Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Thực thi chính sách hỗ trợ tài chính đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh vĩnh phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.71 KB, 122 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn xưa và nay ln chiếm vị trí quan
trọng, là gốc của sự sinh tồn của con người, là nền tảng của phát triển kinh tế xã hội. C.Mác đã từng nhấn mạnh sản xuất nông nghiệp là “ nền tảng của mọi
xã hội”, “là tiền đề đầu tiên của lịch sử”. Vị trí quan trọng của “tam nông”
được quyết định bởi địa vị của giai cấp nông dân trong cách mạng giành
chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội và địa vị của nông nghiệp đối với an
ninh lương thực của quốc gia, sự ổn định xã hội nông thôn và sự phát triển
bền vững nền kinh tế quốc dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: nước ta là
một nước nông nghiệp. Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói
chung, phải lấy phát triển nơng nghiệp làm gốc, làm chính.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và q trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá đất nước theo định hướng XHCN cho thấy vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững,
ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phịng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hố dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn càng trở lên cấp bách Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta luôn xác định là mặt trận hàng đầu.
Các văn kiện từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến Đại hội XI của Đảng
(2011) và nhiều chỉ thị, nghị quyết Hội nghị Trung ương đều thể hiện rõ chủ
trương chiến lược nhất quán đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, từng
bước xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển tồn diện kinh tế
nơng thơn và xây dựng nông thôn mới, khẳng định thực hiện công nghiệp hố,
hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn và xây dựng nông thôn mới, đưa nông
nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả
trước mắt và lâu dài.
Đại hội X của Đảng (2006) nhấn mạnh: "Hiện nay và trong nhiều năm tới,
vấn đề nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có tầm chiến lược đặc biệt quan



2
trọng"; "Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và nông thôn ,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn" [19, tr.14,
190-191]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã tiếp tục
nhấn mạnh: "Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệụ quả, bền
vững" trên cơ sở "Phát huy những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với
giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn" [21, tr.16,195].
Qua hơn 25 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta
đã có bước phát triển khá tồn diện và to lớn. Nơng nghiệp phát triển ổn định
và có xu hướng tái sản xuất theo chiều sâu, góp phần quan trọng vào sự ổn
định của đất nước, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành
tựu, khá tồn diện và to lớn. Nơng nghiệp tiếp tục phát triển với tốc
độ khá cao, theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng xuất,
chất lượng hiệu quả, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc
gia, một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường
thế giới [20, tr.121].
“Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có bước
phát triển, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên… bảo vệ tài nguyên,
môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được trải
thiện” [20, tr.17]. Tuy nhiên, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đang đứng
trước những khó khăn, thách thức rất lớn. Sự phát triển của nơng nghiệp có
dấu hiệu tăng trưởng chậm lại và thiếu tính bền vững, đời sống của nơng
dân nhìn chung cịn thấp, ở nhiều vùng chậm được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo
còn cao, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. "Đầu tư từ ngân sách Nhà
nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thơn cịn
thấp chưa đáp ứng u cầu phát triển" [20, tr.15, 123]. “Chế độ phân phối
còn nhiều bất hợp lý” [21, tr.17].



3
Việc huy động sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả.
Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào yếu tố phát triển theo chiều
rộng, chậm phát triển theo chiều sâu; tài nguyên, đất đai chưa được
quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả nhưng chưa có biện
pháp hữu hiệu ngăn chặn kịp thời [21, tr.93].
"Đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư cịn thấp, cịn
thất thốt, lãng phí nhất là nguồn vốn đầu từ của nhà nước [18, tr.17]. Do vậy,
ngăn chặn xu hướng nông nghiệp phát triển thiếu tính bền vững chiều hướng
tụt hậu của nơng thơn, tạo bước đột phá trong xây dựng nông thôn mới, giải
quyết đúng đắn về nông dân là trung tâm của hệ thống chính sách kinh tế - xã
hội trong giai đoạn này.
Tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tái lập (1997) đến nay đã phấn đấu đạt mục tiêu
tăng trưởng kinh tế theo hướng ổn định, bền vững; không ngừng nâng cao quy
mô, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, khai thác có hiệu quả các
nguồn lực cho đầu tư phát triển; đảm bảo các điều kiện để hội nhập kinh tế
ngày càng sâu, có hiệu quả hơn ở trong nước và quốc tế; phát huy vai trị, vị
trí là động lực, là hạt nhân thúc đẩy phát triển trong vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ, vùng thủ đô Hà Nội.
Kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, quy mô
không ngừng được nâng lên, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt
17,4%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - lâm
nghiệp thuỷ sản, Giá trị công nghiệp - xây dựng và dịch vụ chiếm
82,26%, nông nghiệp - thuỷ sản chiếm 13,74%... GDP bình quân đầu
người năm 1997 chỉ đạt 144USD, năm 2010 đạt 1630 USD [47, tr.12].
Lĩnh vực nông nghiệp phát triển nông thôn được quan tâm đặc biệt Tỉnh
uỷ - HĐND - UBND tỉnh đã xây dựng và ban hành nhiều cơ chế chính sách
hỗ trợ nơng dân, huy động các nguồn lực đầu tư cho khu vực nông nghiệp,



4
nơng thơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xố đói giảm nghèo, xây
dựng nơng thơn mới.
Có thể khẳng định một trong những yếu tố quan trọng để tỉnh Vĩnh Phúc
đạt được những thành tựu trong những năm qua là do sự tác động của các yếu
tố chính trị, chính sách. Các cấp ủy Đảng chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã cụ
thể hoá các nghị quyết, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn của địa phương, phát huy dân chủ, tính chủ động,
sáng tạo và tơn trọng sự tham gia của nhân dân. Tuy nhiên, quá trình phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, đặc biệt là phát triển nơng nghiệp, nơng dân,
nơng thơn nói riêng của tỉnh Vĩnh Phúc đến nay còn bộc lộ những hạn chế,
phải khắc phục. Như ngân sách đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nơng dân,
nơng thơn cịn thấp so với thực tế, thực hiện cơ chế hỗ trợ tài chính dàn trải;
ban hành nhiều cơ chế hỗ trợ trong khi nguồn lực hỗ trợ có hạn; ứng dụng tiến
bộ khoa học cơng nghệ trong nơng nghiệp cịn ít, chế độ đền bù khi nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp để làm khu công nghiệp, đô thị, chuyển dịch cơ cấu
lao động, việc làm trong nơng nghiệp, nơng dân cịn chồng chéo, hiệu quả
chưa cao, một số nơi nảy sinh bức xúc của nhân dân trong việc thực hiện cơ
chế hỗ trợ.
Vì vậy, tơi chọn vấn đề: "Thực thi chính sách hỗ trợ tài chính đối với
nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay"
làm đề tài Luận văn Thạc sĩ chun ngành Chính trị học của mình
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn là vấn đề sống còn của cách
mạng nước ta, là lĩnh vực tồn tại hàng ngàn năm lịch sử trường tồn cùng dân
tộc. Ở nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về nơng nghiệp, nơng dân,
nơng thơn ở góc độ khác nhau liên quan đến đề tài như:
- Nguyễn Thế Nhã và Hồng Văn Hoan: Vai trị của Nhà nước trong

phát triển nông nghiệp ở Thái Lan, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995;


5
- Nguyễn Điền - Vũ Hạnh - Nguyễn Thu Hằng: Nông nghiệp thế giới
bước vào thế kỷ XXI (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998;
- Lê Vinh Danh: Chính sách cơng của Hoa Kỳ giai đoạn 1930 - 2001,
Nxb Thống kê, Hà nội, 2001;
- Nguyễn Đăng Thành (chủ nhiệm): Báo cáo Tổng hợp kết quả đề tài
cấp bộ: Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính
sách ở Việt Nam, Hà Nội, 2002;
- Nguyễn Sinh Cúc: Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nxb Thống kê, 2003;
- Viện Chính trị học: Lựa chọn công cộng, một cách tiếp cận nghiên
cứu chính sách cơng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2006;
- Đặng Kim Sơn: Kinh nghiệm quốc tế về nơng nghiệp, nơng thơn, nơng
dân trong q trình cơng nghiệp hố, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008;
- Đỗ Tiến Sâm: Vấn đề Tam nông ở Trung Quốc thực trạng và giải
pháp, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2008;
- Đặng Kim Sơn: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hơm nay
và mai sau. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008;
- Đặng Đức Thành (chủ biên): Nông dân dựa vào đâu? Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2009;
- Phùng Hữu Phú, TS. Nguyễn Viết Thông; TS. Bùi Văn Hưng (Biên
soạn): Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thơn- Kinh nghiệm Việt Nam,
kinh nghiệm Trung Quốc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
- Vũ Văn Phúc, Trần Thị Minh Châu: Chính sách hỗ trợ của nhà nước
ta đối với nông dân trong điều kiện hội nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2010;
- Nguyễn Từ (chủ biên): Tác động của Hội nhập kinh tế đối với phát

triển nơng nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;
- Mai Ngọc Anh: An sinh xã hội đối với nông dân trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;


6
- Hồng Ngọc Hồ: Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn trong q trình
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2010.
- Các huyện ủy ở Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển nông nghiệp trong giai
đoạn hiện nay, luận văn Thạc sỹ Khoa học chính trị, Học viện chính trị hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2010.
- Đánh giá thực hiện chính sách nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở
Vĩnh Phúc hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học năm 2011.
Ngồi ra, cịn có một số đề tài nghiên cứu và nhiều bài viết về vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thơn nhưng qua khảo sát sơ bộ, các cơng trình
khoa học trên đã tập trung đánh giá kết quả và ảnh hưởng của nông nghiệp,
nông thôn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; giải pháp phát triển trong thời
kỳ hội nhập và chuyển sang nền kinh tế thị trường. Một số đề tài tiếp cận theo
hướng xây dựng Đảng, phạm vi nghiên cứu chính sách rộng, chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu đánh giá thực thi chính sách hỗ trợ tài chính đối
với nơng nghiệp, nơng thôn và nông dân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Tài liệu trên rất quý để tác giả kế thừa, phục vụ cho đề tài nghiên cứu
của mình. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu ở góc độ chính trị học về thực thi
chính sách hỗ trợ tài chính đối với nơng nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay chưa có cơng trình, đề tài nào đi sâu nghiên cứu
ở Vĩnh Phúc. Do vậy, nghiên cứu về thực thi chính sách hỗ trợ tài chính đối
với nơng nghiệp, nông dân, nông thôn ở Vĩnh Phúc hiện nay nhìn từ góc độ
chính trị học gắn với thực tiễn ở Vĩnh Phúc nhằm đưa ra giải pháp cho phù
hợp với địa phương giai đoạn hiện nay là cần thiết.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về thực thi chính sách cơng, khảo sát thực thi chính
sách hỗ trợ tài chính đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Vĩnh Phúc


7
hiện nay, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi chính sách hỗ trợ tài chính đối với nơng nghiệp, nơng dân,
nơng thôn ở Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách cơng và
thực thi chính sách cơng.
- Phân tích, đánh giá q trình thực thi chính sách hỗ trợ tài chính đối
với nơng nghiệp, nơng dân, nơng thôn ở Vĩnh Phúc từ năm 1997 (khi tái lập
tỉnh) đến nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi chính sách hỗ trợ tài chính đối với nơng nghiệp, nơng dân, nơng thôn
ở Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu, về lý luận và thực tiễn, việc thực thi chính sách
hỗ trợ tài chính (với tính chất là 1 giai đoạn của chu trình chính sách cơng)
của Trung ương và địa phương về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông
thôn ở Tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay (từ 1997 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn hiện
nay, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp liên ngành và chun ngành như
lịch sử, lơ-gic; phân tích - phân tích hệ thống, phân tích chính sách; tổng hợp,
điều tra, khảo sát, thống kê, v.v... đặc biệt là phương pháp phân tích chính
sách - với tính chất là sản phẩm hay "đầu ra" của hệ thống chính trị.


8
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về phương pháp và kết quả thực thi
chính sách hỗ trợ tài chính đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa
bàn Vĩnh Phúc từ góc độ Chính trị học.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể cung cấp những dữ liệu, các phân tích đánh giá thực
hiện chính sách hỗ trợ tài chính đối với nơng nghiệp, nông dân, nông thôn ở
tỉnh Vĩnh Phúc cho các cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý;
có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo, cơ quan nghiên cứu, nhất
là cấp địa phương và các cơ sở trên địa bàn Vĩnh Phúc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


9
Chương 1
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NƠNG NGHIỆP,
NÔNG DÂN, NÔNG THÔN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ TÀI CHÍNH VÀ THỰC THI
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TÀI CHÍNH

1.1.1. Hỗ trợ tài chính

Tiếp cận theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lê nin cho thấy, khi xã
hội có sự phân cơng lao động, có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
và sản phẩm lao động, nền sản xuất hàng hoá ra đời và tiền tệ xuất hiện. Sự ra
đời của nền sản xuất hàng hóa - tiền tệ làm xuất hiện các nguồn tài chính, đó
là của cải xã hội được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Sản xuất và trao đổi
hàng hoá xuất hiện, theo đó tiền tệ xuất hiện 1 cách khách quan là vật ngang
giá chung trong qúa trình trao đổi. Tiền tệ đã được các chủ thể trong xã hội
(gồm các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân) sử dụng vào việc phân
phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để tạo lập nên quỹ tiền tệ riêng
phục vụ cho mục đích riêng của mỗi chủ thể.
Cùng với quá trình phát triển xã hội, khi nhà nước ra đời đã thúc đẩy sự
phát triển của hoạt động tài chính. Nhà nước tạo lập quỹ ngân sách nhà nước
thơng qua qúa trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị,
hình thành lĩnh vực tài chính nhà nước để thúc đẩy phát triển nền kinh tế hàng
hóa và mở rộng phạm vi hoạt động của tài chính.
Khái niệm về hỗ trợ về tài chính và hỗ trợ tài chính được rất nhiều nhà
nghiên cứu từ các cách tiếp cận khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt: “hỗ trợ là
giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào” [51, tr.457]; tài chính là việc quản lý của
cải xã hội tính bằng tiền, theo những mục đích nhất định, là tiền nong và sự
thu chi (hiểu khái quát).


10
Theo từ điển Kinh tế học: “tài chính nhà nước cịn gọi là ngân sách nhà
nước là bản dự tốn tài chính của chính phủ, trong đó ghi rõ các nguồn thu và
khoản chi dự kiến trong một năm tài chính hay tài khố” [30, tr.397].
Như vậy, tài chính là phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối
của cải xã hội dưới hình thức giá trị phát sinh trong qúa trình hình thành, tạo
lập, phân phối các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục
tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.

Trên cơ sở khái niệm hỗ trợ và khái niệm tài chính có thể hiểu hỗ trợ tài
chính là hoạt động trợ giúp tiền tệ của một chủ thể nắm giữ tiền tệ trong xã
hội để tác động vào các quan hệ trong xã hội thông qua sự chi phối trực tiếp
hoặc gián tiếp nhằm đạt được mục đích đã được định trước.
Phân loại tài chính theo hệ thống gồm 7 loại: Tài chính cơng gồm ngân
sách nhà nước và các quỹ ngân sách được nhà nước hạch tốn; Tài chính
doanh nghiệp; Tài chính quốc tế; Tài chính hộ gia đình, cá nhân; Tài chính
các tổ chức xã hội; Tài chính trung gian gồm tín dụng, bảo hiểm; Thị trường
tài chính gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Với cách tiếp cận theo hệ
thống tương ứng sẽ có 7 loại hỗ trợ tài chính khác nhau. Nhưng chúng đều có
chung mục đích là huy động, tạo lập nguồn tài chính, khai thác nguồn tài
chính để phát triển kinh tế, xã hội theo quy luật kinh tế khách quan; để phân
phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
1.1.2. Chính sách hỗ trợ tài chính
1.1.2.1. Khái niệm về chính sách, chính sách hỗ trợ tài chính
Khoa học nghiên cứu chính sách đã có bề dày phát triển trên thế giới.
Thời kỳ đầu ở Phương Tây, các nhà chính trị và khoa học tập trung chủ yếu
vào các q trình chính trị. Từ giữa những năm 40 thế kỷ XX (chủ yếu do vai
trò trung tâm của nhà nước trong công cuộc tái thiết sau chiến tranh thế giới
lần thứ 2), họ tập trung phân tích về chính sách cơng. Vào những năm 50,
nghiên cứu độc lập về chính sách mới trở nên rõ ràng. Trong những năm 60,


11
đã đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt trong việc ứng dụng thực
tiễn. Những năm 1970 và 1980 đã cho thấy sự phát triển nhanh chóng.
Từ cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau có thể nhìn nhận chính
sách với nghĩa rộng, đó là mục tiêu chính trị, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến
lược trong chính trị; là những lực lượng xã hội để thực hiện mục tiêu; là giải
pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu; là con đường để thực hiện mục tiêu trong

chính trị. Chính sách thể hiện tư duy người lãnh đạo, người lãnh tụ, người thủ
lĩnh chính trị, giới lãnh đạo chính trị, giới tinh hoa chính trị. Chính sách là
đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng phải chính trị, đặc biệt là của
Đảng cầm quyền - nhân tố quyết định thực thi quyền lực. Chính sách là
chương trình hành động của giai cấp thống trị trong xã hội ở một giai đoạn,
một thời kỳ nhất định. Tựu chung lại: chính sách theo nghĩa rộng là chương
trình hành động dài hạn của các tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị xã hội,
hướng vào mục tiêu giành chính quyền và thực thi quyền lực nhà nước. Chính
sách theo nghĩa rộng là sản phẩm của Đảng thuộc giai cấp thống trị, Đảng chính
trị, xã hội chính trị, cơ quan đại diện cho giai cấp, các nhóm xã hội.
Chính sách với nghĩa hẹp là chương trình hành động, hướng đến thực
hiện mục tiêu nào đó của nhà nước, được thực hiện bằng những phương thức,
phương tiện, phương pháp, công cụ khác nhau. Chính sách theo nghĩa hẹp là
sản phẩm của nhà nước, gắn với nhà nước, là chính sách cơng, là kết quả của
sự tương tác giữa các cơ quan, các yếu tố cấu thành của bộ máy nhà nước, là
kết quả của sự tương tác giữa các tổ chức bên ngoài với nhà nước.
Trên cơ sở nội hàm của khái niệm chính sách, khái niệm hỗ trợ chính
sách, có thể hiểu chính sách hỗ trợ tài chính là chương trình hành động,
hướng đến thực hiện mục tiêu nào đó của nhà nước, từ hỗ trợ tài chính được
thể hiện bằng những phương thức, phương tiện, phương pháp, công cụ khác
nhau. Bản chất chính sách hỗ trợ tài chính là chính sách cơng tiếp cận theo
góc độ chun ngành tài chính.


12
1.1.2.2. Chu trình chính sách hỗ trợ tài chính
Chu trình chính sách hỗ trợ tài chính là một q trình từ hoạch định đến
thực hiện cho ra kết quả cuối cùng. Về tổng thể, chính sách hỗ trợ tài chính có
chu trình như chu trình chính sách gồm bốn giai đoạn: xác lập nghị trình; xây
dựng và ban hành; triển khai thực hiện; tổng kết và đánh giá chính sách.

Giai đoạn 1, xác lập nghị trình chính sách
Xác lập nghị trình (chương trình nghị sự) chính là việc tìm kiếm sự
nhất trí về mục tiêu căn bản mà chính sách cần đạt hay cịn gọi là xác định
vấn đề chính sách. Căn cứ lý luận chính của việc xác định vấn đề là: trong
những trường hợp nhất định, chính sách của Nhà nước sẽ mang lại hiệu quả
tối ưu trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là tiêu chí quan trọng trong
việc xác định một vấn đề có cần chính sách cơng cũng như ngun nhân
chính của vấn đề đó.
Căn cứ thực tế của việc xác định vấn đề là: Nhà nước có làm tốt hơn thị
trường trong thực tiễn của đất nước khơng? Vấn đề chính sách đó có tác động
rộng lớn đến đa số dân chúng khơng? vấn đề đó có thực sự nằm trong những
ưu tiên chính trị khơng? Việc xác lập nghị trình - là điểm khởi đầu của mọi
chính sách , yếu tố đầu vào của chính sách. Mọi vấn đề chính sách đều nảy
sinh từ những dữ kiện thực tế, thông qua ba nguồn quan trọng nhất là: số liệu
thống kê, các sự kiện và các nhận định.
Để có thể xác định đúng vấn đề chính sách các nhà hoạch định chính
sách cần phải nắm được nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, tận dụng
được sự ủng hộ của các phương tiện thơng tin đại chúng và kiểm sốt được
nghị trình chính thức của chính quyền. Các vấn đề chính sách để đưa vào nghị
trình và bàn luận thực sự, một vấn đề cần thoả mãn ba yêu cầu căn bản là: tầm
quan trọng của vấn đề, hồn cảnh chính trị thích hợp và sự ủng hộ chính trị.
Giai đoạn 2, quyết định chính sách (xây dựng và ban hành chính sách)
Kết quả của việc thảo luận các vấn đề đưa trong chương trình nghị sự là
sự nhất trí về việc cần thiết phải có các chương trình giải quyết các vấn đề


13
chính sách, Trong thực tế sự nhất trí đó phải được cụ thể hoá bằng các kế
hoạch hành động, bằng văn bản pháp quy, tức các quyết định chính sách. Đây
chính là khn khổ pháp lý căn bản cho các chương trình hành động cụ thể

của các cơ quan liên quan. Đây khơng chỉ là kế hoạch có tính kỹ thuật mà còn
là cơ sở pháp lý cho việc sử dụng quyền lực công trong thực hiện và khi cần
thiết cưỡng chế thi hành chính sách.
Các vấn đề cần xem xét trong phần này có thể bao gồm: Có những biện
pháp nào để giải quyết các vấn đề được nêu ra? Những biện pháp này được
phát triển và bổ sung như thế nào? Ai tham gia và đóng vai trị quan trọng đến
đâu trong việc hình thành chính sách? Tại sao chính sách này được thơng
qua? Các u cầu nào của chính sách đó là chính yếu? Ai thơng qua và tại sao
thơng qua chính sách đó?
Khoa học chính trị phân tích giai đoạn này theo hai phần cũng là hai
q trình có những đặc điểm khác nhau cả về kỹ thuật chun mơn cũng như
các khía cạnh chính trị: một là xây dựng (nội dung) chính sách, hai là thơng
qua, ban hành (văn bản) chính sách.
Giai đoạn 3, triển khai (triển khai thực hiện) chính sách cơng
Việc triển khai một chính sách sẽ được quy định bởi văn bản của chính
phủ, bao gồm việc ban hành các văn bản cụ thể hơn có tính pháp lý, quy định
trách nhiệm, quyền hạn cũng như việc thực thi các hành động và biện pháp cụ
thể. Các chủ thể triển khai quan trọng nhất là các cơ quan hành chính cùng
với các viên chức của mình. Các viên chức ở ngành lập pháp và tư pháp cũng
có những vai trị quan trọng, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách có
liên quan đến các hoạt động tranh tụng.
Liên quan đến quá trình triển khai chính sách, có thể xuất hiện một số
câu hỏi như: Ai triển khai? Có các vấn đề khó khăn nào trong q trình triển
khai? Các cách triển khai có ảnh hưởng đến nội dung chính sách khơng và
nếu có thì ở mức độ nào hoặc ai là người được thụ hưởng khi chính sách được
thực thi? Tập thể, cá nhân hay chỉ một nhóm người?


14
Để triển khai có hiệu quả, cơ quan được giao nhiệm vụ triển khai phải

có đủ nguồn tài chính, nhân lực, vật lực; đủ thẩm quyền kỹ thuật chuyên môn
để biến các mục tiêu thành các chương trình hành động cụ thể thích hợp và
phải chịu trách nhiệm giải trình các triển khai đó.
Giai đoạn 4, tổng kết, đánh giá chính sách cơng
Đánh giá chính sách bao gồm đánh giá kết quả thực tế quá trình xây
dựng và triển khai, hiệu quả và các tác động thực tế của chính sách để tổng
kết rút kinh nghiệm. Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn này,
tác giả đặc biệt quan tâm đến vấn đề đánh giá chính sách.
1.1.2.3. Vai trị của chính sách hỗ trợ tài chính
Chính sách hỗ trợ tài chính là một hoạt động của nhà nước, là một trong
những hình thức để cụ thể hệ tư tưởng, các nguyên tắc chỉ đạo và đường lối
phát triển của một chính Đảng. Và chính sách đưa ra khơng hợp lịng dân,
khơng phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội thì (nhà nước) chính phủ
đó sẽ bị thay thế (nhà nước) chính phủ khác. Vì vậy, chính sách đúng đắn hiệu
quả, hợp lịng dân có vai trò quyết định trong việc giành, giữ và thực thi
quyền lực chính trị. Mục đích chính sách là hướng đến giải quyết những vấn
đề, những nan giải cụ thể trong xã hội thuộc các vấn đề công cộng trong một
thời gian nhất định và mang tính bắt buộc. Vì vậy, chính sách có vai trị nhất
định trong việc thu hút các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải thực hiện và
tham gia nhằm xây dựng, phát triển xã hội.
Chính sách ra đời phải theo chu trình gồm 4 giai đoạn, thơng qua việc
xác định các ưu tiên chính trị trong việc lựa chọn các vấn đề nào cần giải
quyết, đối tượng, tâng lớp, giai cấp nào cần ưu tiên… trên cơ sở phân tích các
khía cạnh chính trị, những mâu thuẫn về lợi ích giữa các cá nhân, nhóm lợi
ích… để có giải pháp điều hồ. Do vậy, chính sách có vai trị duy trì ổn định
và phát triển xã hội, giải quyết được kịp thời những khó khăn, vướng mắc
thực tiễn yêu cầu với lợi ích tối đa trong khoản chi phí thấp nhất.


15

Tóm lại, chính sách hỗ trợ tài chính có vai trị đảm bảo sự ổn định về
chính trị, xã hội và các định hướng chính sách, đặc biệt là chính sách kinh tế
vĩ mô; xây dựng được các khuôn khổ pháp lý, hệ thống luật đồng bộ, thống
nhất áp dụng trên địa bàn quản lý; đầu tư phát triển và cung cấp các dịch vụ
xã hội căn bản mà tổ chức, cá nhân khó có thể làm được như: giáo dục y tế,
kết cấu hạ tầng cơ sở, an ninh… ; thực hiện xóa đói giảm nghèo, đảm bảo cơng
bằng xã hội thơng qua chính sách hỗ trợ tài chính; bảo vệ mơi trường, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, phong tục tập quán tốt đẹp ở địa phương thông qua nhà
nước hỗ trợ đầu tư khôi phục, phát triển văn hóa, cải thiện mơi trường.
1.1.3. Thực thi chính sách hỗ trợ tài chính
Thực thi chính sách là một giai đoạn trong quy trình chính sách, trong
giai đoạn đó, chính sách được đưa vào áp dụng trong cuộc sống nhằm đem lại
những kết quả thực tế đáp ứng mục tiêu đề ra.
Có thể nói, thực thi chính sách là giai đoạn biến các ý đồ chính sách
thành những kết quả thực tế thơng qua hoạt động có tổ chức của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước nhằm đạt tới những mục tiêu đã đề ra.
Chính sách được hoạch định xuất phát từ yêu cầu khách quan của thực
tế, từ những như cầu của xã hội, của nhân dân. Thực thi chính sách là q
trình giải quyết trên thực tế những nhu cầu đó, đem lại những biến đổi trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Trong q trình thực thi chính sách, các nguồn lực vật chất, tài chính,
khoa học công nghệ và con người được đưa vào các hoạt động có tính định
hướng để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nói khác đi, đây là q trình kết hợp
giữa con người với nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học cơng nghệ nhằm
sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu quả theo những mục tiêu đề ra.
Thơng thường triển khai chính sách được quy định bởi văn bản pháp
lý của chính phủ. Nội dung văn bản quy định rõ tính kỹ thuật; xác định rõ chủ
thể triển khai chính sách là ai, cơ quan nào; mối quan hệ rằng buộc giữa các



16
cơ quan triển khai, nguồn ngân sách, nhân lực và phương thức triển khai
chính sách. Do vậy, giai đoạn triển khai (thực thi) chính sách bao gồm việc
ban hành văn bản cụ thể có tính pháp lý, quy định trách nhiệm, quyền hạn của
chủ thể triển khai chính sách, những hành động và biện pháp cụ thể để đưa
chính sách vào cuộc sống.
Chủ thể thực thi chính sách trước hết và quan trọng nhất là các cơ
quan hành chính nhà nước, bởi vì đây chính là các cơ quan có nhiệm vụ quản
lý và tổ chức triển khai các công việc hàng ngày của nhà nước để đạt được
các mục tiêu đặt ra. Chính sách là những nhiệm vụ mà nhà nước đề ra trên các
lĩnh vực, đương nhiên phải do các cơ quan hành chính nhà nước quản lý và tổ
chức thực thi. Tuy nhiên, các cơ quan lập pháp và tư pháp cũng như các đảng
phái, đoàn thể cũng có vai trị quan trọng trong việc huy động và tổ chức lực
lượng tham gia triển khai chính sách.
Trên thực tế giai đoạn thực thi chính sách được coi là giai đoạn tổng
hợp của ba giai đoạn của quy trình chính sách (hoạch định chính sách, thực
thi chính sách, đánh giá chính sách). Nhiều chính sách do các cơ quan trung
ương đề ra và giao cho địa phương thực hiện, nhưng khi chính sách về đến địa
phương, người ta phải tiến hành nghiên cứu áp dụng nó cho phù hợp với thực
tế của địa phương. Điều đó có nghĩa là giai đoạn thực thi chính sách lại bao
hàm cả nội dung hoạch định chính sách. Từ đó, có thể giải thích tại sao nhiều
chính sách của Trung ương lại khơng được thi hành triệt để. Hơn nữa, trong
q trình thực hiện chính sách, người ta phải tiến hành đánh giá chính sách để
có thể điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mục tiêu. Vì vậy, giai đoạn thực thi
chính sách lại bao gồm cả những cơng việc thuộc về đánh giá chính sách.
Để triển khai có hiệu quả chính sách phải đảm bảo 3 điều kiện tối thiểu:
Một là: Cơ quan được giao nhiệm vụ thực thi chính sách phải có đủ
nguồn tài chính, nhân lực, vật lực cho việc triển khai.
Hai là: Cơ quan được giao phải có đủ thẩm quyền, kỹ thuật chun
mơn để biến các mục tiêu thành chương trình hành động cụ thể thích hợp.



17
Ba là: Cơ quan này phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền, phải có trách nhiệm giải trình về các hoạt động
triển khai chính sách; nếu vi phạm phải bị xử lý theo khung pháp luật quy
định. Tức là quá trình thực thi chính sách phải xác định rõ trách nhiệm trong
công việc của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực thi chính sách.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG
DÂN, NÔNG THÔN

1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn
Khi bàn về vai trị sản xuất của cải vật chất, Ănghen đã khẳng định
rằng, trước hết con người cần phải có ăn, uống, ở, mặc, trước khi lo đến
chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo, v.v.. Đúng vậy, xã
hội ngày càng phát triển thì nhu cầu của con người về sản phẩm thiết yếu
được sản xuất ra từ nông nghiệp ngày càng tăng và đa dạng, phong phú. Vì
vậy, phải đặc biệt quan tâm phát triển sản xuất nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu. Hơn nữa, xét về mặt xã hội, cuộc đấu tranh
giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại và xây dựng xã hội mới của giai
cấp cơng nhân, Đảng Cộng sản chỉ có thể giành được thắng lợi trên cơ sở
xây dựng được khối đại đồn kết liên minh cơng nơng vững chắc. Tổng kết
các bài học kinh nghiệm của công xã Pari, chủ nghĩa Mác khẳng định: Để
có thể giành và giữ chính quyền giai cấp vô sản thành thị phải liên minh
với giai cấp nông dân, nếu không “bài ca” của giai cấp vô sản sẽ trở thành
“bài ai điếu”. Khối liên minh ấy càng phải luôn luôn được giữ vững, tăng
cường sau khi giành được chính quyền, thực hiện cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Ở những nước nông nghiệp nếu giai cấp cơng nhân khơng
nhận thức đúng vị trí của vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì những cải biến xã hội chủ nghĩa
sẽ không tránh khỏi những thất bại.


18
Về kinh tế nông dân, Mác, Ăngghen và Lênin đều thống nhất quan
niệm kinh tế nông dân là một bộ phận chủ yếu của thành phần hàng hoá nhỏ,
tồn tại khách quan và lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì người
nơng dân là một nhân tố rất cơ bản của dân cư, của nền sản xuất và của chính
quyền, nên sự tồn tại của nó có lợi cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh
chống CNTB; mặt khác, tâm lý, tập quán sản xuất nhỏ tồn tại hàng trăm năm
đã tạo “một cơ sở có những cội rễ rất sâu và rất chắc” vào ý thức tư hữu của
người nơng dân, vì vậy việc thay thế chế độ tư hữu nhỏ bằng chế độ công hữu
là không thể tiến hành một lần là xong được. Lênin đã cực lực phê phán
những tư tưởng nóng vội muốn xố bỏ ngay mọi hình thức tư hữu để xác lập
chế độ công hữu.
Về cải tạo sản xuất nhỏ Mác, Ăngghen và Lênin đều có quan niệm là
phải lơi cuốn nơng dân đi theo CNXH. Nếu giải phóng nơng dân mà chỉ dừng
lại ở việc đưa ruộng đất và tự do cho họ, thì đó mới chỉ là bước đầu; nhiệm vụ
của giai cấp vơ sản và chính đảng. Đó là phải xố bỏ tư hữu, dẫn dắt nơng dân
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, để không vì sự yếu đuối và thiếu năng
lực cạnh tranh của họ mà bị phân hoá trong guồng máy TBCN. Con đường
để cải tạo nông dân là tập hợp họ vào các hợp tác xã, vì những người nơng
dân sau khi thốt khỏi chế độ bóc lột của CNTB, thành người tự do và được
chia ruộng đất thuộc nhà nước. Nhưng sự thâm nhập của sản xuất hàng hố
vào nơng nghiệp, sự cạnh tranh giữ nông dân, những cuộc đấu tranh giành đất
đai, giành độc lập kinh tế, v.v. đã dẫn đến tình trạng phân hố trong nơng dân,
giai cấp tư sản nông dân lấn át trung nông và dân nghèo. Vì vậy, chừng nào
người nơng dân chưa chưa trở thành những người lao động tập thể trong các
HTX thì chừng đó vẫn cịn nguy cơ đói nghèo và bóc lột. Trong tác phẩm Vấn

đề nông dân ở Pháp (1894), khi trình bày những ngun lý của chính sách
nơng nghiệp xã hội chủ nghĩa, Ăngghen cho rằng, “Nhiệm vụ của chúng ta
đối với tiểu nông trước hết phải hướng quyền sở hữu cá thể và nền kinh doanh


19
cá thể vào con đường kinh doanh hợp tác” [2, tr.9]. Ănghen còn khẳng định,
“Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nơng, chúng ta cố tìm đủ mọi
cách để làm cho số phận của họ dễ chịu hơn, để cho họ chuyển sang hợp tác
xã được dễ dàng hơn, nếu họ quyết như thế” [2, tr.10]. Sau này Lênin làm rõ
thêm rằng, HTX là hình thức kinh tế quá độ thích hợp để chuyển từ tiểu sản
xuất sang đại sản xuất, đưa những nhà sản xuất nhỏ lên CNXH, do đó đưa
nơng dân vào HTX là con đường duy nhất mang lại lợi ích cho họ, và cũng là
con đường cơ bản nhất, dễ dàng nhất để cải tạo họ theo CNXH.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng: trong q
trình cải tạo nơng dân, cần có những bước đi thận trọng, với những chính sách
và biện pháp thích thích hợp. Mặc dù, tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin là
xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu trong CNXH, nhưng điều đó
khơng có nghĩa là phải tiến hành ngay một lúc tất cả các tư liệu sản xuất xã
hội, mà ngược lại có thể cần phải sử dụng những giải pháp mềm dẻo, linh
hoạt, thích hợp với tình hình cụ thể của cách mạng. Tức là, việc xố bỏ các
thói quen, xố bỏ địa vị kinh tế của thành phần sản xuất hàng hoá nhỏ, đưa
những người sản xuất hàng hoá nhỏ lên CNXH là một tất yếu, phải bằng biện
pháp giúp đỡ nông dân, phải lôi kéo họ tham gia HTX bằng chính việc làm tốt
đẹp của HTX.
Thấm nhuần những quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong
“Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam”, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: "Việt
Nam là nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nơng làm gốc.
Trong cơng cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân,
trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nơng dân ta giàu thì nước ta giàu,

nơng nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh" [28, tr.215].
Về mối quan hệ và vai trị của phát triển nơng nghiệp, nông thôn đối
với các ngành kinh tế khác của nền kinh tế quốc dân đã được Hồ Chí Minh
xác định: "Phải lấy nơng nghiệp làm chính, nhưng phải tồn diện, phải chú ý


20
các mặt cơng nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thơng, kiến
trúc, văn hố, giáo dục, y tế, v.v. các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp
làm trung tâm" [29, tr.352].
Điều này đòi hỏi mọi chủ trương, đường lối, phương châm, kế hoạch,
mục tiêu phát triển của công nghiệp và các ngành kinh tế khác phải lấy nông
nghiệp, nơng thơn làm đối tượng phục vụ, phải có chính sách ưu tiên, ưu đãi
đối với nông nghiệp và nông thôn. Như vậy, Người không chỉ nhấn mạnh
mối quan hệ hữu cơ giữa ngành công nghiệp với nông nghiệp mà cịn chỉ rõ
vấn đề có tính quy luật trong q trình điều hành của Nhà nước, thể hiện ý chí
của Đảng, nguyện vọng của nhân dân, là cơ sở để đồn kết khối liên minh
cơng nơng. Về sự cần thiết phải xây dựng và phát triển hợp tác hố trong
nơng nghiệp, nông thôn. Theo Người, nước ta với điểm xuất phát là một nước
nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, vì vậy, làm hợp tác xã sẽ có lợi như quy luật tất yếu.
Bởi hợp tác xã nông nghiệp, nông thôn là chiếc cầu nối đưa nền sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đưa nông dân từ chỗ làm ăn phân tán, manh
mún lên chỗ làm ăn tập thể, tập trung thống nhất. Phát triển hợp tác xã phải
triệt để tuân thủ các nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, từ
thấp lên cao và có sự giúp đỡ của Nhà nước. HTX nông nghiệp là điều kiện
cần thiết để xã hội hố nơng nghiệp, nơng thơn.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nông nghiệp,
nông thôn, nông dân
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị của giai

cấp nơng dân trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2/1930) đã xác định phải “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản”.
Để thực hiện được phải “xây dựng chính phủ công nông binh” và “thâu hết
ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân nghèo”, “bỏ sưu


21
thuế cho dân cày nghèo”. Như vậy, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng
Cộng sản Việt Nam ln xác định nông dân và ruộng đất là một trong những
vấn đề cốt lõi của cách mạng. Sự nghiệp giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng
lợi hồn tồn khi giải quyết được vấn đề nông dân và ruộng đất.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, liên minh công - nơng - trí thức là
nền tảng của chính quyền, là công cụ sắc bén trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954) việc ban
hành và thực thi chính sách nông nghiệp của Nhà nước, nông nghiệp miền
Bắc bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, sản phẩm hàng hoá tăng, đời sống
nông dân được ổn định. 81 vạn ha ruộng đất đã được đưa về 2,1 triệu hộ nông
dân, chính sách giảm thuế nơng nghiệp góp phần thúc đấy kinh tế-xã hội phát
triển. Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), Đảng ta chủ trương
đẩy mạnh cải tạo và phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn
XHCN. Ở Miền Nam q trình hợp tác hố được đẩy mạnh, hàng triệu ha
ruộng đất được hợp tác hố, hàng triệu nơng dân đã vào HTX và tổ đổi công.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới
theo định hướng XHCN
Tuy nhiên, trong một thời gian dài, do phải tiến hành 2 cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ và thực hiện chế độ bao cấp, thực hiện tất cả
cho tiền tuyến nên những chỉ đạo về nông nghiệp, nông thôn, nông dân cịn có
những hạn chế. Thực hiện biện pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa, nơng nghiệp chỉ
cịn tồn tại dưới hình thức sở hữu hợp tác xã và nơng trường quốc doanh. Các

nguyên tắc hợp tác hoá theo tư tưởng của Lênin và Hồ Chí Minh như tự
nguyện, quản lý dân chủ, đi từng bước vững chắc đã được thay thế bằng
phương pháp tập thể hố với quy mơ lớn, tốc độ nhanh nhưng chưa phát huy
hết tính tự nguyện, tính sáng tạo tích cực của nơng dân. Do quá chú trọng ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng nên chưa thật sự coi trọng công nghiệp nhẹ
và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế. Trong công tác quản lý còn nhiều


22
thiếu sót, duy trì q lâu mơ hình kinh tế quan liêu bao cấp làm cho nền nông
nghiệp Việt Nam chậm được phục hồi sau chiến tranh và rơi vào tình trạng
khủng hoảng, đời sống của các tầng lớp nhân dân trước hết là nơng dân vơ
cùng khó khăn.
Đại hội IV Đảng chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm (1976 1980) là: Tập trung cao độ lực lượng của cả nươc của các ngành, các cấp tạo
ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp. Ban Bí thư đã ban hành Chỉ
thị 100-CT/TƯ (gọi tắt là Chỉ thị 100) về cải tiến công tác quản lý sản xuất
nơng nghiệp, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các
HTX nơng nghiệp (Khốn 100) xác lập trở lại đúng vị trí của hộ nông dân, coi
hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ bản trong sản xuất nông nghiệp. Sự trở lại
với đơn vị kinh tế cơ bản là hộ gia đình trong sản xuất nơng nghiệp đã tạo lên
một sinh khí mới cho hoạt động sản xuất, giải toả tình trạng bế tắc, trì trệ của
mơ hình HTX thời gian đó. Những thay đổi bước đầu này là rất quan trọng và
đã đem lại những kết quả tích cực và rõ rệt. Nhưng kết quả vẫn chưa tập trung
sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ một cách đúng mức mà vẫn
thiên về xây dựng công nghiệp nặng. Đến Đại hội V của Đảng xác định:
Trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80 cần tập trung sức phát triển nông
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đại hội VI của Đảng đã quyết
định đổi mới toàn diện cả về tư duy lãnh đạo, quản lý và cả về chính sách, cơ
chế quản lý kinh tế -xã hội, trong đó điểm mấu chốt là chủ trương kiên quyết
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế quản lý mới

theo nguyên lý thị trường mà ngày nay được gọi là cơ chế thị trường XHCN.
Nổi bật nhất của tư duy mới về cơ cấu kinh tế là đẩy mạnh phát triển kinh tế
hàng hố nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể
phát triển, chú ý kích thích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển, chú ý kích thích
lợi ích cá nhân làm động lực cho phát triển kinh tế, điều chính việc xây dựng
cơ cấu kinh tế ngành. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10 về “Đổi mới


23
quản lý kinh tế nông nghiệp” ngày 05 tháng 4 năm 1988 (Khoán 10). Với tư
tưởng đổi mới tiếp tục giải phóng sức sản xuất, chuyển nền nơng nghiệp đang
cịn tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần; đa dạng hố sản
xuất, phát triển nơng thơn tồn diện và cơng nghiệp hố nơng thơn; điều chỉnh
quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, giao khoán đất đến hộ nơng dân xã viên;
khẳng định vai trị tự chủ của hộ xã viên, khuyến khích làm giàu bằng lao
động chính đáng; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích, nhất là lợi
ích chính đáng của người sản xuất; vai trò của HTX là làm dịch vụ đầu vào
và đầu ra cho hộ xã viên; thực hiện phân phối theo lao động và cổ phần đóng
góp của xã viên. Trong q trình thực hiện nghị quyết đại hội đã khẳng định
“nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt mạnh hàng đầu, không được đảm
bảo những điều hiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các
chính sách khuyến khích ” [14, tr.21].
Đại hội VII của Đảng đã xác định nền kinh tế quốc dân sẽ bao gồm
nhiều ngành nghề, nhiều quy mơ, nhiều trình độ cơng nghệ; phát triển nơng lâm- ngư nghiệp gắn với công nghệ chế biến và xây dựng nông thôn mới là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình phát triển kinh tế-xã hội.
Cụ thể hoá đường lối Đại hội VII, Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (10/6/1993) đã
ra Nghị quyết quan trọng tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn với trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Lần đầu tiên nghị quyết của Đảng về
chính sách tài chính, Nhà nước giành phần đầu tư thoả đáng từ ngân sách;

đồng thời có chính sách và hình thức huy động nguồn đầu tư của các thành
phần kinh tế khác cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Thay thuế nông
nghiệp bằng thuế sử dụng đất, dành toàn bộ nguồn thu từ thuế sử dụng đất đầu
tư trở lại cho nông nghiệp và kết cấu hạ tầng nơng thơn, giảm giá thuỷ lợi phí
và giá điện nông thôn, v,v.. Tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khố IX thơng qua
Luật Đất đai với nhiều nội dung mới, trong đó quy định Nhà nước giao quyền


24
sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng với 5 quyền:
Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp; và thuế suất thấp
hơn thuế nơng nghiệp đã góp phần giảm đóng góp của nơng dân và khuyến
khích hộ gia đình sử dụng đất nơng nghiệp có hiệu quả hơn. Chính phủ đã ban
hành Nghị định 64 về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nơng nghiệp; về thuế sử dụng đất nơng
nghiệp (NĐ74/CP) và nhiều chính sách khuyến khích phát triển nơng nghiệp
và kinh tế nơng thơn. Việc ban hành Luật Đất đai và Luật Thuế sử dụng đất
năm 1993 đã đáp ứng kịp thời nguyện vọng của hộ nơng dân: Làm chủ thực
sự ruộng đất của mình với quyền lợi, nghĩa vụ rõ ràng, có lợi cho người nông
dân với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ.
Đại hội lần thứ VIII đề ra nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn. Nội dung cơ bản là: Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nơng
nghiệp- nơng thơn; phát triển tồn diện nơng, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển các ngành nghề, làng nghề
truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất và đời
sống nông dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, từng
bước hình thành nơng thơn mới văn minh - hiện đại.
Nhà nước chủ trương hỗ trợ lãi suất tín dụng cho các doanh nghiệp xuất
khẩu gạo để mua lúa tạm trữ ở đồng bằng sơng Cửu Long, chính sách cho vay

vốn đến hộ nông dân không phải thế chấp. Nhiều chương trình, dự án lớn của
Chính phủ đầu tư vào nông thôn, nông nghiệp được thực hiện với nguồn vốn
ngân sách, vốn vay, vốn viện trợ quốc tế như phủ xanh đất trống đồi núi trọc
(Chương trình 327); trồng mới 5 triệu ha rừng; đánh bắt thuỷ sản xa bờ; xố
đói giảm nghèo; nước sạch nơng thơn, kiên cố hố kênh mương, khuyến khích
xuất khẩu nơng sản, mở rộng thị trường, v.v.. Đại hội lần thứ IX (2001) khẳng
định nhiệm vụ:


25
Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình
thành nền nơng nghiệp hàng hố lớn phù hợp với nhu cầu thị trường
và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề,
cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động nông thôn. Đưa
nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, xây dựng hợp lý cơ
cấu sản xuất nông nghiệp... phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn. Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp)
tăng bình quân hàng năm 4,0 - 4,5% [18, tr.125].
Một loạt các chính sách bổ sung, sửa đổi mới ra đời (chính sách đất đai,
chính sách đầu tư, chính sách thị trường, cơng nghệ, v.v.); tiếp tục hồn thiện
và đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp và kinh tế nông thôn làm cho kinh tế
nông thôn bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng tích cực; quan hệ sản xuất
dần phù hợp hơn với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; sản xuất
lương thực phát triển khá, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có xuất
khẩu; đa dạng hố sản phẩm ngồi lương thực, phát huy lợi thế so sánh, v.v..
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định việc thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn, phát huy vai trị quan trọng của nơng
dân trong sự nghiệp đổi mới và cơng nghiệp hố hiện đại hố nơng nghiệp nơng
thơn. Hội nghị lần thứ 7 BCHTW (khoá X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/
8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết xác định nông nghiệp,

nông thôn, nông dân là cơ sở và là lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phịng,
giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Đảng ta
khẳng định, trong mối quan hệ của nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn thì nơng
dân là chủ thể của q trình phát triển cơng nghiệp hố hiện đại hố nơng nghiệp
nơng thơn. Xây dựng nơng thôn mới gắn với việc xây dựng các cơ sở công
nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản, phát triển tồn
diện, hiện đại hố nông nghiệp là then chốt.


×