các nhà xã
hội học hiện đại đã chia văn hố thành chín lĩnh vực, gồm: văn hoá kinh tế
(phương thức mưu sinh), văn hoá sinh hoạt, văn hố sinh thái, văn hố gia
đình, văn hố chính trị, văn hố tơn giáo, văn hố khoa học, văn hố giáo dục,
văn hố nghệ thuật và giải trí.
Hoặc có thể dựa vào các hình thái của hoạt động sản xuất, để phân chia
văn hố, từ đó nhận diện về DSVH. Có thể quy hoạt động sản xuất thành bốn
dạng, tương ứng với bốn dạng tiểu văn hố, đó là:
Sản xuất ra con người - Văn hoá phát triển giống nịi.
Sản xuất vật chất - Văn hố sản xuất vật chất.
Sản xuất tinh thần - Văn hoá sản xuất tinh thần.
Sản xuất ra định chế để quản lý xã hội - Văn hoá tổ chức quản lý xã hội.
Dựa theo phân loại của UNESCO Luật Di sản văn hoá của nước ta chia
DSVH thành hai loại: di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể.
Chương 1, Điều 4 Luật Di sản văn hoá khẳng định:
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hố, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu
truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình
thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ngữ văn truyền miệng, diễn
xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ
cơng truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá
15
ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân
gian khác [40].
Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hố,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia.
Theo luật di sản, ta có thể hình dung văn hố tồn tại dưới hai hình thái:
phi vật thể và vật thể.
Ngoài ra, sự phát triển bản thân con người với tư cách là chủ thể của
hoạt động văn hố, có thể xem là hình thái người của sự tồn tại văn hố.
Văn hố, đó khơng chỉ là máy móc, nhà cửa, tác phẩm nghệ thuật, tri
thức khoa học, mà còn là những phẩm chất của bản thân con người đã đạt
tới trình độ phát triển tinh thần nhất định, có được những tài năng, kỹ xảo,
tri thức cần thiết cho hoạt động sáng tạo của nó. Người Nhật xem tài năng
của nghệ nhân dân gian như “kho báu sống” thuộc về tài sản văn hố vơ
hình. Ở châu Phi ông Haphtê-Bâ người dân tộc Buốc-ki-na Fa-sô quan
niệm: khi một cụ già ở châu Phi mất đi, điều đó cũng có nghĩa là một thư
viện cổ vừa bốc cháy.
Chúng ta biết rằng: con người sống có hai bản thể: bản thể sinh vật và
bản thể văn hoá. Là một sinh thể, con người thuộc về di sản vật thể, biểu hiện
ở sức mạnh thể chất của nó. Là một nhân cách văn hố, nó thuộc về di sản phi
vật thể, biểu hiện ở các giá trị văn hố của cộng đồng mà nó mang vác.
1.1.1.4. Quan niệm về bảo tồn và phát huy di sản văn hoá
Trước đây bảo tồn và phát huy DSVH được xem là công việc thuộc
phạm vi nội bộ của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, từ thập kỷ 60 thế kỷ XX trở lại
đây, văn hố ngày càng khẳng định vai trị to lớn trong việc điều tiết sự phát
triển xã hội của nhân loại, nên bảo tồn và phát huy DSVH đã trở thành vấn đề
mang tính quốc tế.
16
Đến nay, đã có rất nhiều cơng ước và Hiến chương về di sản và bảo vệ
di sản đã được thông qua, như: Hiến chương Athens về trùng tu di tích lịch sử
(1931), Hiến chương Venice về bảo tồn và trùng tu di tích và di chỉ (1964),
Cơng ước về bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới (1972), Hiến
chương Bura (1979, sửa đổi 1999), Hoa viên lịch sử - Hiến chương Florence
(1981), Hiến chương về bảo vệ thành phố và khu vực đô thị lịch sử
Washington (1987), Hiến chương về bảo vệ và quản lý di sản khảo cổ học
(1990), Nguyên tắc chỉ đạo việc giáo dục và đào tạo về bảo vệ di tích, cụm
cơng trình và di chỉ (1993), Văn kiện Nara về tính xác thực (1994), Hiến
chương về việc bảo vệ và quản lý di sản văn hoá dưới nước (1990), Nguyên
tắc lập hồ sơ di tích, cụm kiến trúc và di chỉ (1996), Cơng ước quốc tế về du
lịch và văn hố (1999), Hiến chương về di sản xây cất bản xứ (1999), Nguyên
tắc bảo tồn các kiến trúc lịch sử bằng gỗ...
Ngoài ra, hoạt động của các tổ chức quốc tế như: Uỷ ban giáo dục,
khoa học, văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO), Cơ quan phát triển của
Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức du lịch thế giới (WTO)... Tất cả cho thấy
những nỗ lực chung của nhân loại trong việc bảo tồn và phát huy DSVH.
Ở nước ta, ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm đến việc bảo tồn di tích, cổ tích. Coi đây là việc cấp thiết cho công
cuộc kiến thiết nước nhà. Sắc lệnh số 65, ngày 23/11/1945 về việc bảo tồn cổ
tích có sáu điều do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành nêu rõ: “Cấm phá huỷ
đình, chùa, đền miếu, hoặc các nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách
cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá huỷ những bia ký, đồ vật, chiếu
sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tơn giáo, nhưng chưa có ích cho
lịch sử mà được bảo tồn…”.
Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hoá và danh lam
thắng cảnh (1984) và đặc biệt là Luật Di sản văn hoá (2001, Luật sửa đổi bổ
17
sung năm 2009) ra đời đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để tồn dân tham
gia cơng tác bảo tồn và phát huy DSVH.
Tuy vậy, thực tiễn bảo tồn DSVH diễn ra vô cùng phong phú và phức
tạp, cho nên việc lựa chọn phương án bảo tồn nào là hợp lý, là thích hợp trong
điều kiện hiện nay đang là vấn đề được nhiều nhà khoa học, quản lý quan
tâm. Một số ý kiến cho rằng cần bảo vệ tính nguyên gốc của DSVH, số khác
lại xem bảo tồn theo hướng phát triển mới là phù hợp.
Dù còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có hai phương pháp bảo tồn
thường được đề cập đến là: bảo tồn nguyên trạng và bảo tồn kế thừa.
Bảo tồn nguyên trạng (bảo tồn trong dạng “tĩnh”). Trong đó, bảo tồn
nguyên vẹn văn hoá vật thể ở dạng “tĩnh” là vận dụng thành quả khoa học
kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật như sự
vốn có về kích thước, vị trí, đường nét màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục
nguyên các DSVH vật thể cần sử dụng hiệu quả các phương tiện kỹ thuật
như: đồ hoạ kỹ thuật vi tính cơng nghệ 3D theo khơng gian ba chiều; chụp
ảnh; băng hình video; xác định trọng lượng, thành phần chất liệu của
DSVH vật thể. Sau khi tiến hành bảo tồn nguyên vẹn, phải so sánh đối
chiếu số liệu với nguyên mẫu đã được lưu giữ chi tiết để khơng làm biến
dạng DSVH vật thể.
Đối với văn hố phi vật thể, bảo tồn ở dạng “tĩnh” là tiến hành điều tra,
sưu tầm, thu thập các dạng thức văn hố phi vật thể như nó hiện có theo quy
trình khoa học nghiêm túc, chặt chẽ, “giữ” chúng trong sách vở, các ghi chép,
mơ tả bằng băng hình (video), băng tiếng (audio), ảnh.v.v...
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn ở dạng “động”)
Bảo tồn “động”, tức là bảo tồn các hiện tượng văn hoá trên cơ sở kế
thừa. Các DSVH vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ
bản của di tích, cố gắng phục chế lại nguyên trạng DSVH vật thể bằng nhiều
18
kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đối với các DSVH phi vật thể, bảo tồn “động”
trên cơ sở kế thừa là bảo tồn các hiện tượng văn hố đó ngay chính trong đời
sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng khơng những là môi trường sản sinh ra các
hiện tượng văn hố phi vật thể mà cịn là nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm
giàu và phát huy văn hoá phi vật thể trong đời sống xã hội theo thời gian. Các
hiện tượng văn hoá phi vật thể tồn tại trong ký ức cộng đồng, nương náu trong
tiếng nói, trong các hình thức diễn xướng, trong các nghi lễ, nghi thức, quy
ước dân gian.
Văn hố phi vật thể ln tiềm ẩn trong tâm thức và trí nhớ của con
người mà chúng ta thường mệnh danh họ là những nghệ nhân hay là những "b
báu vật nhân văn sống". Do đó bảo tồn và phát huy các giá trị văn hố phi vật
thể cịn đồng nghĩa với việc bảo vệ những "báu vật nhân văn sống". Đó là
việc xã hội thừa nhận các tài năng dân gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo
điều kiện tốt nhất để trong hoàn cảnh có thể, để họ sống lâu, sống khoẻ mạnh,
phát huy được khả năng của họ trong quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hoá truyền thống. Cần phải phục hồi các giá trị văn hoá phi vật thể một
cách khách quan, sáng suốt, tin cậy, chứ không thể chủ quan tuỳ tiện. Tất cả
những giá trị văn hoá phi vật thể phải được kiểm chứng qua nhiều phương
pháp nghiên cứu có tính chất chun mơn cao, có giá trị thực chứng, thuyết
phục thơng qua các dự án điều tra, sưu tầm bảo quản, biên dịch và xuất bản
các dấu tích DSVH phi vật thể.
Bảo tồn theo quan điểm phục hồi nguyên dạng DSVH phi vật thể chính
là mong muốn “lý tưởng” nhất, hồn hảo nhất. Nếu khơng thể bảo tồn ngun
dạng thì phải bảo tồn theo hiện trạng đang có. Bởi theo quy luật của thời gian
thì các DSVH phi vật thể ngày càng có xu hướng xa dần nguyên gốc. Do vậy,
nếu không thể khôi phục được nguyên gốc thì bảo tồn hiện trạng là điều cần
phải thực hiện và có ý nghĩa khả thi nhất.
19
1.1.2. Về quan niệm phát triển du lịch
1.1.2.1. Khái niệm du lịch
Theo Từ điển Bách Khoa toàn thư Việt Nam (1966), khái niệm du lịch
gồm hai nội dung cơ bản. Thứ nhất (đứng trên góc độ mục đích của chuyến
đi), du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người
ngồi nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử, cơng trình văn hố, nghệ thuật,… Thứ hai (trên góc độ kinh
tế), du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt:
nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hố dân tộc, từ
đó góp phần tăng thêm tình u đất nước; đối với người nước ngồi là tình
hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh
mang lại hiệu quả rất lớn: có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ tại chỗ.
Liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức( International Union of
Official Travel Oragnization - IUOTO) quan niệm: du lịch được hiểu là hành
động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xun của mình
nhằm mục đích khơng phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay
một việc kiếm tiền sinh sống...
Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp ở Roma, Italia (21/8 15/9/1963), đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du lịch là tổng hợp các mối
quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình
và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay
ngoài nước họ với mục đích hồ bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi
làm việc của họ.
Điều 4, Luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14/6/2005, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội
khoá XI khẳng định: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi
20
của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu
cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định” [8, tr.2].
1.1.2.2. Quan niệm về phát triển du lịch
Du lịch là loại hình xuất hiện khá sớm trong lịch sử lồi người. Từ thời
cổ đại, người Ai Cập và Hy Lạp đã thực hiện những chuyến hành hương về
đất thánh, các thánh địa, chùa chiền, các nhà thờ KiTô giáo… như là những
hoạt động du lịch tuy chỉ mang tính tự phát. Khi con người phát minh ra máy
hơi nước (1784), xe lửa (1804), tàu thuỷ (1807), đặc biệt là sự phát triển như
vũ bão của CNTT và truyền thông cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã tạo
điều kiện cho ngành du lịch phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia có bề dày văn hố cùng hệ
thống di sản phong phú.
Phát triển du lịch phải trên cơ sở tiềm năng và tài nguyên du lịch tự
nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn. Khai thác phải có định hướng và theo quy
hoạch. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.
Phát triển du lịch phải mang tình bền vững, mang tính dân tộc, tức đi đơi với
sự giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Phát triển du lịch nhằm bảo tồn các di tích lịch sử - văn hố, các di tích
cách mạng, tiếp cận kỹ thuật hiện đại nhưng giữ gìn và phát huy truyền thống,
bản sắc văn hố dân tộc. Tạo các sản phẩm du lịch mang tính dân tộc kết hợp
tính hiện đại có sức hấp dẫn cao. Đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế để tăng
nguồn thu ngoại tệ, đồng thời xem trọng phát triển du lịch nội địa, đáp ứng
nhu cầu tham quan du lịch ngày càng tăng của nhân dân, góp phần nâng cao
dân trí, giáo dục truyền thống, lịng u q hương, phục hồi sức khoẻ …Hợp
tác, liên kết với các tỉnh để phát triển du lịch.
21
1.1.2.3. Phát triển du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững và phát triển bền vững có mối quan hệ rất
chặt chẽ. Trên thực tế, phát triển bền vững và phát triển du lịch bền vững đều
liên quan đến môi trường. Trong du lịch, môi trường mang một hàm ý rất
rộng. Đó là mơi trường tự nhiên, kinh tế, văn hố, chính trị và xã hội; là yếu
tố rất quan trọng để tạo nên các sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo. Rõ ràng,
nếu khơng có bảo vệ mơi trường thì sự phát triển sẽ suy giảm; nhưng nếu
khơng có phát triển thì việc bảo vệ mơi trường sẽ thất bại. Chính vì vậy,
chúng ta cần phát triển du lịch nhưng không được làm tổn hại đến tài nguyên,
không làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Hay nói một cách khác, du
lịch bền vững phải là xu thế phát triển của ngành du lịch.
Ngoài sự phát triển thân thiện với mơi trường, khái niệm bền vững cịn
bao hàm cách tiếp cận du lịch thừa nhận vai trò của cộng đồng địa phương,
phương thức đối xử với lao động và mong muốn tối đa hố lợi ích kinh tế của
du lịch cho cộng đồng địa phương. Nói cách khác, du lịch bền vững khơng chỉ
có bảo vệ mơi trường, mà cịn quan tâm tới khả năng duy trì kinh tế dài hạn
và công bằng xã hội. Du lịch bền vững khơng thể tách rời phát triển bền vững.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển du lịch bền vững. Hội đồng
Du lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC) định nghĩa: "Du lịch bền vững là việc
đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn bảo đảm
những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai".
Theo Machado, du lịch bền vững là: "Các hình thức du lịch đáp ứng
nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du lịch, và cộng đồng địa phương
nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.
Du lịch khả thi về kinh tế nhưng không phá huỷ tài nguyên mà tương lai của
du lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là mơi trường tự nhiên và kết cấu xã hội
của cộng đồng địa phương".
22
Hens L. lại cho rằng "Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các
dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu
kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hố, các
q trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống". Định
nghĩa này mới chỉ chú trọng đến công tác quản lý tài nguyên du lịch để cho du
lịch được phát triển bền vững.
Tại Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc tại Rio de
Janeiro năm 1992, Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra định nghĩa:
"Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu
hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc
bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch
trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên
nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi
đó vẫn duy trì được sự tồn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự phát triển của
các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống con người".
1.1.2.4. Các loại hình du lịch
Căn cứ vào đối tượng, mục tiêu và cách thức tổ chức người ta chia du
lịch thành nhiều loại hình khác nhau. Chẳng hạn, nếu căn cứ theo môi trường
tài nguyên, người ta chia du lịch thành du lịch văn hoá, du lịch sinh thái.
Du lịch văn hố, là hình thức du lịch dựa vào vốn di sản văn hoá dân
tộc, với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hoá truyền thống. Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du
lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục... gần đây du lịch
văn hoá được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu
hút nhiều khách du lịch quốc tế.
Phần lớn hoạt động du lịch văn hoá gắn liền với địa phương - nơi lưu
giữ nhiều lễ hội văn hoá, các phong tục tập quán sinh hoạt, tín ngưỡng mang
23
đậm bản sắc dân tộc. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá
văn hố và phong tục tập qn bản địa, thì du lịch văn hố là cơ hội để thoả
mãn nhu cầu của họ. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hố
tức là tạo ra dịng chảy mới để phát triển du lịch và quảng bá các giá trị văn
hoá của di sản.
Du lịch sinh thái, là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với
bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát
triển bền vững. Du lịch sinh thái (EcoTourism) là loại hình du lịch có
trách nhiệm tại các điểm đi lại của các khu vực thiên nhiên, bảo tồn được
môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương. Loại hình du
lịch này tuy ra đời khá muộn nhưng nó đă nhanh chóng trở thành một loại
hình du lịch có triển vọng và đang phát triển với tốc độ khá nhanh, đặc
biệt là trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia. Với ý nghĩa đó, đề tài đă
nghiên cứu tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái trong khu
bảo tồn thiên nhiên nhằm gắn kết du lịch với bảo tồn và phát triển kinh tế
cộng đồng địa phương.
Du lịch sinh thái là loại hình có từ rất lâu nhưng ít được con người chú
ý. Phải đến khi loại hình du lịch máy bay ra đời, cùng với sự phát triển khá
nhanh của ngành du lịch với mối quan tâm về vấn đề bảo vệ tài nguyên môi
trường, nhất là sau hội nghị thượng đỉnh về môi trường tổ chức tại Stockholm
(Thuỵ Điển) năm 1972 và tại Rio Dejanero (Brazil) năm 1992 tṹì du lịch sinh
thái mới thực sự phát triển và được xem như là một công cụ hữu hiệu để thoả
mãn sự khát khao của con người về với thiên nhiên, gắn kết bảo vệ tài nguyên
môi trường với phát triển du lịch bền vững.
Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ, người ta chia du lịch thành du lịch quốc
tế, du lịch nội địa. Bản chất của du lịch quốc tế là tổ chức những chuyến đi
tìm hiểu, khám phá, nghỉ dưỡng ngồi phạm vi lãnh thổ quốc gia.
24
Du lịch nội địa, là sự di chuyển của người du lịch từ chỗ vùng này sang
chỗ khác nhưng trong phạm vi đất nước mình chi phí bằng tiền nước mình.
Điểm xuất phát và điểm đến nằm trong lãnh thổ nước mình.
Căn cứ theo vị trí địa lí, có du lịch nông thôn, du lịch thành thị, du
lịch biển và du lịch miền núi. Du lịch nông thôn, là loại hình này mới phát
triển trong những năm gần đây. Khách du lịch chủ yếu là những người sống
ở thành phố chủ yếu là tìm tới chốn yên tĩnh để nghỉ ngơi hoặc tìm về kí ức
của tuổi thơ, thưởng thức hương vị của đồng quê với những món ẩm thực
ngon lạ.
Du lịch thành thị, khách du lịch muốn tham quan những thành quả của
sự phát triển kinh tế, xã hội với những tồ nhà cao tầng, những nhà máy, cơng
viên, các cơng trình kiến trúc đồ sộ và đi mua sắm. Đối tượng khách chủ yếu
là những người sống ở nông thôn, những người sống ở thành phố cấp II, III,
cá thị xã (đối với du lịch nội địa), khách du lịch ở các nước kém phát triển và
đang phát triển (đối với du lịch quốc tế).
Du lịch biển, là loại hình thu hút du khách ở các lứa tuổi, vùng miền. Vì
thế biển có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động du lịch. Hiện nay, du lịch biển đón
một lượng khách lớn trên phạm vi thế giới. Du lịch biển với hai chức năng
chính là chữa bệnh và thể thao...cho nên cũng có thể gọi đây là loại hình du
lịch tổng hợp (du lịch nhỉ dưỡng và du lịch thể thao). Người ta cho rằng một
bãi biển đẹp, thu hút khách du lịch phải hội tụ các yếu tố: Ánh nắng - Biển Cát (bãi biển). Các bờ biển đẹp, nước trong xanh, cát trắng mịn, ln chan
hồ ánh nắng là điều kiện hấp dẫn khách du lịch.
Du lịch miền núi, thường gắn với hoạt động thể thao, chữa bệnh, hồ
mình vào thiên nhiên để thư giãn, lấy lại sự thăng bằng về tâm lí. Ngồi ra, do
tính độc đáo và tương phản cao, miền núi cịn rất thích hợp cho việc xây dựng
và phát triển các loại hình du lịch tham quan, cắm trại, mạo hiểm…Các nhà
25
hoạt động và quản lý du lịch cho rằng, trong tương lai du lịch miền núi sẽ trở
thành loại hình thu hút đông đảo du khách như du lịch biển.
Bên cạnh cách phân loại như trên, căn cứ vào hình thức tổ chức,
phương thức hợp đồng, phương tiện di chuyển, mục đích chuyến đi… người
ta cịn chia hoạt động du lịch thành: du lịch cá nhân/theo đồn; trọn gói/từng
phần; đường bộ/đường thuỷ; theo mục đích chung/mục đích riêng,v.v…
1.2. DI SẢN VĂN HÓA - NGUỒN TÀI NGUYÊN ĐẶC BIỆT ĐỂ PHÁT
TRIỂN DU LỊCH
Như trên đã trình bày, di sản có nghĩa là tài sản của thế hệ (hoặc thời
đại) trước trao truyền cho thế hệ (hoặc thời đại) sau, tạo nên sự liền mạch văn
hố theo hướng tích luỹ, làm cho văn hố của một cộng đồng người ngày
càng giàu có thêm lên.
Trước đây, nói đến giá trị của DSVH, người ta thường chỉ đề cập đến
giá trị tư tưởng gắn với chức năng giáo dục của nó. Điều này khơng sai,
nhưng chưa đầy đủ. Thực ra DSVH là một thực thể đa chức năng, nói một
cách khái quát là nó có chức năng kép. Đó là chức năng tư tưởng và chức
năng kinh tế của DSVH. Với chức năng tư tưởng, DSVH biểu thị như vốn tài
sản tinh thần quý báu của quốc gia, đang hiện diện như bản sắc văn hố của
dân tộc, có khả năng tạo ra nội lực cố kết cộng đồng, hình thành nên mơi
trường văn hố, ni dưỡng bản lĩnh nhân cách người Việt Nam, góp phần
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Để phát huy giá trị tư tưởng của DSVH, thì phải tìm cách làm cho giá
trị ấy thâm nhập vào đời sống tinh thần của quần chúng. Đó là việc xây dựng
các nhà bảo tàng, tổ chức cho quần chúng tiếp cận rộng rãi với các dạng
DSVH của đất nước, như đi tham quan, du lịch, xem biểu diễn nghệ thuật
truyền thống của dân tộc.
Khi DSVH trở thành đối tượng kinh doanh của ngành du lịch, nó là
nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn.