1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu, rộng hơn với thế giới
và hướng tới hội nhập và phát triển, Đảng ta chủ trương tiến hành cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Để thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại
hố thành công, Đảng đặc biệt chú trọng tới nhân tố con người, coi phát huy
nhân tố con người, khơi dậy tiềm năng vô tận của con người là nhân tố quyết
định thắng lợi trên con đường xây dựng xã hội theo mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng ta cũng đã nhiều lần khẳng định,
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt. Trong xây dựng Đảng, công tác cán bộ là lĩnh vực quan trọng nhất, là
khâu then chốt của vấn đề then chốt. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là
một mắt xích quan trọng trong hệ thống chính trị bốn cấp ở nước ta hiện nay.
Trong thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng, đội ngũ này đã có những
đóng góp to lớn. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, đội ngũ này cần phải có bản lĩnh,
có niềm tin, có năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn... mới có
thể đáp ứng yêu cầu đó của sự nghiệp cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Những
thành tựu mà cách mạng Việt Nam đạt được đã chứng minh điều đó. Trong sự
nghiệp cách mạng, chúng ta đã đào tạo, bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ
có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ chun mơn và năng lực lãnh
đạo, quản lý tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự ra đời và phát triển của kinh tế tri
thức, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ
chế thị trường... đòi hỏi phải đào tạo được đội ngũ cán bộ giỏi về chun
mơn, có khả năng vận dụng tri thức khoa học vào giải quyết những vấn đề
2
thực tiễn một cách hiệu quả nhất. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, thì
yêu cầu đặt ra không chỉ là trang bị cho họ tri thức khoa học, mà còn cả năng
lực kết hợp lý luận với thực tiễn, cần phải có nhiều biện pháp tích cực và
đồng bộ, đặc biệt là việc bồi dưỡng cho họ thế giới quan duy vật biện chứng.
Bởi lẽ, trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, để phát triển
thì bất kỳ một quốc gia nào cũng phải có một học thuyết làm nền tảng, làm
kim chỉ nam cho mọi hành động. Ở Việt Nam, đó chính là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà cơ sở của chúng là thế giới quan duy vật
biện chứng. Vì vậy, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ
này là một yêu cầu bức thiết và giải quyết tốt vấn đề này sẽ góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước.
Với ý nghĩa như vậy, yêu cầu bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là vơ
cùng quan trọng và cấp thiết. Bởi vì, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người trực
tiếp lãnh đạo và tổ chức thắng lợi mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Đồng thời, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
cũng là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, thường xuyên lắng nghe, giải quyết và
đề đạt ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt khác, có thể thấy, thế giới quan duy vật biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở trong công cuộc đổi mới vừa qua tuy đã có bước phát triển nhưng
nhìn chung vẫn cịn thấp, chưa ngang tầm nhiệm vụ đòi hỏi của địa phương và
điều đó cũng đã gây cản trở khơng ít cho công cuộc đổi mới ở cơ sở.
Lai Châu là một tỉnh miền núi, nằm ở phía Tây bắc của Tổ quốc. Tỉnh
Lai Châu mới được tái lập tháng 1/2004, có vị trí chiến lược về an ninh - quốc
phịng, tài ngun khống sản khá phong phú và là nơi có nhiều đồng bào dân
tộc sinh sống. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu
3
đã đóng vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, tư tưởng và an ninh - quốc phòng của tỉnh. Tuy nhiên, đứng trước
yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước hiện nay, họ đã bộc lộ những hạn chế
nhất định về trình độ, phẩm chất, năng lực tư duy sáng tạo, tổ chức thực
tiễn… đặc biệt là hạn chế về thế giới quan duy vật biện chứng.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới hiện nay, đội
ngũ này phải không ngừng học tập, rèn luyện về mọi mặt, trong đó có đào tạo,
bồi dưỡng về thế giới quan duy vật biện chứng nhằm nâng cao kiến thức,
củng cố niềm tin và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị mà Đảng, nhân dân giao phó. Với những suy nghĩ như vậy, tác giả
chọn đề tài: “Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở. Bên cạnh đó cũng đã có một số bài viết, luận văn, luận án tiếp cận ở
những góc độ khác nhau liên quan đến đề tài. Cụ thể là:
- Lê Xuân Vũ (1986), “Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh
thần của nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 1986, (6). Tác giả đã bước đầu phân
tích khái niệm thế giới quan Mác - Lênin và ảnh hưởng của thế giới quan ấy
đến đời sống tinh thần của nhân dân ta, trong bối cảnh đất nước bước vào
công cuộc đổi mới.
- Trần Thanh Hà (1993), Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho
cán bộ đảng viên người dân tộc Khơ-Me ở đồng bằng sông Cửu Long trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Từ sự phân tích khái niệm “thế giới quan
khoa học” và thực trạng giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng
4
viên là người dân tộc Khơ-Me ở đồng bằng song Cửu Long, tác giả luận văn
đã đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế
giới quan khoa học cho đội ngũ này.
- Trần Thước (1993), Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở
tầng lớp trí thức Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đề cập tới “thế giới quan xã hội chủ
nghĩa”, sự hình thành, cấu trúc và tác động của nó tới tầng lớp trí thức Việt
Nam qua các giai đoạn cách mạng từ năm 1945 đến những năm đầu thập kỷ
90 của thế kỷ trước.
- Bùi Ỉnh (1998), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối
với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả luận án đã phân tích khá rõ về thế giới quan
nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng, luận giải kết cấu và
phân tích nhiều về thực trạng, phương hướng, giải pháp nhằm giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng đối với những người cán bộ, đảng viên là người
dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Trần Viết Quân (2010), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Tây Nguyên hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Trên cơ sở kế thừa những tài liệu, luận văn, luận án có trước, tác giả Trần
Viết Quân đã tập trung vào phân tích thực trạng việc bồi dưỡng thế giới quan
duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Tây Nguyên và
đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng thế giới
quan duy vật biện chứng cho đội ngũ này.
- Nguyễn Thái Bình (2000), “Triết học Mác - Lênin với việc năng cao
thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho sinh viên”, Tạp chí sinh
hoạt lý luận Phân viện Đà Nẵng, (43). Tác giả phân tích nhiều tới ảnh hưởng
5
và vai trò của triết học Mác - Lênin tới việc nâng cao thế giới quan và phương
pháp luận khoa học cho sinh viên.
- Nguyễn Văn Vinh (2001), Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng
cho sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến
sĩ Triết học, Học viện chính trị quân sự, Hà Nội. Tác giả cũng đã đề cập tới
nội hàm các khái niệm cơ bản như: “thế giới quan”, “thế giới quan duy vật
biện chứng”, phân tích thực trạng những ưu điểm và hạn chế, đề ra những giải
pháp để phát triển thế giới quan duy vật biện chứng nói chung và cho sĩ quan
cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng.
- Nguyễn Huy Hồng (2003), “Mấy suy nghĩ về việc xác định bản chất
của thế giới quan”, Tạp chí Triết học, (1). Đây là bài viết rất có giá trị, đặc
biệt là những suy ngẫm của tác giả khi phân tích đến bản chất của thế giới
quan và vai trị của nó.
- Bùi Kiến Thưởng (2004), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật
biện chứng cho học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Luyến (2005), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Cả hai luận văn trên đều triển khai từ việc phân tích khái niệm, kết cấu của
thế giới quan và vai trò, tầm quan trọng của thế giới quan duy vật biện chứng;
từ đó, đi sâu phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
bồi dưỡng (cho học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam và cho sinh viên các
trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội).
- Trần Văn Phòng (2006), “Nét độc đáo trong thế giới quan duy vật
biện chứng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học xã hội, (9). Đây là bài viết khá
sâu sắc và có hệ thống về nét độc đáo trong thế giới quan duy vật biện chứng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cội nguồn, bản chất và làm nên tính đặc sắc trong
tư tưởng của Người.
6
- Nguyễn Thị Kim Thư (2009), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật
biện chứng cho cán bộ, đảng viên Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Từ sự kế thừa các
luận văn, tài liệu đi trước, tác giả chủ yếu phân tích đặc điểm, thực chất của
việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ, đảng viên ở tỉnh
Phú Thọ, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của các ưu
điểm, hạn chế ấy và đề xuất các nhóm giải pháp khá đồng bộ và khả thi để
nâng cao hiệu quả, chất lượng bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho đội ngũ đó.
Tóm lại, những cơng trình, bài viết, đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án
trên đã có nhiều đóng góp và đề cập tới các nội dung cơ bản như:
- Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan Mác - Lênin nói
riêng, cũng như đi sâu phân tích cấu trúc, chức năng của chúng.
- Vai trị và tính tất yếu xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho
các đối tượng như sinh viên, cán bộ, đảng viên trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
- Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành thế
giới quan duy vật biện chứng. Những nguyên tắc phương pháp luận chung
trong việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đưa ra những phương hướng chung và một số quan điểm và giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho một số
đối tượng cụ thể trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định.
Tuy nhiên, có thể thấy, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học
nào đi sâu nghiên cứu vấn đề “Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay”.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay, luận
văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở của tỉnh, đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ thực chất và đặc điểm thế giới quan duy vật biện
chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
- Đánh giá thực trạng bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về việc bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) ở
tỉnh Lai Châu trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của triết học Mác Lênin như: Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, mối quan hệ
8
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn.
- Luận văn cịn dựa trên quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị
quyết của Đảng và Nhà nước cũng như nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Lai Châu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các
phương pháp như: phân tích và tổng hợp; quy nạp - diễn dịch; lịch sử - lơgíc,
so sánh, khái quát hóa và phương pháp điều tra xã hội học (khảo sát thực tế).
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ thực chất và đặc điểm của thế giới quan duy vật
biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay.
- Luận văn làm rõ thực trạng việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay và trên
cơ sở đó, bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tính cấp thiết của việc
bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay, góp phần giúp cho họ ngày càng thấm nhuần
thế giới quan khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy cho Trường Chính trị tỉnh Lai Châu, các Trung tâm Bồi dưỡng
Chính trị của huyện, thị trong tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
9
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT
BIỆN CHỨNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH LAI CHÂU HIỆN NAY
1.1. THỰC CHẤT CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT
BIỆN CHỨNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH LAI
CHÂU HIỆN NAY
1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và bồi dưỡng thế giới quan
duy vật biện chứng
1.1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Con người vừa là sản phẩm vừa là một bộ phận của thế giới, để tồn tại
và phát triển, con người phải nhận thức thế giới cũng như nhận thức về bản
thân mình trong mối quan hệ với thế giới nhằm điều chỉnh hoạt động của bản
thân mình. Kết quả của quá trình nhận thức đó hình thành nên thế giới quan.
Về lịch sử, phạm trù thế giới quan xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII,
sau đó các nhà triết học và các nhà khoa học đều sử dụng để chỉ quan niệm
của con người về thế giới. Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, phạm trù
thế giới quan được phát triển lên một tầm cao mới. Vào khoảng những năm
60 - 70 của thế kỷ XX, các nhà triết học ở Liên Xô trước đây và các nhà triết
học trên thế giới nghiên cứu, định nghĩa ở nhiều góc độ khác nhau.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, cho đến nay đã có rất nhiều định
nghĩa về thế giới quan. Từ điển Triết học do Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva
xuất bản năm 1975 có viết: “Thế giới quan - toàn bộ những nguyên tắc, quan
điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của
một tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay của xã hội nói chung đối với thực
tại” [59, tr.539].
Từ điển Bách khoa Triết học xuất bản năm 1983 cũng định nghĩa:
10
Thế giới quan - đó là hệ thống những quan điểm đối với thế giới
khách quan và vị trí của con người trong thế giới đó; là hệ thống
những quan điểm về quan hệ của con người đối với hiện thực xung
quanh và bản thân con người cũng như những lập trường sống cơ
bản của con người được quy định bởi những quan điểm đó, là nhiềm
tin, lý tưởng, những nguyên tắc nhận thức và hoạt động, những định
hướng giá trị [60, tr.375].
Từ điển Triết học do Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội xuất bản năm 1976
có ghi:
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, khái niệm và quan
niệm về toàn bộ thế giới xung quanh con người; đó là tồn bộ những
quan điểm về thế giới, về những hiện tượng trong tự nhiên và trong
xã hội, các quan điểm triết học xã hội và chính trị, luân lý, mỹ học,
khoa học [61, tr.906].
Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng có những định nghĩa khi
nghiên cứu về thế giới quan. Tác giả Bùi Ỉnh quan niệm rằng:
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể về thế
giới, về những hiện tượng tự nhiên, xã hội và những quy luật phát
triển của chúng, về bản thân con người, về vị trí, vai trị của con
người trước thế giới. Nói cách khác, thế giới quan là phản ánh tồn
tại vật chất và xã hội của con người [46, tr.10].
Trần Thước định nghĩa thế giới quan như sau: “Thế giới quan là hệ
thống những quan điểm chung nhất về thế giới (toàn bộ sự vật và hiện tượng
thuộc tự nhiên và xã hội), về vị trí và chức năng của con người trong thế giới,
mối quan hệ của con người đối với thế giới và với chính bản thân mình” [56,
tr.13]. Hồng Đình Cúc định nghĩa:
Thế giới quan là sự nhìn nhận tồn bộ thế giới vật chất và tinh thần.
Trong sự nhìn nhận ấy có các quan niệm về thế giới, về con người
11
và cuộc sống của con người. Vì vậy, có thể hiểu rằng thế giới quan
là tổng hợp những quan niệm về thế giới, về vị trí của con người
trong thế giới, về chính bản thân, về cuộc sống của con người và
lồi người [3, tr.37].
Từ những quan niệm trên, có thể hiểu: Thế giới quan là hệ thống
những quan điểm của một chủ thể (một người, một tập đoàn người, một giai
cấp hay toàn xã hội) về thế giới, về vị trí và vai trị của con người trong thế
giới đó. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng cho hoạt động nhận thức và
cải tạo thế giới của con người.
Thế giới quan có ý nghĩa khơng chỉ về mặt lý luận và nhận thức mà nó
cịn có ý nghĩa to lớn về thực tiễn, quyết định thái độ của con người đối với
thế giới xung quanh và định hướng cho hành động của con người.
Về cấu trúc, thế giới quan được cấu thành bởi ba nhân tố cơ bản sau:
Tri thức: Theo quan điểm Triết học Mác - Lênin, tri thức là kết quả
phản ánh thế giới vào trong bộ não con người. Bất kỳ chủ thể thế giới quan
nào cũng có khát vọng vươn tới những tri thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội
và bản thân con người. Tri thức là điều kiện cần thiết và chủ yếu cho việc hình
thành thế giới quan, tuy nhiên, không phải bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xã
hội và con người đều là tri thức thế giới quan. Chỉ có những tri thức biểu thị
quan điểm chung về tồn tại và về nhận thức mới là những tri thức của thế giới
quan. Vì vậy, khi nghiên cứu nhân tố tri thức của thế giới quan, chúng ta cũng
thấy rằng, tri thức thế giới quan là tri thức chung được đúc kết từ tất cả các bộ
môn khoa học khác; vì vậy, thế giới quan liên quan đến tất cả các ngành khoa
học, đặc biệt là triết học.
Niềm tin: Niềm tin là một trạng thái tâm lý được hình thành chủ yếu
trên cơ sở tri thức, nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo
hiện thực của con người. Niềm tin khoa học chỉ có thể hình thành trên cơ sở
tri thức khoa học chân chính. Khi đã xác lập được niềm tin khoa học, thì nó
12
trở thành cội nguồn của tính tích cực của mỗi cá nhân, tập đồn người và giai
cấp xã hội. Nó đóng vai trị là động lực thúc đẩy con người vươn tới khát
vọng nhận thức và là cầu nối biến mọi nhận thức thành hoạt động cải tạo hiện
thực của chủ thể thế giới quan.
Niềm tin chi phối một cách chặt chẽ cả tư tưởng và hoạt động của con
người. Thiếu niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì con
người sẽ mất đi lịng nhiệt tình, ý chí, nghị lực và sự cổ vũ cần thiết để đi đến
kết quả. Niềm tin giúp con người có thêm nghị lực để vượt qua những trở
ngại, hiểm nguy, dám hy sinh vì những mục tiêu cao cả đã đặt ra.
Niềm tin khoa học có tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống và hành động cách mạng của con người. Nếu con người
sống khơng có niềm tin khoa học hoặc thiếu niềm tin khoa học sẽ mất phương
hướng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, dễ mắc phải những sai lầm
nghiêm trọng.
Lý tưởng: Lý tưởng hình thức đặc biệt của ý thức về hiện thực, là ý
thức về cái đang tồn tại và triển vọng phát triển của nó. Lý tưởng là một hình
thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức và niềm tin của một cá nhân,
một nhóm người, một giai cấp hay của tồn xã hội.
Lý tưởng đóng vai trị định hướng đối với hoạt động nhận thức và
thực tiễn của con người. Nó chính là nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn
lên làm chủ của con người trong cuộc sống hiện thực của mình. Lý tưởng
đúng đắn, cao đẹp sẽ làm cho mỗi con người có lập trường sống đúng đắn,
lao động tích cực, đồng thời ngăn chặn và đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực và
lạc hậu trong cuộc sống.
Ba nhân tố cơ bản trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau. Trong đó tri thức là yếu tố đóng vai trị quan trọng và chi
phối đến trình độ phát triển của thế giới quan, đến sự hình thành niềm tin và
lý tưởng. Nếu tri thức đúng đắn, khoa học sẽ hình thành nên lý tưởng, lối sống
13
cao đẹp và niềm tin đúng đắn, khoa học. Đồng thời, khi đã hình thành niềm
tin, lý tưởng thì nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy con người hoạt động, biến
những tri thức, ước mơ thành hiện thực.
Thế giới quan là sản phẩm trực tiếp của quá trình nhận thức, sự phát
triển của thế giới quan phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người. Lịch
sử cho đến nay, xét ở trình độ phát triển và cách thức biểu hiện, thế giới quan
có ba hình thức cơ bản đó là: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn
giáo và thế giới quan triết học.
Trong sự phát triển của thế giới quan triết học, thế giới quan duy vật
biện chứng được coi là hình thức phát triển cao nhất của thế giới quan.
Thế giới quan duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng
vào những năm 40 của thế kỷ XIX, được V.I.Lênin và những người kế tục ông
tiếp tục phát triển.
Thế giới quan duy vật biện chứng là một hệ thống quan điểm hoàn
chỉnh về thế giới trên cơ sở những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, cùng
những định hướng giá trị của con người trong quan hệ với hiện thực dựa trên
việc giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học. Thế
giới quan duy vật biện chứng khơng dừng lại ở việc giải thích về thế giới, mà
hơn thế nữa, nó định hướng cho con người nhận thức và hành động đúng trong
việc khẳng định vị trí và vai trị của con người trong việc cải tạo thế giới.
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đánh dấu một bước
ngoặt trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng và thế giới quan
nói chung. Thế giới quan duy vật biện chứng là sự kết hợp nhuần nhuyễn của
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh thế
giới quan duy vật biện chứng có vai trị to lớn trong q trình nhận thức và cải
tạo hiện thực. Nó biểu thị niềm tin vào sự tiến bộ của xã hội loài người, niềm
tin vào khả năng của con người. Niềm tin đó được xây dựng trên cơ sở khái
quát thực tiễn, kinh nghiệm hoạt động cách mạng, phù hợp với quy luật khách
14
quan và lợi ích quần chúng, đặc biệt là quá trình cách mạng vơ sản nhằm xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
1.1.1.2. Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì bồi dưỡng có hai nghĩa:
“1. Làm cho khỏe thêm, mạnh thêm. 2. Làm tốt hơn, giỏi hơn” [66, tr.191].
Theo Từ điển tiếng Việt do Đà Nẵng xuất bản thì bồi dưỡng là: “1. Làm
cho tăng thêm sức khỏe của cơ thể bằng chất bổ. 2. Làm cho tăng thêm năng
lực hoặc phẩm chất” [62, tr.79].
Bồi dưỡng không đồng nhất với giáo dục, bồi dưỡng mang ý nghĩa
rộng lớn hơn giáo dục.
Giáo dục: Hiểu theo nghĩa rộng, đó là q trình trao đổi và chuyển giao
tri thức, là sự đạt được những giá trị và các mơ hình hành vi theo một mục
đích, u cầu định sẵn. Còn theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình
thành nhân cách con người dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích của
nhà giáo dục trong hệ thống các cơ quan giáo dục và dạy học.
Như vậy, giáo dục có vai trị quan trọng trong việc hình thành tri thức,
phẩm chất, nhân cách, định hướng phát triển cho mỗi con người.
Bồi dưỡng: là quá trình làm tăng thêm trình độ năng lực hoặc phẩm
chất cho đối tượng cần bồi dưỡng. Bồi dưỡng không đồng nhất với giáo dục.
Giáo dục là một quá trình hoạt động mang tính xã hội và mang tính phức hợp
giữa chủ thể dạy và học, là quá trình truyền đạt và tiếp nhận tri thức một cách
có hệ thống với sự hỗ trợ của những phương tiện cần thiết. Nói cách khác,
giáo dục là quá trình hoạt động thống nhất hữu cơ giữa dạy và học. Với nghĩa
như vậy, bồi dưỡng bao hàm giáo dục ở trong nó, và giáo dục được xem là
hình thức cơ bản có hiệu qủa nhất của quá trình bồi dưỡng.
Với quan niệm như vậy thì bồi dưỡng là trên cơ sở cái đã có, làm cho
nó phát triển ngày một cao hơn, tốt hơn và sâu sắc hơn. Nó được thực hiện
dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú.
15
Bản chất của bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng là q trình
tác động đồng bộ, tích cực, có định hướng, có kế hoạch vào ý thức của đối
tượng bồi dưỡng, nâng cao khả năng nhận thức, năng lực tư duy và hướng dẫn
họ hoạt động thực tiễn theo một chương trình, mục tiêu cụ thể đã được xác
định, nhờ đó sẽ hình thành thế giới quan khoa học và cách mạng, hình thành
phương hướng phấn đấu rèn luyện để đạt được trình độ chính trị, chun mơn,
phẩm chất đạo đức cách mạng.
Vì vậy, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng là làm cho thế giới
quan duy vật biện chứng trở thành nền tảng trong đời sống tinh thần, có tác
dụng định hướng cho con người về nhận thức và hoạt động thực tiễn cũng
như trong cuộc sống.
Việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng chính là bồi dưỡng
những tri thức khoa học nói chung và tri thức về chủ nghĩa Mác - Lênin nói
riêng; xây dựng, củng cố niềm tin và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Với những cách hiểu như trên thì bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng là quá trình bồi dưỡng những tri thức khoa học nói chung và tri thức lý
luận Mác - Lênin nói riêng; xây dựng, củng cố niềm tin và lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa làm cho thế giới quan duy vật biện chứng trở thành nền tảng trong
đời sống tinh thần, có tác dụng định hướng cho họ về nhận thức và hoạt động
thực tiễn cũng như trong cuộc sống của con người.
1.1.2. Thực chất của việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay
Thực chất của việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay là bồi dưỡng những
tri thức khoa học nói chung và tri thức lý luận Mác - Lênin nói riêng, xây
dựng, củng cố niềm tin và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, làm cho thế giới quan
duy vật biện chứng trở thành nền tảng trong đời sống tinh thần, có tác dụng
định hướng hoạt động nhận thức và thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở tỉnh Lai Châu.
16
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay phải được tiến hành đồng bộ trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa - tư tưởng,
đạo đức, lối sống... và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, cũng
như được thực hiện liên tục và lâu dài trong sự nghiệp cách mạng.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay cần chú ý những nội dung cơ bản sau:
- Một là, bồi dưỡng tri thức.
Tri thức là sức mạnh, một dân tộc muốn phát triển được phải biết tích
lũy và học tập toàn bộ tri thức của nhân loại. Bồi dưỡng tri thức cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu là để họ nắm bắt và vận dụng
những tri thức đó vào trong hoạt động thực tiễn cuộc sống, vào trong hoạt
động lãnh đạo, quản lý ở địa phương một cách đúng đắn và sáng tạo. Hệ thống
tri thức cần bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu
hiện nay bao gồm: Hệ thống tri thức của các khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
hệ thống tri thức khoa học cơ bản về tự nhiên và xã hội hiện đại; hệ thống tri
thức về chun mơn, nghiệp vụ. Trong đó, hệ thống tri thức của các khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng là những
tri thức nền tảng quan trọng của thế giới quan duy vật biện chứng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng trở
nên sâu rộng, đặc biệt khi kinh tế tri thức đã và đang phát triển thì tri thức,
nhất là tri thức triết học ngày càng có vị trí vơ cùng quan trọng trong đời sống
của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội địi hỏi đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Lai Châu nói riêng phải có tri thức về những quy luật vận động của tự
nhiên và xã hội, nắm bắt được sự tất yếu, con đường và bước đi của quá trình
xây dựng xã hội mới. Do vậy, bồi dưỡng tri thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
17
cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay cần gắn với thành tựu của hơn 26 năm đổi
mới của đất nước, khai thác có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chủ nghĩa tư bản, vạch rõ bản chất những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của nước ta. Qua
đó, củng cố và khẳng định niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp đổi mới, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
- Hai là, bồi dưỡng niềm tin.
Niềm tin mà chúng ta cần xây dựng trong việc bồi dưỡng cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay là niềm tin khoa học. Đó
là niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, vào sự thành công của sự nghiệp đổi mới của đất nước,
vào lòng yêu nước và sức mạnh của nhân dân... Những niềm tin đó chỉ có thể
được xác lập trên những tri thức khoa học chắc chắn, đúng đắn và đã được
thực tiễn kiểm nghiệm, trên lòng yêu nước nồng nàn và những giá trị tốt đẹp
trong truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
Củng cố, xây dựng niềm tin khoa học là tất yếu của việc bồi dưỡng thế giới
quan duy vật biện chứng. Nhất là, trong tình hình hiện nay, khi một bộ phận cán bộ,
đảng viên có biểu hiện suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt
lý tưởng, giảm sút niềm tin thì việc xây dựng, củng cố niềm tin cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
- Ba là, bồi dưỡng lý tưởng.
Lý tưởng là những ước muốn, quan niệm, bao gồm lý tưởng xã hội, lý
tưởng đạo đức, lý tưởng thẩm mỹ. Lý tưởng xã hội là những quan niệm phù
hợp với lợi ích kinh tế, chính trị của tập đoàn người về một chế độ xã hội
hoàn thiện, là tiêu chí vươn tới những ước vọng và là mục đích của hoạt động
con người. Trong thế giới quan, lý tưởng biểu hiện ra như là kết quả, mục
đích cao nhất và tốt đẹp nhất mà chủ thể phấn đấu để vươn tới. Lý tưởng được
xác lập trên cơ sở thế giới quan khoa học, niềm tin và tri thức đúng đắn phản
18
ánh đúng quy luật khách quan và có phương pháp tổ chức hành động chặt chẽ
của lực lượng cách mạng thì lý tưởng có khả năng trở thành hiện thực.
Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là lý tưởng xã hội của giai cấp công nhân
và những người lao động dựa trên những tri thức khoa học của thế giới quan
duy vật biện chứng phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của lực lượng xã hội
tiến bộ nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Lý tưởng hiện nay mà chúng ta cần bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu đó là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, khắc phục nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hình thành được nhân sinh quan cộng sản chủ
nghĩa. Nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong
thế giới quan duy vật biện chứng. Trong nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa,
quan niệm về cuộc sống là tích cực và tốt đẹp, quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với xã hội
là hài hòa, hợp tác và nhân ái. Trong giai đoạn hiện nay, việc bồi dưỡng lý
tưởng để qua đó hình thành nên nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa ở đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu là cần thiết và quan trọng nhằm
hạn chế được những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, đặt
cơ sở vững chắc và lâu dài cho sự nghiệp con người mới xã hội chủ nghĩa,
góp phần cho việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH LAI CHÂU HIỆN NAY
1.2.1. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và vai trò của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai Châu hiện nay
1.2.1.1. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Hiện nay, cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta được
phân chia thành bốn cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
19
quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh; cơ sở (bao gồm xã, phường,
thị trấn). Mỗi cấp có vị trí, vai trị khác nhau trong hệ thống chính trị nhưng
thống nhất với nhau về mục đích trong việc thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Về vị trí của cơ sở, Nghị quyết
Hội nghị Trung uơng 5 (khóa IX) nhận định:
Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân
cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị cơ sở có vai trị rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường
đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống
của cộng đồng dân cư [11, tr.166].
Hiện nay, ở nước ta, khái niệm cán bộ chủ chốt đã được đề cập nhiều
trong các văn bản, nghị quyết của Đảng. Nhưng vẫn chưa có một quan niệm
thống nhất và những tiêu chí cụ thể để xác định ai là cán bộ chủ chốt trong
một tổ chức nhất định.
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm cán bộ được hiểu như sau:
Người làm cơng tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà
nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị. Người
làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt
với người thường khơng có chức vụ. Cán bộ tổ chức [62, tr.109].
Cán bộ cịn có bộ phận được coi là lực lượng chủ chốt là “cái khung,
sườn” - “bộ phận nịng cốt” trong các q trình hoạt động của xã hội. Đó là bộ
phận “chủ chốt, quan trọng nhất, có tác dụng làm nịng cốt. Cán bộ chủ chốt
của phong trào” [62, tr.174]. Cán bộ chủ chốt là
những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong
một tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách
nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để
20
thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí
có thể chi phối, dẫn dắt tồn bộ hoạt động của một tổ chức nhất
định [58, tr.35-36].
Như vậy, từ những quan niệm khác nhau trên đây, có thể hiểu cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở là những người giữ vững cương vị lãnh đạo hay quản lý
cao nhất có tác dụng làm nịng cốt trong các tổ chức đảng, chính quyền, mặt
trận, đồn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Từ những phân tích ở trên, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được xác
định bao gồm các chức danh sau: Bí thư Đảng ủy, phó bí thư Đảng uỷ, chủ
tịch và phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch và phó chủ tịch Uỷ ban nhân
dân và những người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội. Cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở là người quyết định mọi công việc ở cơ sở và là người chịu trách
nhiệm trước Đảng và nhân dân về sự thành công hay thất bại của sự nghiệp
đổi mới ở cơ sở.
Trong quan niệm của người Việt Nam, danh xưng “cán bộ” càng có ý
nghĩa cao đẹp. Đó là một lớp người tiên phong, sẵn sàng chịu đựng mọi gian
khó, hy sinh cho cách mạng, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dân tộc; là
những người lãnh đạo và tổ chức các phong trào cách mạng đấu tranh bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng đất nước. Như vậy, trong mọi trường hợp, cán bộ chính
là lực lượng chủ chốt trong đội ngũ những người sử dụng lực lượng thực tiễn
để hiện thực hoá các tư tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng trong cuộc sống.
Trong lĩnh vực hoạt động chính trị, cán bộ là những người “đứng mũi chịu
sào” trong việc hoạch định thực thi các chính sách, quyết định khơng chỉ
riêng lĩnh vực hoạt động chuyên ngành, mà hơn thế nữa, họ là những người
đầu tiên chịu trách nhiệm về sự phát triển của xã hội.
1.2.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Lai
Châu hiện nay
Trong hệ thống chính trị, cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị
bốn cấp ở nước ta hiện nay, nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời
21
sống xã hội. Cấp cơ sở là nơi người dân thường xuyên tiếp xúc, đề đạt yêu
cầu, nguyện vọng của mình với những người đại diện cho mình. Cấp cơ sở có
vị trí rất quan trọng, là cấp gần dân nhất, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, là nơi trực tiếp tổ chức thực thi pháp luật, chính sách của Nhà nước,
đưa đường lối chủ trương của Đảng vào thực tiễn đời sống xã hội. Đồng thời
phản ánh tính hiệu lực của hệ thống thể chế, chính sách. Mọi đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đều bắt nguồn từ cơ
sở và hướng về cơ sở. Cấp cơ sở đồng thời là nơi trực tiếp thoả mãn, đáp ứng
các nhu cầu hợp pháp của nhân dân, cung cấp dịch vụ cho nhân dân; là nơi
xây dựng và phát triển tiến trình dân chủ, tăng cường đại đoàn kết toàn dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân; là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật
chất; là nền tảng cơ bản của xã hội; là nơi có thể tổ chức huy động, phát huy
cao độ nội lực của quần chúng nhân dân. Đường lối, chính sách có tác dụng,
hiệu quả đến đâu, phù hợp hay không phù hợp được kiểm nghiệm bởi cuộc
sống, tâm tư, tình cảm, thái độ, niềm tin và hành động thực tế của người dân.
Tầm quan trọng của cơ sở, vai trị, vị trí của cấp cơ sở là do khách quan
của đời sống nhân dân, do đòi hỏi của sự phát triển thực tế ở cơ sở quy định.
Tầm quan trọng của cơ sở quy định tầm quan trọng của những hoạt động sáng
tạo trong triển khai, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cấp cơ sở là nơi động viên triệt để sức người, sức của cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ đổi mới cho
đến nay, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế, thì cấp cơ sở càng có vị trí vơ
cùng quan trọng. Đảng và Nhà nước ta ln chú trọng xây dựng hệ thống chính
trị cấp cơ sở, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) đã nhấn mạnh:
22
“Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước” [11, tr.165].
Đối với Lai Châu, cấp cơ sở ngồi những vai trị giống với cả nước cịn
có những điểm nổi bật đó là: Lai Châu là tỉnh miền núi, biên giới nằm phía
Tây Bắc của Tổ quốc, có địa hình phức tạp, kết cấu hạ tầng ở vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới cịn trong tình trạng kém phát triển, nhất là hệ thống giao
thông, nước sinh hoạt, trạm y tế, trường học,... ảnh hưởng lớn đến phát triển
kinh tế, cơng tác quản lý, gây khó khăn cho sự phát triển. Do vậy, sự vững
mạnh của chính quyền cơ sở càng trở nên cần thiết để chủ động, lãnh đạo,
quản lý trên các mặt của đời sống xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới. Mặt khác, mộ số cấp ủy, chính quyền cơ sở ở một số nơi của Lai Châu
hoạt động còn chưa hiệu quả, hoạt động của cộng đồng còn bị chi phối nhiều
bởi phong tục tập quán; hiệu lực, hiệu quả của việc triển khai, thi hành đường
lối, chủ trương của Đảng, Chính sách, pháp luật của Nhà nước cịn thấp, nhất
là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có đơng đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống. Hơn nữa, địa bàn cơ sở ở Lai Châu là một trong những trọng điểm chú
ý của các thế lực thù địch, chúng triệt để lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc
tiếp tục đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hịa bình” chống phá sự nghiệp cách
mạng, gây mất ổn định chính trị, xã hội. Vì vậy, vai trị của cán bộ cấp cơ sở
không chỉ lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội ở cơ sở, mà cịn phải
nắm được dân, tuyên truyền cho dân hiểu về âm mưu phá hoại thâm độc của
các thế lực thù địch.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trị vô cùng quan trọng trong
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp tổ chức mọi
hoạt động kinh tế, văn hoá và xã hội ở địa phương, bảo đảm an ninh quốc
phòng, trật tự an toàn xã hội; đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm, phản ánh và
cung cấp một cách khách quan những căn cứ cho việc bổ sung, hoàn thiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Do
23
vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí, vai trị cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở, ln chăm lo xây dựng, củng cố, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Về mặt lý
luận cũng như thực tiễn đều khẳng định, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vững,
có mạnh thì địa phương mới mạnh, quốc gia mới mạnh được. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tổng kết: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xi” [40, tr.371]. Vai trị
của ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò quyết định
trong việc triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở tại cơ sở. Cơ sở là cấp cuối cùng tổ chức
triển khai, thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, đội ngũ này cũng chính là nhịp cầu quan trọng nối Đảng với dân,
là người đại diện cho Đảng và Nhà nước trực tiếp làm việc với dân, là người
đại biểu cho nguyện vọng, lợi ích và quyền lợi của nhân dân. Thực tế hiện
nay, một số cơ sở đang diễn ra tình trạng có một số chủ trương, nghị quyết,
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đã thực hiện không đến nơi đến
chốn, thậm chí có lúc vi phạm nghiêm trọng gây hậu quả xấu. Ngun nhân
chính ở những nơi đó là do thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng một cách năng động, sáng tạo và
phù hợp với địa phương mình. Vì vậy, cấp cơ sở: “... là địa chỉ cần phải tới, là
cái đích cần đạt được của tất cả mọi hoạt động chỉ đạo chiến lược từ trung
ương đến địa phương” [1, tr.190].
Để triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách sách pháp
luật của Nhà nước một cách có hiệu quả địi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở phải biết cụ thể hóa, chuyển hóa những chủ trương, đường lối, chính sách
bằng những biện pháp cụ thể và tổ chức nhân dân thực hiện trong cuộc sống.
Để thực hiện được điều đó, địi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có
một trình độ học vấn, trình độ tư duy lý luận nhất định; có tình cảm và niềm
24
tin vào sự nghiệp mình đang thực hiện, cũng như phải nắm được thực tiễn
mọi mặt của tình hình địa phương nơi mình cơng tác. Từ đó, người cán bộ
mới có thể xây dựng kế hoạch, đề ra biện pháp, tổ chức các lực lượng, sử
dụng những phương tiện vật chất... để tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
chính trị của mình ở cơ sở.
Đối với Lai Châu, trình độ về mọi mặt của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở còn rất nhiều hạn chế, hiện nay tồn tỉnh có khoảng 1206 cán bộ thì
trình độ tiểu học có 129, trình độ trung học cơ sở 654, trình độ trung học phổ
thơng 423. Cịn trình độ chun mơn có tới 562 cán bộ chưa qua đào tạo, trình
độ sơ cấp là 84, trình độ trung cấp 436, trình độ cao đẳng 19, trình độ đại học
144 (Phụ lục 1). Với trình độ học vấn và trình độ chun mơn như trên thì rất
hạn chế trong việc nắm bắt và cụ thể hóa, chuyển hóa những chủ trương,
đường lối, chính sách bằng những biện pháp cụ thể và tổ chức nhân dân thực
hiện trong cuộc sống ở địa phương.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cấp cuối cùng gần dân
nhất, trực tiếp tiếp xúc với dân, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước, là nhịp cầu
quan trọng nối Đảng với dân, đưa tư tưởng của Đảng đến với dân và phản ánh
tình hình, nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Do vậy, đòi hỏi người cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở phải tiên phong, gương mẫu, phải xử lý mọi công việc một
cách trực tiếp. Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở sống, làm việc với dân, vì thế
để lãnh đạo được dân, nói dân nghe thì trong cuộc sống khơng những bản thân
mà gia đình và dịng họ cũng phải gương mẫu. Trong q trình cơng tác,
người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hàng ngày phải xử lý trực tiếp mọi tình
huống xảy ra. Cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động, hành vi mưu cầu cuộc sống
của người dân, do vậy rất phức tạp, mọi xử lý của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
là rất quan trọng tạo ra niềm tin của dân ngay ở cơ sở. Nhân dân tin Đảng,
theo Đảng hay không, phần lớn và trực tiếp thông qua cán bộ cơ sở mà trước
hết là cán bộ chủ chốt. Thông qua đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ý Đảng -
25
lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước có cơ sở vững chắc
trong quần chúng, tạo nên máu thịt giữa Đảng với nhân dân, trực tiếp củng cố
niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ.
Tính trực tiếp trong hoạt động của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đòi hỏi
bản thân họ phải bám sát thực tiễn, có tác phong miệng nói, tay làm, mắt nhìn,
tai nghe, đầu suy nghĩ. Những phẩm chất này chỉ có được trong hoạt động
thực tiễn với cơ sở và là sản phẩm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng của Đảng
và Nhà nước.
Tính trực tiếp với dân cũng địi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
phải có bản lĩnh vững vàng, thành thạo trong công việc, nắm bắt được chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mới xử lý được những
tình huống nảy sinh trong cuộc sống và cơng tác. Hay, nói khác đi người cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở phải được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản
lý hành chính nhà nước. Ở Lai Châu hiện nay, trình độ lý luận chính trị của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn nhiều hạn chế. Theo thống kê, đến nay
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chưa qua đào tạo lý luận chính trị là 366, trình độ
sơ cấp 197, trình độ trung cấp 638, trình độ cao cấp 5; như vậy, cả chưa qua
đào tạo và sơ cấp lý luận chính trị là 563/1206 chiếm khoảng 46,7%. Về trình
độ quản lý nhà nước thì chỉ có 386/1206 người đã qua đào tạo, chiếm khoảng
32% (xem phụ lục 1). Những số liệu trên cho thấy trình độ lý luận, nhất là
trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Lai Châu còn nhiều
hạn chế và yếu kém.
Thứ ba, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người ra quyết định ở cơ sở, là
người vận dụng, phát triển sáng tạo chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người luôn phải đối
mặt với những yêu cầu bức xúc, những mâu thuẫn nảy sinh trong hoạt động
thực tiễn ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải luôn gần gũi với
nhân dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, phát hiện kịp thời