Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Hoạt động phật giáo ở đồng nai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.79 KB, 91 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tơn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng dân
gian khác nhau. Ở nước ta hơn 20% dân số là tín đồ các tơn giáo. Tơn giáo trở
thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đồng Nai là một tỉnh miền Đông Nam Bộ với lịch sử hình thành nền
hành chính có trên 310 năm khi những di dân Đại Việt đi mở nước đã chọn cù
lao Phố làm nơi dừng chân và xây dựng thành phố thị Nông Nại - Đại phố
sớm bậc nhất ở Nam Bộ; làm nên một Đồng Nai - Biên Hịa, bức thành đồng
giữ nước và “vùng cơng xưởng” lớn hàng đầu của đất nước cho đến tận ngày
nay. Chính những cuộc di dân như vậy đã tạo cho Đồng Nai với những nét
đặc trưng về văn hóa cũng như tơn giáo.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 10 tơn giáo và 43 Giáo hội: Công giáo,
Phật giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo bên cạnh đó có
những tơn giáo mới được thành lập và được nhà nước công nhận hợp pháp
(Tứ ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương...). Tín đồ các tơn giáo chiếm hơn
65% trên tổng dân số của tỉnh. Điều này cũng tạo nên tính phức tạp về tơn
giáo trên địa bàn tỉnh, đã từng xảy ra những “điểm nóng” liên quan đến tơn
giáo như vụ Trà Cổ, Đức Mẹ hiện hình, năm 2009 một số phần tử phản động
yêu cầu khôi phục lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và tháng
7/2013 báo Tiền phong online đã đăng bài một tín đồ đã mượn danh chức sắc
Phật giáo vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến uy tín của Giáo hội.
Phật giáo đã được du nhập vào khá sớm so với các tơn giáo khác, vì
vậy Phật giáo cũng đã từng phát triển và suy vong một thời gian dài cùng với
lịch sử đất nước. Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc của dân tộc, Phật
giáo đã có những đóng góp nhiều trong cơng cuộc giải phóng dân tộc, có
những cơ sở thờ tự đã từng nuôi dưỡng, che giấu chiến sĩ...


2


Sau khi đất nước thống nhất Phật giáo đang ngày càng được khôi phục
và phát triển. Đến nay trên địa bàn tỉnh, Phật giáo được xem là phát triển khá
nhanh so với các tôn giáo khác, với cơ sở đang được xây dựng mới và trùng
tu có thể là được xem sôi nổi, các hệ phái ngày càng nhiều với hơn 13 hệ
phái, số lượng tín đồ quy y ngày càng đông với nhiều thành phần, nhiều lứa
tuổi khác nhau...
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một số hoạt động của Phật giáo trên địa
bàn Tỉnh đang ngày càng đi ngược lại với các nội quy của Phật giáo, trái với quy
định pháp luật như: hoạt động mê tín hiện nay vẫn thường xuyên diễn ra trong
cơ sở thờ tự như xin xâm, cúng sao giải hạn..., việc xây dựng cơ sở được chính
quyền quan tâm giúp đỡ từ đó dẫn đến gần như thách thức với chính quyền
chính, điều này đã làm làm nảy sinh mâu thuẫn giữa Tin lành, Công giáo... với
cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng cơ sở thờ tự, một số phần tử xấu
lợi dụng việc làm từ thiện của tín đồ nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân, trong tổ
chức Giáo hội còn mâu thuẫn với nhau dẫn đến việc tranh giành chức vụ, đạo
đức, phẩm hạnh của một số vị chức sắc đang dần xuống cấp... điều đó gây bức
xúc, làm giảm lòng tin trong nhân dân đối với Phật giáo.
Hoạt động của nhóm Gia đình Phật tử trái phép thơng qua các hình thức
sinh hoạt phong phú đã thu hút khá đông thanh, thiếu niên tham gia sinh hoạt
từ đó kích động, lơi kéo những thanh niên trong tổ chức chống lại nhà nước.
Đạo đức, phẩm hạnh của một số tăng sĩ trong chức sắc Phật giáo ở
Đồng Nai đang ngày càng sa sút, công tác quản lý nhân sự trong Ban trị sự
còn lỏng lẻo, vẫn còn trường hợp khiếu nại quản lý cơ sở thờ tự ngay chính
trong nội bộ Phật giáo.. .
Trước những hoạt động của Phật giáo trên địa bàn Tỉnh ngày càng có
những diễn biến khó lường, việc tìm ra những phương hướng và giải pháp
nhằm vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo lành mạnh của quần chúng,
vừa đảm bảo cho hoạt động Phật giáo trên địa bàn theo đúng đường hướng mà



3
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đề ra, vừa đấu tranh có hiệu quả chống địch lợi
dụng tơn giáo là việc làm cần thiết.
Từ những nguyên nhân trên hoạt động Phật giáo trên địa bàn Tỉnh ngày
càng trở thành vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn đặt ra ngay chính
trong Giáo hội cũng như đối với cơ quan quản lý ở Đồng Nai hiện nay. Do đó
tơi đã chọn đề tài nghiên cứu “Hoạt động Phật giáo ở Đồng Nai hiện nay” từ
đó đề ra một số giải pháp hướng hoạt động Phật giáo trên địa bàn Tỉnh ngày
càng đúng với đường hướng “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Năm 1990 Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Tăng cường cơng tác tơn giáo
trong tình hình mới” (gọi tắt là Nghị quyết số 24). Nghị quyết này đã đề ra
những quan điểm chỉ đạo phù hợp với tình hình đất nước đang bước vào giai
đoạn đầu của cơng cuộc đổi mới đất nước.
Từ khi có Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị, việc đi vào nghiên cứu
tơn giáo, đề ra chủ trương, chính sách tơn giáo ngày càng được nhiều nhà lý
luận - chính trị quan tâm hơn. Từ đó, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
vấn đề tơn giáo trong nước cũng như thế giới, như “Một số tôn giáo ở Việt
Nam” của Phịng thơng tin tư liệu Ban Tơn giáo của Chính phủ năm 1993
cuốn sách đã tổng quan một cách sơ lược về mặt lịch sử các tôn giáo lớn trên
thế giới có ở Việt Nam và một số tổ chức của các tơn giáo như Gia đình Phật
tử, thần học kinh viện v.v…
Cuốn Tổng quan đề tài nhánh “Thực trạng, xu hướng vận động của
Phật giáo và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo quản lý” do Tiến sỹ
Hồ Trọng Hoài làm chủ nhiệm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2002, cuốn sách đã khái lược lịch sử hình thành Phật giáo, quá trình Phật
giáo du nhập vào Việt Nam, tác giả đã khái quát được thực trạng, những
nguyên nhân của thực trạng Phật giáo ở Việt Nam và xu hướng Phật giáo
trong thời gian tới.



4
Tổng quan đề tài cấp nhà nước “Xu hướng phát triển tôn giáo hiện nay ở
nước ta và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý” do GS.TS Lê
Hữu Nghĩa làm chủ nhiệm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2003. Cuốn sách đã nêu lên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tơn giáo, xu
hướng vận động của nó cũng như làm rõ mối quan hệ giữa tơn giáo nói chung và
từng tơn giáo nói riêng với những vấn đề chính trị - xã hội của đất nước, đề ra
phương hướng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn giáo
theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
"Lý luận về Tơn giáo và chính sách tơn giáo", “Lý luận về tơn giáo và
tình hình tơn giáo hiện nay” của Viện nghiên cứu Tôn giáo; “Công tác tôn
giáo từ quan điểm Mác-Lênin đến thực tiễn Việt Nam” của PGS. TS Ngô Hữu
Thảo, “Tôn giáo - Quan điểm chính sách đối với tơn giáo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Đức Lữ. Cuốn sách đề cập đến
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, việc thay đổi nhận thức của
Đảng ta đối với vấn đề tôn giáo được thể hiện bằng các chủ trương, chính
sách liên quan đến công tác quản lý tôn giáo.
Cuốn “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam” tập 1 của PGS. TS
Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học Hà Nội, 2002 đã khái quát quá trình du
nhập cũng như ảnh hưởng của Phật giáo với dân tộc Việt Nam.
Việt Nam Phật giáo sử luận tập I, II, II do Nguyễn Lang viết, sách đề
cập đến quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, sự phát triển, hưng
thịnh và suy vong qua từng thời kỳ của Phật giáo, trong đó Chương XXXX
tập 3: “Chính quyền Ngơ Đình Diệm sụp đổ” tác giả viết về vấn đề chính
quyền ngụy quyền đã đàn áp đối với Phật giáo. Đây có thể xem là bài học lịch
sử, nếu nhà nước nào áp dụng lực lượng vũ trang nhằm giải quyết vấn đề tơn
giáo thì sẽ gây nên sự phẫn nộ trong tín đồ tơn giáo và có thể gây nguy hại
đến sự trật tự an tồn xã hội của quốc gia.



5
Cuốn “Bước đầu học Phật” tác giả Hịa thượng Thích Thanh Từ. Nội
dung cơ bản của cuốn sách nhằm giúp cho con người hiểu như thế nào là
Phật, trong cuộc sống con người phải gạt bỏ hoặc làm những công việc gì mà
trong đời thường ta thường gặp để được như Phật. Trong cuốn sách “Cành Lá
vô ưu” của đồng tác giả. Đây là cuốn sách nói đến những quan điểm sống của
con người trong xã hội đầy bất công, những nhân duyên, nghiệp quả.
Đề tài luận văn “Quản lý nhà nước đối với Công giáo trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai” của Võ Thị Mộng Thu đã nêu lên tổng quan công tác quản lý nhà
nước đối với Công giáo trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên đề tài cũng chỉ nghiên cứu
đến khía cạnh của Cơng giáo hoặc đề tài luận văn “Quản lý nhà nước đối với
hoạt động của Phật giáo ở tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay” của
Nguyễn Thị Hoàng Trinh chỉ nêu vấn đề chung chung trong công tác quản lý
nhà nước, chưa nghiên cứu kỹ về Phật giáo ở Đồng Nai và thực trạng của nó
như thế nào.
Bên cạnh đó, nhằm đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) và Chương
trình hành động của Tỉnh ủy về công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức tổng kết 5 năm từ 2003-2008 nhằm
đánh giá tình hình tổng quan tơn giáo trên địa bàn tỉnh, công tác quản lý
của cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh, qua đó đã đánh giá và đề ra
những phương hướng công tác tôn giáo trong thời gian tới. Năm 2012 Ban
Tôn giáo tỉnh đã tổ chức sơ kết việc thực hiện Thông báo Kết luận số 21
của Bộ Chính trị “Về cơng tác đối với Phật giáo trong tình hình mới”, qua
đó đã đánh giá những thuận lợi cũng như khó khăn đối với hoạt động của
Phật giáo trên địa bàn tỉnh.
Trong những năm qua đã có một số đề tài có đề cập hoạt động tôn giáo
trên địa bàn tỉnh và công tác quản lý, tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu
tồn diện đối với Phật giáo trên địa bàn tỉnh. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài



6
nhằm giúp tìm hiểu hoạt động của Phật giáo cũng như đề ra các phương pháp
nhằm điều chỉnh các hoạt động đó đi đúng với đạo pháp và pháp luật của Nhà
nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn phân tích một số hoạt động của Phật giáo trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm quản lý,
điều chỉnh hoạt động của Phật giáo trên địa bàn tỉnh ngày càng đúng với đạo
pháp và pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ
- Khái quát tình hình Phật giáo ở Đồng Nai.
- Phân tích những hoạt động của Phật giáo ở Đồng Nai hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm điều chỉnh hoạt động của Phật giáo
theo đúng đạo pháp và pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu hoạt động của Phật giáo ở Đồng Nai từ 1981 cho đến nay
trên một số phương diện: Hoạt động Ban trị sự Phật giáo tỉnh, hoạt động
Hoằng pháp, hoạt động từ thiện và một số công tác khác của Phật giáo .
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công
tác tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ hoạt động thực tiễn của Phật giáo ở
Đồng Nai thời gian qua.
- Để thực hiện luận văn này, sử dụng tổng hợp các phương pháp lơgic
và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu cùng phương pháp của xã
hội học, của tôn giáo học.. nhằm đạt mục đích và hồn thành những nhiệm vụ



7
mà luận văn đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn bước đầu tổng hợp lại quá trình du nhập và phát triển của
Phật giáo ở Đồng Nai.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh họat động với Phật
giáo ở Đồng Nai hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nhằm làm rõ
thêm những hoạt động Phật giáo, những vấn đề đang cần giải quyết để điều
chỉnh hoạt động Phật giáo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay theo đúng đạo
pháp và pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
PHẬT GIÁO Ở ĐỒNG NAI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐỒNG NAI

1.1.1. Về điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Đồng Nai là tỉnh nằm trong khu vực miền Đông Nam Bộ của Việt Nam,
vùng đất nối liền giữa Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên.
Tỉnh Đồng Nai nằm ở cực bắc miền Đơng Nam Bộ, có toạ độ địa lý từ
10o30’03’’ đến 11o34’57’’ vĩ độ Bắc và từ 106o45’30’’ đến 107o35’00’’ kinh độ
Đơng.

Đồng Nai có diện tích 5.862,37 km2, bằng 1,76% diện tích tự nhiên của
cả nước và 25,5% diện tích tự nhiên vùng Đơng Nam Bộ, giữ vị trí quan trọng
trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam của đất nước.
Đồng Nai giáp các tỉnh: phía Đơng giáp tỉnh Bình Thuận; phía Tây giáp
Thành phố Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Bình Phước;
phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; phía Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.
Hiện nay, tỉnh Đồng Nai có 173 phường, xã, thị trấn. Trong đó: Thành
phố Biên Hồ có 23 phường, 07 xã; Thị xã Long Khánh có: 06 phường, 09
xã; Huyện Tân Phú có: 01 thị trấn, 17 xã; Huyện Định Quán có: 01 thị trấn,
13 xã; Huyện Xuân Lộc có: 01 thị trấn, 14 xã; Huyện Cẩm Mỹ có: 13 xã;
Huyện Long Thành có: 01 thị trấn, 18 xã; Huyện Nhơn Trạch có: 12 xã;
Huyện Thống Nhất có: 10 xã; Huyện Trảng Bom có: 01 thị trấn, 16 xã; Huyện
Vĩnh Cửu có: 01 thị trấn, 09 xã.
Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2011, dân số tỉnh Đồng Nai có
2.665.100 người; Như vậy, tỉnh Đồng Nai có dân số đơng hàng thứ 5 của Việt
Nam, đứng hàng thứ hai trong số các tỉnh thành miền Đông Nam bộ. Mật độ dân
số theo tỉ lệ 451 người/ km2. Có trên 50 thành phần dân tộc sinh sống. [48].


9
Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía Đơng Thành phố
Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung
Bộ, Nam Tây Ngun với tồn bộ vùng Đơng Nam Bộ bởi các tuyến giao
thông huyết mạch như quốc lộ 1A, quốc lộ 51 và tuyến đường sắt Thống
Nhất… Vì thế, Đồng Nai được coi như là “bản lề chiến lược” giữa bốn vùng
của các tỉnh phía Nam. Nó khơng chỉ có vai trị trọng yếu trong phát triển
kinh tế, mà cịn có ý nghĩa đặc biệt về kinh tế kết hợp quốc phịng - an ninh và
mơi trường của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
1.1.1.2. Địa hình
Tỉnh Đồng Nai có địa hình vùng đồng bằng và bình nguyên với những

núi sót rải rác, có xu hướng thấp dần theo hướng Bắc Nam. Có thể phân biệt
các dạng địa hình chính như sau:
Địa hình đồng bằng gồm 2 dạng chính: Các bậc thềm sơng có độ cao từ
5 đến 10m hoặc có nơi chỉ cao từ 2 đến 5m dọc theo các sông và tạo thành
từng dải hẹp có chiều rộng thay đổi từ vài chục mét đến vài km. Đất trên địa
hình này chủ yếu là các aluvi hiện đại.
Địa hình trũng trên trầm tích đầm lầy biển: là những vùng đất trũng trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai với độ cao dao động từ 0,3 đến 2m, có chỗ thấp hơn
mực nước biển, thường xuyên ngập triều, mạng lưới sơng rạch chằng chịt, có
rừng ngập mặn bao phủ. Vật liệu khơng đồng nhất, có nhiều sét và vật chất
hữu cơ lắng đọng.
Dạng địa đồi lượn sóng: Độ cao từ 20 đến 200m. Bao gồm các đồi
bazan, bề mặt địa hình rất phẳng, thoải, độ dốc từ 30 đến 80. Loại địa hình
này chiếm diện tích rất lớn so với các dạng địa hình khác bao trùm hầu hết
các khối bazan, phù sa cổ. Đất phân bổ trên địa hình này gồm nhóm đất đỏ
vàng và đất xám.
Dạng địa hình núi thấp: Bao gồm các núi sót rải rác và là phần cuối
cùng của dãy Trường Sơn với độ cao thay đổi từ 200 - 800m. Địa hình này


10
phân bố chủ yếu ở phía Bắc của tỉnh thuộc ranh giới giữa huyện Tân Phú với
tỉnh Lâm Đồng và một vài núi sót ở huyện Định Quán, Xuân Lộc. Tất cả các
núi này đều có độ cao (20-300), đá mẹ lộ thiên thành cụm với các đá chủ yếu
là granit, đá phiến sét.
Nhìn chung đất của Đồng Nai đều có địa hình tương đối bằng phẳng, có
82,09% đất có độ dốc < 8o, 92% đất có độ dốc <15 o , các đất có độ dốc >15 o
chiếm khoảng 8%. Trong đó:
Đất phù sa, đất gley và đất cát có địa hình bằng phẳng, nhiều nơi trũng
ngập nước quanh năm. Đất đen, nâu, xám hầu hết có độ dốc <8 o, đất đỏ hầu

hết <15o. Riêng đất tầng mỏng và đá bọt có độ dốc cao [42].
1.1.1.3. Các loại đất đai
Tỉnh Đồng Nai có quỹ đất phong phú và phì nhiêu. Có 10 nhóm đất
chính. Tuy nhiên theo nguồn gốc và chất lượng đất có thể chia thành 3 nhóm
chung sau:
Các loại đất hình thành trên đá bazan: Gồm đất đá bọt, đất đen, đất đỏ
có độ phì nhiêu cao, chiếm 39,1% diện tích tự nhiên (229.416 ha), phân bố ở
phía Bắc và Đơng Bắc của tỉnh. Các loại đất này thích hợp cho các cây cơng
nghiệp ngắn và dài ngày như: cao su, cà phê, tiêu…
Các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét: gồm đất
xám, nâu xám, loang lổ chiếm 41,9% diện tích tự nhiên (246.380 ha), phân bố
ở phí Nam, Đơng Nam của tỉnh (huyện Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Biên Hoà,
Long Thành, Nhơn Trạch). Các loại đất này thường có độ phì nhiêu kém,
thích hợp cho các loại cây ngắn ngày như đậu, đỗ…một số cây ăn trái và cây
công nghiệp dài ngày như cây điều… [42].
Các loại đất hình thành trên phù sa mới, gồm: đất phù sa, đất cát. Phân
bố chủ yếu ven các sông như sông Đồng Nai, La Ngà. Chất lượng đất tốt,
thích hợp với nhiều loại cây trồng như cây lương thực, hoa màu, rau quả…


11
1.1.1.4. Khí hậu
Khí hậu Đồng Nai là khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có hai
mùa tương phản nhau (mùa khô và mùa mưa). Mùa khô từ tháng 12 đến tháng
3 hoặc tháng 4 năm sau (khoảng 5-6 tháng), mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11
(khoảng 6 - 7 tháng). Khoảng kết thúc mùa mưa dao động từ đầu tháng 10 đến
tháng 12.
Nhiệt độ khơng khí trung bình hằng năm từ 25,7 - 26,7 oC. Mức độ
chênh nhau giữa các năm không lớn. Chênh lệch nhiệt độ cao nhất giữa tháng
nóng nhất và lạnh nhất là 4,2 oC.

Nhiệt độ trung bình mùa khơ từ 25,4 - 26,7 oC, chênh lệch giữa tháng
cao nhất và tháng thấp nhất là 4,8 oC. Nhiệt độ trung bình mùa mưa từ 26 26,8 oC. So với mùa khô, mức dao động không lớn, khoảng 0,8 oC .
Lượng mưa tương đối lớn và phân bố theo vùng và theo vụ. Địa bàn
huyện Tân Phú, phía bắc huyện Định Quán, huyện Vĩnh Cửu có lượng mưa
lớn nhất, trên 2.500mm/năm. Mùa khơ, tổng lượng mưa chỉ từ 210 - 370
mm chiếm 12 - 145 lượng mưa của năm. Mùa mưa, lượng mưa từ 1.500 2.400 mm, chiếm 86 - 88% lượng mưa của năm. Phân bố lượng mưa giảm
dần từ phía Bắc xuống phía Nam và từ giữa ra hai phía Đơng và Tây của
Đồng Nai [48].
1.1.2. Dân số và thành phần dân cư ở Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai là địa bàn có thành phần dân tộc cộng cư khá đông đảo.
Theo số liệu thống kê, có trên 30 dân tộc sinh sống ở đây qua nhiều thời kỳ
lịch sử. Trước năm 1698, người Việt và người Hoa đã đến vùng đất Biên Hòa
- Đồng Nai sinh sống nhưng không nhiều. Các cư dân được xem là bản địa là
Chơro, Mạ, Kơho, Xtiêng.
Từ sau khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh Chúa Nguyễn,
kinh lược đến Nam Bộ năm 1698, ông đã sắp đặt bộ máy quản lý hành chính
trên vùng đất này và chiêu mộ người dân từ miền Trung vào đây khai khẩn.


12
Dân số Đồng Nai có sự phát triển ngày càng tăng với mức độ đẩy mạnh chính
sách khai phá Nam Bộ của nhà Nguyễn, thể hiện qua việc tăng số làng, thôn,
ấp và nâng cấp các đơn vị hành chánh cấp tổng, huyện.
Từ năm 1698 đến nay, có 5 đợt nhập cư lớn của các nguồn di dân đến
Đồng Nai làm tăng dân số và thành phần dân cư. Đó là cuộc di dân từ các tỉnh
miền Trung (vùng Ngũ Quảng) đến Đồng Nai theo chính sách khai khẩn
của thời nhà Nguyễn; đợt mộ dân các tỉnh miền Bắc, miền Trung vào làm
phu tại các đồn điền cao su trên địa bàn Đồng Nai những thập niên 30, 40
thế kỷ XX; đợt di dân đồng bào Công giáo miền Bắc sau Hiệp định Giơ-nevơ năm 1954; đợt di dân từ các vùng thành thị ở miền Nam xây dựng vùng
kinh tế mới tại Đồng Nai sau năm 1975; các đợt đồng bào các tỉnh phía Bắc

theo kế hoạch Nhà nước đến Đồng Nai xây dựng cuộc sống mới những thập
niên cuối thế kỷ XX.
Ngoài ra các cuộc chuyển cư lớn trên, trong từng giai đoạn lịch sử, có
một số trường hợp một bộ phân dân cư cũng khá đông đảo tìm đến Đồng Nai
sinh sống với nhiều lý do, hồn cảnh khác nhau như tránh sự khủng bố của
chính quyền Mỹ - Diệm, hoặc chuyển theo chế độ chuyển đi của binh sĩ thời
Mỹ Diệm (1954-1975); và nhiều trường hợp những nhóm cộng đồng dân cư
chuyển đến tự do… Mỗi đợt di dân làm dân số ở Đồng Nai từng thời kỳ tăng
đột biến; số di dân lên con số trên hàng vạn người mỗi đợt.
Một số tóm lược sau trong các nguồn tư liệu cho thấy tình hình phát
triển dân số trên địa bàn Đồng Nai qua các mốc lịch sử: huyện Phước Long
(đất Biên Hịa xưa) có 5.532 người; năm 1808, trấn Biên Hịa, phủ Phước
Long có 10.600 người; năm 1832 có 20.841 người; năm 1863 tỉnh Biên Hịa
có 31.381 người; năm 1873 có 59.568 người; năm 1901 có 102.941 người,
năm 1923 có 132.165 người; năm 1946 có 202.570 người, năm 1948 có
221.000 người; năm 1956 có 335.700 người, năm 1963 có 487.178 người,
năm 1972 có 650.435 người; năm 1976 có 1.261 người; năm 1996 có


13
1.936.055 người và năm 2005 có 2.218.900 người. Tỉ lệ tính từ năm 2005 cho
thấy 30,8% dân số sống đơ thị, người Kinh chiếm 91,4% dân số; kế đến là
người Hoa và các dân tộc khác. Dân tộc Chơro, Mạ, Xtiêng, Kơho được xem
là các cư dân bản địa [42].
Dân số của tỉnh Đồng Nai năm 2011 là: 2.665.100 người. Hiện nay,
tỉnh Đồng Nai có các dân tộc sinh sống xếp theo dân số từ cao đến thấp là:
Việt (chiếm số đông đảo nhất), kế đến là người Hoa, Nùng, Tày, Chơro, Dao,
Mường, Khơme, Chăm, Mạ, Stiêng, Thái, Kơho, Sán Dìu, Thổ và một số dân
tộc khác như Hmơng, Giarai, Ngái, Êđê, Bana, Hrê, Raglai, Bru Vân kiều,
Giáy, Cơtu, GíeTriêng, Tà Ơi, Kháng, Xinh Mun, Chu ru, Lào, La Chí, La Ha,

Phù Lá, Mảng, Bố Y, Si la, Pu péo…nhưng số lượng không đáng kể [42].
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở ĐỒNG NAI

1.2.1. Quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Đồng Nai
Sự hình thành và phát triển từ lúc du nhập đến trước thời kỳ Pháp
thuộc:
Phật giáo được truyền vào Đồng Nai theo nhiều hướng khác nhau,
nhiều thời điểm khác nhau. Buổi đầu trực tiếp từ Ấn Độ, các nhà sư và Phật tử
theo thuyền buôn bằng đường biển đến các nước vùng Đông Nam Á và Viễn
Đơng truyền giáo. Những tài liệu khảo cổ tìm thấy ở Đồng Nai chứng tỏ ngay
thời kỳ trước và sau cơng ngun, văn hóa, tín ngưỡng tơn giáo ở Ấn Độ đã
có ảnh hưởng đến vùng đất này, trong đó có văn hóa, tín ngưỡng Phật giáo.
Ngay thời kỳ nhà Trần (1225 - 1400) với việc di dân vào phía Nam, tín
ngưỡng Phật giáo cũng được mang theo vào vùng đất mới. Khi nhà Minh xâm
chiếm nước ta, Lê Lợi khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược dựng lên
triều đại nhà Lê (1428 - 1527), phái thiền Trúc Lâm do các vua nhà Trần lập
cũng bị nghi kỵ. Vì vậy, một số hồng tộc nhà Trần và các thiền sư Trúc Lâm
đã phải lẩn trốn qua Chiêm Thành, Chân Lạp vào tận vùng lưu vực sông
Đồng Nai. Họ ẩn tu, che giấu tên tuổi, tơng tích nên tài liệu về sự truyền thừa


14
của phái Trúc Lâm ở Đồng Nai chưa xác định được rõ ràng. Chỉ biết rằng vào
khoảng cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII số người Việt vào sinh sống ở Đồng
Nai đã nhiều. Người Việt vào khai hoang lập ấp đến đâu thì tín ngưỡng Phật
giáo được loan truyền đến đó. Cho nên "buổi khai nguyên các chúa Nguyễn
thì tinh thần Phật giáo đã theo cuộc di dân nhiều đợt định cư trước đó lan rộng
rồi". Về sau các phái thiền Trung Quốc truyền vào đều chịu sự ảnh hưởng của
phái thiền Trúc Lâm đã có trước ở đây.
Năm 1630 khi cuộc nổi dậy của Lý Tự Thành nổ ra và sau đó nhà

Thanh đánh bại nhà Minh chiếm trọn Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc
không thần phục nhà Thanh đã bỏ nước mà đi. Trong số người di cư tị nạn và
xin vào lập nghiệp ở Đàng Trong có cả các nhà sư Phật giáo. Vào Biên Hòa Đồng Nai, các nhà sư Trung Quốc được Phật tử mời đến trụ trì các chùa do họ
đã tạo dựng trước đó, hoặc tự cất chùa, am để tu hành và hoằng hóa như: chùa
Long Thiền, chùa Bửu Phong, chùa Đại Giác... (thành phố Biên Hòa), chùa
Châu Thới (nay thuộc Bình Dương)...
Năm Kỷ Mùi (1679), các tướng lưu vong nhà Minh đem theo quân vào
Đàng Trong thần phục Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho họ quan chức và cho
họ khai khẩn vùng Mỹ Tho, Biên Hòa. Tổng binh Trần Thượng Xun và phó
tướng Trần An Bình vào Biên Hịa khai khẩn Cù Lao Phố, cịn gọi là Đại phố
Nơng Nại (theo phát âm của người Hoa, nay thuộc xã Hiệp Hòa - Biên Hòa);
chùa Thanh Lương là một trong các chùa được xây dựng trong thời gian này,
hiện nay còn long vị và tượng Trần Thượng Xuyên.
Khác với các tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam đã xuất bản trước đây,
những tài liệu và hiện vật mới phát hiện ở Đồng Nai gần đây cho thấy vào
khoảng năm 1692-1695, sau những biến cố chính trị và cuộc nổi loạn ở
Quảng Nam và Quy Nhơn vì bị nghi có liên quan, thiền sư Nguyên Thiều vị
tổ sơ của phái thiền Lâm Tế Đàng Trong và một số đệ tử lập chùa Kim Cang
ở ấp Bình Thảo, trấn Biên Hịa (nay là xã Tân Bình, Vĩnh Cửu). Việc phát


15
hiện tháp mộ của thiền sư Nguyên Thiều ở chùa Kim Cang và long vị hòa
thượng Minh Vật Nhất Tri ở chùa Kim Long đã mở đường cho việc sưu tầm
cơng tích hoằng hóa của thiền sư Ngun Thiều và các đệ tử của thiền sư ở
Biên Hòa - Đồng Nai.
Trong thời các chúa Nguyễn, ở Biên Hòa - Đồng Nai có hai ngơi chùa
được sắc tứ là chùa Vạn An ở thôn Phước An (nay thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu)
và chùa Hộ Quốc ở thôn Đắc Phước, huyện Phước Chánh (nay là Tân Vạn Biên Hịa). Ngồi phái thiền Lâm Tế, ở Biên Hòa - Đồng Nai còn có sự truyền
thừa của phái thiền Tào Động. Các tài liệu Phật giáo Việt Nam trước đây đều

nói "Tơng Tào Động do sư (hòa thượng) Thạch Liêm truyền vào Việt Nam về
phái xuất gia khơng thấy nói đến người thừa kế". Nhưng ở Biên Hòa đã xác
định được tháp mộ của thiền sư Pháp Thông Thiện Hỷ mới biết thiền sư thuộc
phái Tào Động thế hệ 36, người khai sơn chùa Long Ẩn vào năm Ất Sửu (có
thể là năm 1733 hay 1793); chùa thuộc làng Tân Lại, huyện Phước Long, dinh
Trấn Biên (nay là phường Bửu Long, Biên Hòa).
Trong thời kỳ Nho giáo độc tôn dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX), "chính
sách của triều Nguyễn nói chung hạn chế sự phát triển của Phật giáo. Triều
đình tăng cường quản lý số sư tăng, bắt họ tham gia công tác xã hội, chủ
trương thu hẹp ảnh hưởng của nhà chùa đối với người dân, quy định ngặt
nghèo nhằm giảm bớt việc xây chùa, tô tượng, đúc chuông và người theo
đạo Phật" [30, tr.378]. Triều đình cho rằng để Phật giáo phát triển sẽ làm
hại cho lễ giáo phong kiến, ảnh hưởng đến việc thực hiện các giáo điều
Nho giáo. Nhưng trong lịch sử phát triển của mình, Phật giáo ở Biên Hịa Đồng Nai thời này khơng những khơng bị hạn chế mà cịn phát triển. Các
ngơi chùa cổ kính danh tiếng ở Biên Hòa - Đồng Nai đều được xây dựng
trong thời Chúa Nguyễn. Nhiều nhà sư tu hành, hoằng hóa ở Biên Hịa Đồng Nai trở thành các nhà sư tiêu biểu của Phật giáo Đàng Trong. Đó là
vì Phật giáo với tính chất từ bi, bình đẳng, nêu cao cứu khổ cứu nạn cho


16
con người nên đã được người Biên Hòa - Đồng Nai tiếp thu một cách sâu
rộng, Phật giáo đã trở thành một mảng văn hóa đậm nét trong văn hóa truyền
thống ở địa phương.
Phật giáo Đồng Nai thời kỳ Pháp thuộc:
Đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản Pháp quyết định thơn tính Việt Nam.
Tháng 9-1858, Pháp nổ súng ở Đà Nẵng mở đầu thời kỳ xâm lược Việt Nam.
Tháng 12-1861, Pháp chiếm Biên Hòa. Tháng 6-1862, Pháp buộc triều đình
Huế phải nhượng 3 tỉnh miền Đơng Nam Bộ (Biên Hòa - Gia Định - Định
Tường) cho Pháp làm thuộc địa. Với truyền thống yêu nước gắn bó với dân
tộc, tăng, ni, Phật tử Đồng Nai tích cực tham gia cùng với nhân dân đứng lên

chống Pháp xâm lược. Khi Bình Tây Đại ngun sối Trương Định hiệu triệu
nhân dân đứng lên chống Pháp ở Gị Cơng, tăng, ni, Phật tử Đồng Nai đã
hưởng ứng và tham gia chống Pháp trong đạo qn của Đỗ Trình Thoại ở
Biên Hịa và nhiều đơn vị nghĩa quân khác.
Tháng 8-1883, Pháp chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Tháng 6-1884,
Triều đình nhà Nguyễn phải ký hiệp ước thừa nhận sự thống trị của Pháp tại
Việt Nam. Nước Việt Nam từ độc lập thành nô lệ, trở thành thuộc địa nửa
phong kiến. Người dân mất nước là mất độc lập tự do, mất quyền sống, quyền
sáng tạo mọi giá trị. Người Phật tử tu tại gia hay xuất gia, trước hết họ là
người dân của nước Việt Nam, họ cũng có nỗi đau chung của dân tộc. Pháp đã
tạo điều kiện cho Công giáo phát triển và âm mưu dùng tôn giáo này thay thế
các tơn giáo bản địa. Trong tình hình như vậy, Phật giáo có nguy cơ bị đẩy lùi
và mất chỗ đứng.
Thời cuộc đặt ra cho Phật giáo Việt Nam hai vấn đề phải giải quyết: đó
là ứng phó với hiện trạng chính trị - xã hội đất nước như thế nào? Và sự phát
triển tiếp theo của Phật giáo ra sao để đối phó thời cuộc? Trong hàng ngũ Phật
giáo lúc bấy giờ khơng có quan điểm thống nhất, khơng có cùng một suy
nghĩ, có người thờ ơ với thời cuộc, nhưng các vị cao tăng và Phật tử có lòng


17
yêu nước, thương người thấy mình phải quan tâm đến tình hình đất nước, phải
thay đổi quan niệm về giáo lý nhà Phật để thích ứng với dân tộc và thời đại.
Cũng như Phật giáo trong cả nước, Phật giáo Đồng Nai trong giai đoạn này
từng bước tìm cách chấn hưng, nhập thế để góp phần vào sự nghiệp chung
của dân tộc và tạo chỗ đứng trước thời cuộc.
Các tăng già tiền bối tìm cách duy trì mối đạo, kêu gọi và tổ chức duy trì
tơng lâm quy chế, tham gia hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học và xuất bản tạp chí
"Từ bi âm". Người trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp là giáo thọ Thiện Tâm
ở chùa Đại Giác đã cổ vũ phong trào chấn hưng Phật giáo ở Đồng Nai.

Năm 1930 - 1931, cao trào đấu tranh của quần chúng nhân dân chống
ách thống trị của thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đơng
Dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nội bộ Phật giáo. Tăng, ni, Phật tử ở
nhiều nơi dùng chùa làm nơi học tập, in ấn tài liệu và nuôi chứa cán bộ cách
mạng. Từ năm 1942 - 1945, nhiều chùa bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh,
vận động ủng hộ cách mạng. Tháng 8-1945, hòa thượng Thích Huệ Thành
cùng với các nhà sư yêu nước hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban khởi nghĩa
bí mật vận động tăng, ni, Phật tử tham gia giành chính quyền. Cách mạng
tháng Tám 1945 ở Biên Hịa thành cơng có sự đóng góp của đơng đảo tăng,
ni, Phật tử.
Phật giáo Đồng Nai trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ cứu nước:
Sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Nam Bộ một lần nữa lại đi đầu
trong cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai. Tổ chức
Phật giáo có sự phân hóa mới. Nhiều tăng, ni, Phật tử hồi cư về vùng tạm
chiếm, một số làm việc trong các cơ quan kháng chiến rút về các căn cứ, các
chiến khu. Được sự giúp đỡ của Mặt trận Việt Minh tỉnh Biên Hòa, ngày 6 - 9
- 1945, hịa thượng Thích Huệ Thành đứng ra triệu tập Đại hội Phật giáo Biên
Hòa, thành lập Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh, do hòa thượng làm chủ tịch, kiêm


18
ủy viên Mặt trận Việt Minh tỉnh. Trụ sở của Hội đặt tại chùa Long Thiền
(Biên Hịa). Từ đó, các tổ chức cơ sở của Hội được thành lập ở các quận,
huyện và xã trong tỉnh.
Sau khi thành lập, các tổ chức Phật giáo cứu quốc từ tỉnh đến cơ sở đã
vận động tăng, ni, Phật tử tích cực tham gia ủng hộ kháng chiến, tham gia bầu
cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tham gia hưởng
ứng "Tuần lễ vàng", "Tuần lễ kim khí". Nhiều chùa đã ủng hộ lư đồng, chân
đèn bằng đồng, đại hồng chung... tiêu biểu như chùa Phước Nhĩ xã Phước

Thiền (Long Thành) đã hiến hai đại hồng chung, mỗi cái nặng gần một tạ gởi
vào chiến khu để đúc võ khí.
Trong thời gian kháng chiến, trong vùng tự do mọi hoạt động đều
hướng về mục tiêu kháng chiến và sản xuất để phục vụ kháng chiến. Phần lớn
tăng, ni trong vùng tự do đều trực tiếp lao động trồng lúa, tỉa bắp, tiếp tế, liên
lạc hoặc làm công tác xã hội, giáo dục... Tại các vùng tạm chiếm, hoạt động
của Phật tử diễn ra sôi động hơn; tăng, ni, Phật tử có ý thức rất rõ về cuộc
kháng chiến chống Pháp đang diễn ra trên mọi miền đất nước và tâm hồn họ
vẫn hướng về cuộc kháng chiến đó. Bằng mọi cách, tăng, ni, Phật tử vẫn tìm
cách liên lạc, ủng hộ và một số gia nhập kháng chiến. Sau khi hồi cư, nhiều
thanh niên Phật tử lại bỏ nhà đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tìm ra
chiến khu... Những người khác ở lại vùng Pháp kiểm soát vẫn âm thầm hoạt
động cho kháng chiến. Một số tăng, ni bí mật hoạt động mà nịng cốt là nhà
sư đảng viên cộng sản như nhà sư Thích Thiện Thuận.
Cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra ngày càng quyết liệt, cũng là lúc
các tổ chức Phật giáo cứu quốc được thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố,
cần phải có sự phối hợp chỉ huy thống nhất chung. Năm 1947, các vị cao tăng
và Phật tử trong tổ chức Phật giáo cứu quốc các tỉnh, thành phố ra chiến khu
Đồng Tháp Mười thành lập ban chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam bộ. Hịa
thượng Thích Huệ Thành, Chủ tịch Phật giáo cứu quốc tỉnh Biên Hòa làm phó


19
hội trưởng và được đề cử làm ủy viên Mặt trận Liên Việt Nam bộ.
Sau khi ban chấp hành Phật giáo cứu quốc Nam bộ được thành lập, một
số cao tăng ở lại chiến khu để tập hợp tăng, ni, Phật tử trực tiếp tham gia
kháng chiến, một số cao tăng về vùng tạm chiếm bí mật tổ chức đấu tranh
chống thực dân Pháp. Để có một tổ chức hợp pháp đứng ra tập hợp tăng, ni,
Phật tử hướng về cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, năm 1952, Phật
giáo cứu quốc ở Sài Gòn - Chợ Lớn phối hợp với Phật giáo cứu quốc Biên

Hòa thành lập và mở Trường Phật học. Giáo hội Lục Hòa tăng Việt Nam xuất
bản tờ Phật học tạp chí và mở trường Phật học. Hịa thượng Thích Huệ Thành
ở Biên Hịa được cử làm trưởng ban hoằng pháp. Năm 1953, ông củng cố và
mở rộng tổ chức của Giáo hội Lục Hòa tăng.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta sắp giành được
thắng lợi, để chuẩn bị thay chân Pháp, đế quốc Mỹ đã đưa gần một triệu đồng
bào miền Bắc di cư vào Nam, trong đó có hàng chục vạn tín đồ Phật giáo. Đế
quốc Mỹ đã lơi kéo lợi dụng một số người làm chỗ dựa chính trị để chúng lèo
lái phong trào Phật giáo di cư. Mỹ dàn dựng đưa "Tổng hội Phật giáo Việt
Nam" tham gia "Liên hữu Phật giáo thế giới", lợi dụng mối quan hệ quốc tế
này, Mỹ đã gián tiếp hay trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho tăng, ni du học,
từ năm 1955. Chúng đã trực tiếp cấp hàng loạt học bổng cho tăng, ni học
trong nước và nước ngoài để đào tạo lực lượng nòng cốt cho các tổ, các tu
viện, nhà trường... do Mỹ đài thọ xây cất.
Đáng lưu ý, trong giai đoạn này, nhiều hệ phái không tham gia "Tổng
hội Phật giáo Việt Nam" như Giáo hội Lục Hòa tăng, Giáo hội Nguyên thủy,
phái Nam tông Theravada. Ngược lại, nhiều phái đã tham gia Phật giáo cứu
quốc và phong trào đấu tranh chung của các đô thị. Các phái không tham gia
"Tổng hội Phật giáo Việt Nam" chiếm ưu thế ở Đồng Nai như Giáo hội Lục
Hòa tăng, Giáo hội Lục Hòa Phật tử, ni giới khất sĩ... Các tổ chức và hệ phái


20
Phật giáo bị đế quốc Mỹ thao túng ít có cơ sở ở Đồng Nai.
Năm 1963, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của phong trào Phật giáo Việt
Nam. Trong mùa Phật đản, Ngơ Đình Diệm ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo đã
gây xúc động cả giới Phật giáo, tiếp đến là nhiều cuộc bao vây thảm sát các
tín đồ Phật giáo tại Đài phát thanh Huế. Trước tình thế đó, "Tổng hội Phật
giáo Việt Nam" đã phát động phong trào đấu tranh chống Diệm địi các tơn
giáo bình đẳng.

Đối với Phật giáo, đây là một phong trào lớn có tính chất tồn miền,
xuất phát từ Huế sau đó lan ra các tỉnh miền Nam, đỉnh cao là cuộc tự thiêu
của hịa thượng Thích Quảng Đức (11-6-1963), song giai đoạn này vẫn mang
nhiều sắc thái tôn giáo. Từ tháng 7-1963 trở đi phong trào Phật giáo, đã phối
hợp được các yêu sách chung của các tầng lớp nhân dân các đơ thị, chống chế
độ độc tài phát xít gia đình trị Ngơ Đình Diệm, địi tự do dân chủ với quy mơ
ngày càng rộng lớn.
Các phong trào đó lan rộng rất nhanh trong công nhân lao động, sinh
viên, học sinh... kết hợp các hình thức đấu tranh địi dân sinh, dân chủ với các
hình thức bạo lực xuống đường, đốt xe Mỹ, tấn công vào các đầu não của Mỹ
- ngụy, đồng thời kết hợp với phong trào của Phật giáo chống kỳ thị tơn giáo,
địi thực hiện bản thơng báo chung giữa Phật giáo với chế độ Sài Gòn khiến
đế quốc Mỹ lâm vào tình thế khơng thể duy trì chế độ Ngơ Đình Diệm, buộc
chúng phải lật đổ Diệm - Nhu.
Tháng 11-1963, Diệm - Nhu bị ám sát, Mỹ tìm mọi cách nắm lực lượng
Phật giáo, tạo thêm chỗ dựa chính trị cho mưu đồ xâm lược của chúng. Tháng
01-1964, chúng đã chấp nhận cho các hệ phái Phật giáo gồm 11 tập đoàn
trong "Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo" tham dự đại hội lập ra "Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thống nhất" hình thành tổ chức từ trung ương đến địa
phương. Mỹ cũng chọn sẵn một số con bài đưa vào tổ chức để nắm và lôi kéo


21
Phật giáo đi theo con đường có lợi cho Mỹ - ngụy.
Đối với Phật giáo, đây là cơ hội tốt để phát huy thắng lợi vừa mới giành
được. Tuy nhiên, trong nội bộ Phật giáo lúc bấy giờ lại có nhiều xu hướng
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: thống nhất được với nhau ở mục tiêu
chung là chống Mỹ - ngụy kỳ thị Phật giáo nhằm đưa Phật giáo lên một bước
phát triển mới của phong trào chấn hưng, nhưng từng nhóm, từng hệ phái,
từng miền khác nhau, lại có những khuynh hướng khác nhau.

"Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất" đã tăng cường hoạt động
trên nhiều lĩnh vực ở khắp các địa phương trong vùng địch kiểm sốt.
Về tơn giáo, Giáo hội đã đẩy mạnh hoạt động theo hướng hiện đại hóa
Phật giáo, tăng cường thuyết giảng, mở các Phật học viện đào tạo tăng tài, đẩy
mạnh xây dựng nơi thờ tự và các hoạt động từ thiện xã hội. Các chùa được
xây dựng ở Đồng Nai trong giai đoạn này đều được trang trí màu sắc sặc sỡ,
đều có giảng đường để thuyết giảng, các trường Bồ đề và các phòng khám
bệnh phát thuốc được xây dựng ở Biên Hòa, thị xã Long Khánh, Bà Rịa Vũng Tàu...
Về chính trị, từ năm 1964 Giáo hội tiếp tục chủ trương phát động
phong trào đấu tranh chống độc tài, chống phục hồi chế độ Diệm khơng có
Diệm, hưởng ứng và kết hợp chặt chẽ với các khẩu hiệu đấu tranh của các
tầng lớp nhân dân trong phong trào cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó,
Mỹ - ngụy sử dụng nhóm tay sai đứng đầu là Thích Tâm Châu, công khai ra
mặt chống cộng, chống lại cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Bọn
này tìm mọi cách kiềm chế và tiếp tay cho Mỹ - ngụy đàn áp đẫm máu phong
trào học sinh, sinh viên và Phật giáo, công khai phá vỡ và loại trừ các tổ chức
cơ sở và ảnh hưởng của cách mạng trong Phật giáo. Nhưng hầu hết các hệ
phái và tông môn ở Đồng Nai không tham gia "Phật giáo Việt Nam thống
nhất" và tổ chức Phật giáo Việt Nam thống nhất ở Biên Hịa do nhà sư u
nước Thích Diệu Tâm từ Phú Yên về làm chánh đại diện. Cũng trong thời


22
gian này, nhà sư yêu nước Thích Thiện Hào, một trong các nhà sư lãnh đạo
Giáo hội Lục Hòa tăng và Lục Hòa Phật tử sau hợp nhất và đổi thành Phật
giáo cổ truyền Việt Nam có nhiều cơ sở ở Đồng Nai - năm 1964 được bầu làm
ủy viên đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam và
năm 1968 được cử làm ủy viên Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là nguồn cổ vũ lớn cho tăng, ni, Phật tử
Đồng Nai trên con đường "Đạo pháp dân tộc".

Phong trào đấu tranh của Phật giáo ở Biên Hòa kết hợp rất chặt chẽ với
phong trào đấu tranh của quần chúng và Phật tử ở Sài Gòn, như phong trào
cứu đói, cầu nguyện cho hịa bình, tập hợp đông Phật tử.
Cụ thể như lễ Vu lan 1971 ở chùa Định Quang (An Hảo) do nhà sư
Thích Thiện Hoa chủ trì. Trong đó có buổi nói chuyện của sinh viên Phật tử
Thiện Phước (07-8-1971) thu hút gần 3000 Phật tử, vạch trần "Việt Nam hóa
chiến tranh" là tiếp tục gây tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam.
Hoạt động phá hoại phong trào Phật giáo, gây cản trở con đường "Đạo
pháp dân tộc" của nhóm Thích Tâm Châu đã gây nhiều công phẫn trong đông
đảo tăng, ni, Phật tử, bọn chúng ngày càng mất uy tín và bị cơ lập. Từ đó về
sau, các phong trào Phật giáo phản ánh rõ nét cuộc đấu tranh quyết liệt trong
nội bộ Phật giáo, giữa một bên (đa số) gắn bó với phong trào cách mạng miền
Nam với nhóm Thích Tâm Châu cố lái phong trào Phật giáo theo hướng có lợi
cho Mỹ - ngụy. Chúng đều bị thất bại trước sự nghiệp chính nghĩa của nhân
dân ta và trước sức mạnh của truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc của
Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo Đồng Nai từ 30-4-1975 đến nay:
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tình hình Phật
giáo có nhiều biến đổi. Tăng, ni, Phật tử các nơi, nhất là ở miền Trung về
Đồng Nai làm ăn sinh sống ngày một nhiều, tập trung chủ yếu dọc quốc lộ 51
Biên Hòa - Vũng Tàu. Các ngơi chùa đã có từ trước ở đây đều được mở
mang, xây dựng lại, nhiều chùa, viện, tịnh xá, tịnh thất mới được xây dựng


23
khang trang, hiện đại tạo nên một vùng Phật giáo đông đảo, sầm uất.
Tuyệt đại đa số tăng, ni, Phật tử tự hào về sự đóng góp của mình vào
thắng lợi chung của dân tộc, phấn khởi và tin tưởng vào công cuộc xây dựng
lại quê hương đất nước sau bao năm chiến tranh tàn phá. Đất nước đã độc lập
thống nhất thì Phật giáo Việt Nam cũng phải thống nhất trong cả nước. Đó là

nguyện vọng tha thiết của mọi tín đồ Phật giáo Việt Nam. Nhưng một số phần
tử cực đoan chống đối vẫn còn nắm quyền hành khống chế Viện Hóa đạo của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Ấn Quang) ngăn cản việc thống nhất
Phật giáo Việt Nam.
Ngày 12-02-1980, đơng đảo hàng giáo phẩm có uy tín ở cả 3 miền Bắc,
Trung, Nam đã tập hợp lại thành lập "Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt
Nam", tiêu biểu cho hàng ngũ lãnh đạo các tổ chức và hệ phái Phật giáo trong
cả nước để vận động thống nhất Phật giáo đã được đông đảo hàng giáo phẩm,
tăng, ni, Phật tử hưởng ứng.
Ngày 04-11-1981, lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, hội
nghị thống nhất Phật giáo cả nước được tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội)
thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thơng qua Hiến chương và chương
trình hoạt động của Giáo hội. Hội nghị đã suy tôn các vị cao tăng vào "Hội
đồng chứng minh" và suy cử "Hội đồng trị sự" là hai cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Trung ương Giáo hội.
Tại Hội nghị lịch sử này, hai vị cao tăng tiêu biểu cho Phật giáo Đồng
Nai: hịa thượng Thích Huệ Thành được suy tơn làm phó pháp chủ Hội đồng
chứng minh và hịa thượng Thích Thiện Khải được suy tơn làm ủy viên Hội
đồng. Sự tín nhiệm này của hội nghị đã khẳng định vai trò, vị trí của Phật giáo
Đồng Nai trong phong trào Phật giáo chung của cả nước và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đoàn kết thống nhất Phật giáo trong tỉnh.
Việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất trong cả
nước đã mở ra một trang sử mới, một hướng phát triển mới trong lịch sử


24
Phật giáo Việt Nam để phát huy cao hơn nữa truyền thống gắn bó giữa đạo
Phật với dân tộc trong thời đại mới theo phương châm "Đạo pháp - Dân
tộc - Chủ nghĩa xã hội".
Sau Đại hội thống nhất Phật giáo trong cả nước năm 1981, Đồng Nai đã

tổ chức Đại hội thống nhất Phật giáo trong tỉnh, thành lập Giáo hội Phật giáo
tỉnh Đồng Nai trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại hội đã suy cử các
thành viên trong Ban Trị sự Phật giáo tỉnh gồm 25 thành viên, đại diện tiêu
biểu cho các tông môn, hệ phái Phật giáo trong tỉnh. Ban Trị sự có 1 trưởng
ban, 2 phó ban và 12 ủy viên thường trực, đồng thời là trưởng tiểu ban các
ngành hoạt động của Giáo hội. Các huyện và thành phố Biên Hịa có Ban đại
diện Phật giáo huyện và thành phố, do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh bổ nhiệm để
giúp Ban Trị sự thực hiện các phật sự ở địa phương.
Từ ngày Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời đến nay Giáo hội đã làm
được nhiều việc mà từ trước kia trong lịch sử Phật giáo Việt Nam chưa bao
giờ làm được. Đó là thống nhất Phật giáo trong cả nước để duy trì chánh
pháp, góp phần tích cực cùng tồn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hịa bình
an lạc cho mọi người. Về Phật sự, Giáo hội đã tổ chức biên dịch xuất bản Đại
tạng kinh bằng tiếng Việt, biên soạn xuất bản nhiều cơng trình nghiên cứu lịch
sử Phật giáo Việt Nam, làm rõ để duy trì và phát huy một cách độc đáo hơn
nữa "cái chất Việt Nam" ở trong đạo Phật Việt Nam, trong đó có sự đóng góp
đáng trân trọng của hịa thượng Thích Thanh Từ, một nhà sư phái Thiền Trúc
Lâm tiêu biểu ở Đồng Nai; xây dựng Viện nghiên cứu Phật học, mở hai
Trường cao cấp Phật học ở các tỉnh và thành phố trong cả nước; tổ chức giới
đàn truyền giới cho đệ tử được tổ chức với quy mô lớn, trọng thể trong phạm
vi tỉnh, thành phố hoặc một vùng. Nhiều di tích lịch sử Phật giáo bị hủy hoại
do thời gian hoặc bị tàn phá do chiến tranh được trùng tu, xây dựng lại. Từ
ngày thống nhất Phật giáo đến nay, ở Đồng Nai đã mở được trường cơ bản
Phật học, là tỉnh có nhiều tăng, ni theo học Trường cao cấp Phật học và du


25
học ở nước ngoài nhiều nhất trong cả nước, đã 4 lần tổ chức Đại giới đàn cho
trên 700 tăng, ni, xây dựng mới, trùng tu hàng trăm chùa, am, tự viện... Một
số chùa, tự viện được xây dựng mới hoặc xây dựng lại to đẹp, hiện đại mà

trong lịch sử Phật giáo Đồng Nai chưa bao giờ làm được.
1.2.2. Một số nét khái quát Phật giáo ở Đồng Nai
Đồng Nai là địa bàn Phật giáo đã được truyền vào từ xa xưa trong lịch
sử và đã từng là một trong những cái nôi của Phật giáo Đàng trong. Trong
thời các chúa, các vua nhà Nguyễn, có ảnh hưởng khơng những đối với Phật
giáo ở Nam Bộ mà còn ảnh hưởng cả đến Phật giáo ở miền Trung. Nhiều nhà
sư nối tiếp ở Đàng Trong đã từng tu hành, hoằng hóa ở Đồng Nai và có nhiều
đệ tử nổi danh khác đi hoằng hóa ở các nơi. Đồng Nai có nhiều ngơi chùa cổ
kính, trong đó có ba ngơi đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa là chùa
Long Thiền, chùa Đại Giác, chùa Bửu Phong.
Từ sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, Phật tử ở các nơi, nhất là
ở miền Trung về Đồng Nai làm ăn sinh sống, tăng, ni ở các nơi về Đồng Nai
tu hành làm cho Phật giáo Đồng Nai có bước phát triển mới. Nhiều chùa,
thiền viện, tịnh xá được xây dựng mới khang trang và hiện đại, được kiến trúc
và trang trí khác nhau theo từng hệ phái càng tơ điểm thêm cho sự phong phú,
nhiều màu sắc của Phật giáo Đồng Nai.
Phật giáo Đồng Nai có nhiều tơng mơn, hệ phái cả Bắc tông và Nam
tông, bao gồm: Cổ truyền, Phật giáo Việt Nam thống nhất, Thiền tông, Khất
sĩ, Tịnh Độ tông, Nam tông Theravada, Phật giáo Khơ-me... Nhưng Thiền
tông nhập thế hịa nhập với tín ngưỡng dân gian truyền thống là chủ yếu, có
ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian, khơng chỉ có ảnh hưởng trong Phật tử mà
cịn có ảnh hưởng cả trong những người theo đạo thờ cúng ông bà tổ tiên...
theo quan niệm Thần, Phật ở bên cạnh con người để "hộ quốc an dân".
Hoạt động Phật giáo vì thế mà cũng rất đa dạng, phong phú và mang
tính đặc thù hịa hợp nhiều truyền thống hệ phái khác nhau. Hoạt động Phật


×